Hống thị Thanh Long tủy, Diên vi Bạch Hổ chì. Âm tinh trong tim vốn từ gốc tính mà phát ra. Đây gọi là tủy của rồng xanh, đan gia lấy rồng xanh ví với hồn, ở vị trí quẻ tiên thiên thuộc Ly ngụ hướng đông nên Trương Tử gọi là “mộc của hồn phía đông”. Hồn tiên thiên tàng ẩn trong Càn và bất động, đến hậu thiên thì ở giữa Càn đã hư trống nên thành Ly, quẻ Ly ngụ ở phía nam thuộc hỏa, Trương Tử gọi là “hỏa của thần phía nam”. Do hồn tàng ở gan nên vị trí nằm ở phía đông, quẻ này đã biến thành hình tượng chấn động và ưa phẫn nộ, cái dụng của nó là dựa vào tâm mà thành thần, tâm là ngôi nhà của thần. Nay âm tinh trong tâm ta tiết ra, vốn từ khí tiên thiên mà thành hống, chương trên ví nó là nước trong hỏa, thực ra là dịch trong cây. Nói tủy rồng xanh để chì cần phải nung nấu. Xá nữ kỵ diên hổ, kim ông khoát Hống Long. Xá nữ chính là chân hống, kim ông chính là chân diên. Danh nghĩa của hai nhân vật này được chú giải tường tận ở chương thứ mười. Hổ ví với thân, long ví với tâm, Trương Tử nói: “Tâm điên cuồng như rồng, thân hung dữ như hổ.” “Cưỡi” là tượng trưng cho sự tiết chế qua lại. Nói nhị dược tức là hái rồi cho vào đỉnh, tự nhiên làm cho âm tinh cưỡi lên dương khí, tức khiến dương khí cưỡi lên âm tinh thành một khối hỗn lộn không phân biệt ra được. Nhưng lúc này nếu tính tình hơi thiếu sự nhàn tĩnh thì thần lại chạy rong ra ngoài, đan đã kết sẽ tan đi, cần chờ diên hống đến rồi mới kết lại. Do đó phần dưới sẽ làm rõ về chính lệnh. Xà phách cầm Long tủy, quy hồn chế Hổ tinh. Rồng để ví với tình, tình mỗi khi cảm nhận được sự lương thiện, dịu dàng thì sinh ra vui vẻ. Đây là việc làm của phách, nên nói là phách rắn. Tủy rồng, ví với âm tinh trong tim. Rùa ví với tính, tính mỗi khi gặp chấn động đều sinh phẫn nộ, đây là hành vi của của hồn nên gọi là hồn rùa. Tinh hổ ví với dương khí trong thân. Ở đây nói theo ý chương trên, chính lệnh của ta đã rõ ràng thì tình đã quên mà quay về lúc ban đầu của tính, do đó cái tâm điên cuồng như rồng đã bị nắm bắt, tinh đã không dao động thì tính sẽ định, từ đó cắt bỏ gốc của tình, cho nên thân hung dữ như hổ bị chế phục và khí không còn tù đọng. Hoa trì thần thủy nội, nhất đoà ngọc chi sinh. Trương Tử nói: “Ngó vào diên mà biết tới hống gọi là Hoa trì, lấy hống cho vào diên gọi là thần thủy.” Ngu muội làm rõ ý của Trương Tử như sau: Diên là thân, ví nó như cái ao, do gặp được hống nên khí hoá thành hoa (tinh hoa) nên gọi là Hoa trì; hống chỉ tâm, ví nó là nước, đưa nó vào diên thì tinh hóa thành thần nên gọi là thần thủy. Hống và diên hoà vào nhau, ví như thần thủy đổ vào ao Hoa trì, thực ra chỉ là thần quay về, khí trong thân tự trở lại mà thôi! Diên hống đã ngưng kết thì tự nhiên quên tình và định được tính, thần nhập vào khí như nước chảy vào ao. Có một người chủ luôn tỉnh táo, giống như hoa đã nở thành đóa, hớn hở khoe sắc, lại như nước ngọc đã ngưng kết thành cao, kết dính chặc chẽ - đây chỉ là hình ảnh tỷ dụ. Bạch tuyết phi quỳnh uyển, Hoàng nha phát ngọc viên. Tuyết trắng – thân thuộc khảm, nhất Dương trong Khảm là Càn kim nên có màu trắng; diên trong thân sinh ra do kim khí tràn trề nên diên hống giao nhau hóa thành thần thủy, trong trẻo tĩnh lặng, nên ví với tuyết. Vườn châu ví với thân. Tử phủ tầm ly nữ, Chu lăng phối khảm nam. Hoàng bà môi hợp xứ,Thái cực tự hàm tam. Tử Phủ ví như thân ta, Chu Lăng ví như tâm ta, Hoàng bà ví như ý của ta. Ngu muội giải thích rằng: Thân hậu thiên tượng trưng cho quẻ Khảm ở phía bắc, khảm thuộc thủy, màu vốn đen, muốn trở về quẻ Khôn tiên thiên phải tìm được âm trong ly phía nam để gắn nó vào; ly thuộc hỏa, màu vốn đỏ, màu nằm giữa đỏ và đen là tía, nên nói “Ở Tử phủ (phủ tía) tìm ly nữ” - nữ, là âm trong Ly – chính là nói lấy cái thân thuộc quẻ khảm hậu thiên để quay trở về thân tiên thiên thuộc khôn. Tâm hậu thiên tượng trưng cho quẻ Ly ở phía nam, muốn trở lại quẻ Càn tiên thiên phải tìm được dương trong khảm ở phía bắc để phối với nó; Chu Lăng là tên động ở núi Nam Nhạc, dùng ví như căn nhà của tâm, nên nói “Ở Chu Lăng phối cho Khảm nam” – nam là dương trong Khảm – chính là lấy cái tâm hậu thiên thuộc ly để trở về cái tâm tiên thiên thuộc càn. Hoàng là màu vàng của đất, bà là để gọi bà lão, Hoàng bà chính là chính niệm của ta. Khi luyện thân tâm hậu thiên đầu tiên cần tìm được âm tinh trong tâm ở thân để phối với dương khí trong thân, dương khí được phối cùng âm tinh, cả hai cùng thẩm thấu lẫn nhau. Âm tinh nhờ vào dương khí mà ngưng tụ, luyện thành thần, thần liền quay trở về Thiên Cốc – hoàn toàn nhờ vào chính niệm của ta, trước tiên tự tàng ẩn vào chỗ sâu kín của sự phối hợp, cho nên thần hàm chứa được cả ba thứ: thân, tâm, ý thành Thái Cực, thành cốc thần này. Cốc Thần được sinh ra là nhờ sự ngưng tụ của tinh khí, sự chuyên trì chính niệm, làm rõ chính lệnh, rồi tự hòa quyện cả vào nhau mà không hề dùng đến công phu gì, nên nói “Thái cực tự hàm chứa cả ba (thân, tâm, ý).” Càn Mã ngự kim hộ, khôn Ngưu nhập Mộc cung. Kim là để ví với tình, Ở Chu lăng đã phối cho khảm nam mà thành ra càn, tức có thể dùng đạo kiên cường chế ngự tình, nên thần tự tàng ẩn sâu kín, thường xuyên nghỉ lại ở Thiên cốc mà dưỡng tính – Ai có thể thực sự làm được? A thùy tương xá nữ, giá khứ dữ kim ông. Nữ vốn là âm tinh trong Ly, đi vào trong Khảm mà thành Khôn, vì nó từ Ly trở về Khôn nên là khí, có hình tượng như cô gái trở về nhà, nên gọi là xá nữ (cô gái đẹp). Kim vốn là dương khí trong Khảm, đi vào trong Ly mà thành càn, để ví với tâm ở trong thân, thân là nơi tàng ẩn tâm, có hình tượng như cô gái theo chồng. Nên âm tinh rời Ly đến Khảm, thì dương khí rời Khảm đến Ly, điều này không cần phải nói! Lúc này, nếu không có chính lệnh của ta làm sáng tỏ đức, biết cái đang đến, ẩn cái đã có, thì khí sao có thể dưỡng thành hình mà khiến nó nhu thuận, tinh sao có thể dưỡng thành thần mà làm nó kiên cường? Nay đã lấy cái hình nhu thuận phối với cái thần kiên cường, kết hợp khéo léo ngưng thành thái cực mịt mờ. Tính tình mỗi thứ đều có được sự chân chính của mình, lực của ai có thể làm được vậy?
|