Thần thủy chỉ mộc dịch. Hoa trì chỉ một lỗ giữa hai thận, nằm dưới khí huyệt giữa rốn. Rời khỏi Huỳnh đình, cốc khí liền ở đây sinh ra tính, chính là nơi các thầy thuốc gọi là tinh huyệt. Khiếu này, ở thanh niên cường tráng, dương thịnh và khí thông thì thần thủy Hoa trì chẳng qua tưới cho lò vạc, tẩy rửa tì vị, lưu chảy khắp nơi thấm nhuần khí huyệt mà thôi. Ở người nguyên khí suy yếu, tinh, nguyên khôn cạn đều dựa vào đây làm gốc đan. Nguyên khí đã suy, khôngphải là nguyên khí suy yếu mà do khí của khí chất đã quá hao tổn. Tính của tà dục thì niệm niệm không ngừng, tiên thiên đã không hiện được, hậu thiên cũng không đủ dụng, gốc của sự suy kiệt và sự nguy hiểm bắt đầu từ đây. Lỗ Hoa trì sinh ra tinh và đưa xuống thận. Khí mạnh thì tinh nhiều, tinh nhiều thì hoa thịnh, dụng dư thừa. Khí sinh thì tinh và nguyên đều khô cạn. Cốc khí đến chẳng qua chỉ sinh ra một lọai nước nhờ nhờ, chảy về thần phủ. Nhưng ta đã tĩnh rồi, nguyên khí vốn không tăng hay giảm, nhưng Hoa trì không như vậy. Cho nên ba lọai đại dược sẽ thiếu mất một.
Lúc dương sinh ra, và chưa đúng lúc hái nó, dùng ý đưa nó về Vĩ lư, từ Hiệp tích thẳng lên đến Nê hòan. Ở nơi tinh huyệt dụng tinh, tự nhiên theo khí mà dâng lên đến Ngọ cung, gặp chúng dương hòa quyện vào nó, vậy tinh mới có thể dụng. Sau đó, đưa xuống tim, ở tim lấy hống, rồi theo đó đưa xuống Huỳnh đình. Đã vào trong Huỳnh đình thì dùng nhất ý đóng kín, giữ miên miên nhược tồn để dưỡng nó. Tinh và khí ở trong đó tự hỗn trộn hài hòa vào nhau và đan bắt đầu sinh ra.
Gần đây có phái Chiết Tây, dù là kẻ sĩ không cường tráng cũng dùng cách này kết đan. Nhưng đạo ở gần mà cầu quá xa, nên mỗi người tự cho mình là đúng.
Thái (hái) là cầu chân dương ở thận phủ, thủ (lấy) là lấy chân hống ở tâm điền. Có thể hái thì hái, hái nó ắt có được cái dụng của nó. Không đúng lúc mà hái thì rồng không giáng, hổ không thăng. Chỉ thấy khí huyết rần rật, ùn ùn kéo đến, người mê cho là cần giao cấu. Không biết ly khảm là chân dương trong âm, chân âm trong dương, tự dâng cao như vậy ư? Cho dù khí mạch dừng trong một niệm thì khí tật nằm trong mạch của con người, trong ly khảm sẽ thương tổn diên hống. Tuy nói là dưỡng lấy khí, cuối cùng thực ra làm tiêu tan nguyên khí, mất đi nguyên khí ở người. Khi chí tinh bắt đầu hiện ra, đó là khí tiên thiên. Khí hậu thiên luôn tuần hòan. Con người chìm đắm trong dục vọng và không biết suy xét tường tận. Đến lúc hơi định, tâm không có cái dụng khác thì mới biết khí ở trên ở dưới, liền hái nhầm cho là tiên thiên, đến nỗi phải gặp tai họa. Cho nên người học đạo các đời gần đây thường có những căn bệnh kỳ lạ là do vậy. Phàm, con người bệnh tật nên khí huyết trở nên tắc nghẽn. Khí vốn tự điều hòa, nhưng nếu sai khiến nó, làm cho nó lên thì tổn hai tỳ vị, phổi gan, tai mắt, mũi miệng, xuống thì như nước vỡ đê, ào ào tuôn xuống không gì cản nổi. Vậy, vật chí chân há có thể còn có sao?
Ta thương hạng kẻ sĩ này nên vẽ ra sơ đồ thái thủ (thái thủ đồ), đặt lên hàng đầu. Dù đã tiết lộ thẳng ra thiên cơ, nhưng có người có chí ở kim đan mà ngược lại tự hại tính mệnh mình, ta dùng chính lý cứu họ, thái thượng hiếu sinh tất không trách tội. Do vậy, ở sách này đã dùng tất cả những hình ảnh: đao khê, huyền hòang, anh nhi, xá nữ… để ví von, quét sạch và đẩy lùi tuyệt tích. Giúp người hiền xem nó mà tìm hiểu ra chỗ đồng nhất, người ngu xem nó thì nhận biết rõ ràng. Rành mạch sáng tỏ như soi mình trong bảo kính, thấy rõ cả từng sợi lông tóc.
Kẻ sĩ luyện đan, đầu tiên cần làm sáng đức, để đi đến cùng nhân sự. Sau đó trì giữ theo phần tâm luận phía trên, rồi đại dược sẽ sinh và đồ hình sẽ hiện.
Cách hái lấy sinh ra ở tâm. Tâm là đầu mối then chốt của vạn biến hóa, cần dồn chí vào nó mới bắt đầu tìm nó. Cái đáng quên là vọng tâm, cái đán tìm là chân tâm. Nhưng trong vọng sinh ra một ý tìm, đó là tìm kiếm chân tâm. Trong thấp thóang bắt đầu hiện ra chân tâm. Chân tâm đã hiện, có chân tâm này sẽ sinh ra một chân ý, cộng thêm phản quang nội chiếu, và mọi lỗ trên thân đều mở ra, nguyên tinh nhả hoa, điều này phải do ở chỗ vô sinh hữu, rồi từ hữu sinh vô. Đến cảnh giới này, ngay cả chân tâm cũng quên và bỏ đi. Ta dùng vô mà đối đãi với mình, thì chân tức sẽ miên miên (rất nhẹ nhàng mà không dứt). Khi chân tức miên miên, khí hậu thiên đã định. Hậu thiên đã ẩn, khí tiên thiên sẽ hiện, nên dương sinh ra.
Dương sinh thì khí tiên thiên từ trong huyệt khí tuôn ra và vào đến trong thận như bọt khí phun trào. Giữa hai thận có một đường qua khí huyệt, và sau khi cha mẹ giao cấu mới bắt đầu sinh ra kinh mạch. Khi khí tiên thiên đi đến đó, đã cảm thấy như vậy thì trăm mạch trong tòan thân đều tựa như hồi xuân. Ý xuân lan ra và dần lớn lên, lúc này thể tiên thiên bắt đầu lập. Tiên thiên đã lập thì hậu thiên thóai lui, sau đó có thể khẽ nhen lên ý hái lấy.
Ý, theo mắt quán xuống tim, rồi lại từ tim buông ra đưa xuống vào Dương cung. Từ từ thu lại rồi thả ra, dương sẽ khởi lên. (Phần còn lại xem ở Nhất dương luận). Cái ý hái sinh ở tâm, tâm sinh ở mắt. Nên Lão tử nói: “Ta thường quán tâm, đắc đạo thì tự chí linh.” Phàm chân tức đã định, nội quang chính là thần quang, tâm này chính là chân tâm. Chân tâm sinh ra ý, thần quang thắp sáng tâm. Cho nên thườn nói về nó rằng: mắt điều khiển tâm, tâm sinh ra ý, ý hái diên. Nếu dương sinh chưa thật nhiều đã vội hái nhất niệm sẽ dừng lại, ý hái đã manh nha và hậu thiên khởi lên. Nên nói, để nắm được mệnh chỗ cốt yếu nằm ở tính.
Tính – phàm những thứ có hình tướng đều là giả vọng. Đã không còn chấp vào hình tướng thì giả vọng mất đi và chân lý hiện ra. Chân lý vừa sáng thì nhất niệm sinh ra, há không phải lại trở lại tướng giả ngụy sao? Cho nên, đợi dương lớn mà bắt đầu hái thì thốt nhiên thăng lên. Khí tiên thiên thịnh và hậu thiên ẩn đi. Thái (hái) và thăng (bốc lên) thực ra có sự khác nhau. Say ngây mà dâng lên, đến rốn thì lên thêm chút nữa rồi từ từ dừng lại trên rốn thì tức (hơi thở) mới ngưng, gọi đó là “diên”. Diên là kim, kim sinh thủy, nên hống sinh ở tâm, đây là hình tượng của cái lý mây cuộn theo rồng, gió cuốn theo hổ. Gió lặng thì mưa sa, tự nhiên diên hống hòa hợp nhau, cùng quyện lẫn nhau. Kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc lại sinh hỏa. Mộc yêu kim và kim luyến thủy, đây là con đường giao hội. Kim khắc mộc nhưng lại có ý yêu thương quyến luyến lẫn nhau, bởi do bản tính của kim và mộc là vậy. Ta dùng bản tính vốn cũng chỉ là ví von thôi, là muốn nói đến tiên thiên. Chứ nếu quả vậy thì ngũ hành là thế nào? Nhưng không ví von như vậy, người học không hiểu được lý này. Cách nói này vừa làm rõ cách hái vừa lộ được lý của giao hội.
Lại dặn dò thêm: Thái thủ (hái lấy) không thể quá chậm chạp, quá chậm thì thuốc già không dùng được và lại nhiễm khí hậu thiên vào. Người học tham khảo Giao hội đồ sẽ rõ hơn.
Thơ rằng: Huân huân hòa khí nhưỡng xuân phong, nhất điểm dương sinh hỏang hốt trung. Vô tự hữu sinh vô thắng hữu, sắc tùng không lý sắc hòan không. Thăng vu tề thượng diên tình hiện, sản tự tâm nguyên hống tính thông. Định lý kiến chân chân lý định, khảm ly giao hội lưỡng mông mông. Mộc vi long ước kim vi hổ, khảm hộ sinh nam dẫn ly nữ. Yêu tri tạo hóa hữu căn nguyên, bất ly chân hỏa sinh vu tý – Hòa khí ngây ngất ấp ủ gió xuân, một chấm dương sinh trong khỏang thóang mờ. Vô sinh từ hữu mà hơn hữu, sắc tự không ra lại về không. Lên trên rốn diên tình hiện, sinh từ nguồn tâm hống tính thông. Trong định thấy chân định trong chân, khảm ly giao hội cả hai đều mơ hồ. Mộc là rồng hẹn cùng kim là hổ, nhà khảm sinh nam dẫn dụ nữ ly. Phải biết tạo hóa có nguồn gốc, không rời chỗ chân hỏa sinh vào giờ tý.
Vạc là dụng cụ, không bằng vàng hay sắt. Lò là dụng cụ không bằng ngọc hay đá. Huỳnh đình à vạc, khí huyệt là lò. Huỳnh đình ở ngay trên khí huyệt, những làn khí nối liền nhau, đây là lò vạc. Âm dương là than để nung luyện.
Huỳnh đình ở trên thân, khỏang khắc giao hội là lúc nguyên khí lập. Đúng lúc này Huỳnh đình đang mở ra và đan rơi vào trong nó, liền đóng lại. Đây gọi à thủy ngân chứa đầy hồ lô, đóng nút hồ lô, đặt vào nơi nước sâu. Thủy ngân là diên hống, hồ lô là Huỳnh đình. Nước sâu, nước ví như khí. Đóng Huỳnh đình lại, tàng ẩn đan mẫu và đặt vào nơi khí giao hội. Bậc thông đạt ngẫm kỹ điều này sẽ thấy có cái thú vị trong đó. Hổ thét gió sinh ra, rồng gầm mây nổi lên. Dế rả rích mùa thu, con phù du xuất hiện vào buổi chiều. Vạn khí đều quay về lò vạc, phong cố càng thêm nghiêm mật, nung luyện càng thêm cứng rắn. Vì vậy mà có lò vạc.
Mọi quyển kim đan đều dùng hình ảnh, sơ đồ tượng trưng mà nên lên yếu chỉ, vốn nhằm giúp người học nắm được hình tượng thì quên lời. Người học đời sau đều nệ vào hình tượng mà tìm chân, mỗi người tìm kiếm một sự luận bàn kì dị riêng. Họ sao biết: đạo chân chính không có gì ghê gớm, chỉ xoay quanh âm dương mà thôi. Nếu nói về các số trời một sinh thủy… chẳng qua chỉ muốn làm rõ sự lưu hành của thủy hỏa. Nếu nói về bốn mùa và tám tiết khí chẳng qua chỉ ví von sự tiêu trưởng của trời đất, âm dương. Giấu mẹ mà nói con nên ít người hiểu thấu.
Ta đã dụng thành lý này nên nay viết ra sách này, bỏ hết lá cành chỉ bàn về gốc cội. Gốc cội có thì lá cành tự thơm. Nên người xưa không muốn nói thì ta nói. Quân tử học đạo nên thể nghiệm ý này, chớ suy xét thiển cận. Dựa theo đây mà làm ắt sánh ngang cùng thần tiên.
Có người hỏi, thẻ của lò vạc đã rõ, còn về dụng của chúng cũng rất mong được nghe. Giữa trời đất có trăm lòai hoa hủy, cỏ cây, vạn vật khác nhau. Sau tiết đông chí dương động bên dưới nên sông suối kho cạn lại bắt đầu róc rách, cỏ cây lại nảy mầm, côn trùng rộn rã, vạn lòai đều vui tươi hớn hở. Tạo hóa há là cố tình sinh ra vạn vật ư? Vạn vật cũng nào phải trông và tạo hóa. Chỉ là khi nhất khí động, vạn lòai cảm được mà như thế thôi. Trời nào có cố tình? Vật nào có mong chi? Còn như khi trăm cây cối nở hoa kết quả, chính là lúc thuốc tuần hòan. Khi lá rụng hương phai chính là lúc thuốc quy căn phục mệnh. Điều đó có thể ví với người xưa từng cảnh báo khi thuốc sinh, hạ xuống mà thành đan, chớ xuất ra vào lúc này. Nhưng không được nệ vào sự vô tâm, cứ để nó tự nổi tự chìm, cũng không được nệ vào hữu tâm mà dồn dập theo hỏa. Chỉ miên miên nhược tồn, biết cái vô, giữ csi hữu, biết cái trắng, giữ cái đen. Trong tĩnh vận hành hỏa hậu, trong định kết hòan đàn thì tặng phẩm nằm trong đó.
Thần đường là nhà (thất) của nguyên thần, là ngấn ngạc (cõi ngòai). Người biết lập nên ngấn ngạc thì tạo hóa hiển nhên lộ ra. Há không biết có nhà mà không có chủ ư, sao còn lấy nó làm nhà? Nhưng chủ nhân tuy không có mà thai của chủ nhân lại nằm trong nhất thất này. Giống như lúc hòai thai, trong mười tháng, mẹ thở thì thở, mẹ hít thì hít, nhưng chưa đủ khí. Khi khí đủ hình hài được hòan thiện, một chấm linh quang nhập vào đó và thóat cái được sinh ra, khóc oe oe rất đỗi tinh khiết. Đây là lúc thành nên ngấn ngạc và thần quay về thất (nhà). Thần quay về nhà gọi là đắc nhất, vạn sự đều xong.
Sau khi giao cấu, thần quang soi xuống và thắp sáng huyền châu. Tinh hoa bay lên sinh ra huyền châu. Chân diên là nguyên khí. Tinh khí thần có trong thai trước nhất. Hỏa đủ khí đầy thì nguyên tinh, nguyên khí, nguyên thần đều hợp thành một, nên anh nhi sinh ra. Lẽ nào anh nhi tự mình ra đời? Hỏa luyện sạch quần âm thì thai bắt đầu thóat ra, đến đây mới sinh anh nhi.
Ta từng nói, sơ đồ luyện đan do cổ nhân vẽ…, (biết) củng cố ngấn ngạc nhất điểm này an, mà không biết ối an nhất điểm ở bên trong, nên dù tạm kết mà cuối cùng tan đi, hỏa mạnh chỉ đốt suông và khảm ly chạy mất. Phàm, nhất điểm này sinh ở ngoai và thuận theo hậu thiên. Một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật đều từ đây. Người thường thuận theo đó, người tu luyện thì ngược lại. Ngược thì sinh bên trong nên giữ theo đạo trường sinh cửu thị.
Vậy há không quy căn phục mệnh ư? Mệnh quay lại gốc là bởi gốc sâu rễ bền. Đạo của gốc sâu rễ bền là tự lắng tâm, xua tan dục vọng. Vái lý của lắng tâm là thôi nghe thôi nhìn. Như Khổng tử nói: “Không hợp lẽ không nhìn, không hợp lẽ không nói, không hợp lẽ không nghe, không hợp lẽ không làm.” Đây là đạo lý chân thực. Nhưng muốn thi hành đức giáo (dạy người bằng đạo đức) trên đời, muốn cho nó có tác dụng thì phải dùng lễ bảo vệ nó.
Để an được tâm thì hỉ nộ ái ố (thích giận buồn vui) đều phải xem như nhau. Giữ được trung, thứ, từ thuận, tuất (thương xót), cung, kính, cẩn, đó là chân tâm. Người luyện đan xem chân tâm cũng như vọng tâm, hỗn trộn mà trở về cái ban đầu như vốn có, thành tựu cái vô để trong vọng tâm sinh ra chân tâm. Phấn đấu theo sự hữu vi của trời đất, để cuối cùng đạt đến vô vi. Còn như cái gọi là chân tâm của nhà Phật thì khác. Buông bỏ lục tình, chấm dứt mọi niệm. Đất tính rộng mở, chân nguyen tự hiện. Ngày khỏanh khắc chân nguyên vừa hiện liền cảm có được sư tự tại Vì tĩnh lắm thì đến vô cùng tĩnh, và đạt đến thái cực. Như vậy chỉ trong khỏang chưa đầy câu nói mà như từ tử trở lại sinh. Sau đó, có thể nắm được nguyên lý tối cao của tạo hóa để làm gốc rễ cho sự bất sinh bất tử, điều ấy sao có thể dễ dàng dòm qua cửa mà trộm thấy được? soạn giả
Tử Dương chân nhân – Trương Bá Đoan soạn, viễn sư chân nhân Vương Bang Thúc truyền thụ cho Lưu Nguyên, người Cổ Ngư, Đông Hòa Hi