Đàn tại Trước Tiết Tàng Thơ 17/18 tháng giêng Đinh Sửu (1) (27/28-02-1937)
Thi
Cao cả lời khuyên trẻ thuận hòa, Đài Tiên đặng vậy đẹp lòng Cha; Giáo khai Chánh-Pháp qui nguyên tánh, Chủ ý đem con lại một nhà.
Thầy mừng các con ! Các con an tọa nghe Thầy dạy.
Đạo của Thầy bất ly tam ngũ, con ngó ngay vô là chi, Thầy giải cho con nghe:
Đạo Thầy là sự mầu nhiệm, Thầy lúc sanh tiền làm sự chi cũng tạo thành thập tự. Nhưng thập tự đó có ý nghĩa sâu xa: đó là nhứt âm, nhứt dương, ngang qua là âm, sổ xuống là dương. Âm dương gát chồng nhau thành hình chữ thập, ấy kêu là lưỡng nghi. Sanh tứ tượng. Nhưng mà các con phải hiểu ý… Thầy hồi sanh tiền hằng ngâm câu “Tứ cá âm dương cộng thành bái quái“ thì hình chữ thập ấy là chính chơn dương, chánh chơn âm. Còn thêm ta một âm, một dương nữa là thiếu âm, thiếu dương. Thiếu âm, thiếu dương ấy cũng gát chồng thành chữ thập.
Hai chữ thập ló ra 8 cánh là bát quái thành hình, như là :
1/ Đèn Thái Cực
2/ Bông
3/ Đèn lưỡng nghi
4/ Bông
5/ Lư trầm
6/ Quả
7/ Đèn lưỡng nghi
8/ Quả
Ấy là lý Đạo, mà các con rõ Bát-Quái nó nằm hướng nào chăng?
Càn Tam Liên Tây Bắc là Bắc phương Nhâm Quí thủy thuộc màu huyền. Khi ấy là thiên sanh ư thủy, hướng Bắc là chánh vị của Thầy.
Các con thờ ngọn đèn Thái Cực ấy tức là khối Đại Linh Quang, chỗ đó Thầy ban chia Linh-Quang mỗi con xuống phàm. Các con phải tùy theo Bát-Quái xây vần mà luân chuyển. Con nào biết tu hành tịnh luyện thì nào khác chi ngũ thể tương quang (hoa), mà bông ấy là sự các con muốn cho kết quả phải chịu trải qua nhiều sự gay go, mà kết quả đặng là hườn nguyên phản bổn.
Các con khá hiểu ý, Thầy dùng dĩa quả tử là nghĩa đó, mà dĩa quả tử ở hướng nào, cung nào các con? Muốn kết quả mà sự kết quả đặng trở lại về cung Càn, mà cung Càn ở hướng Tây Bắc, Tây Bắc là Thủy với Kim, Kim năng sanh Thủy …cười …
Hướng Tây là là màu bạch. Bạch là bạch y là bạch hổ. Còn Bắc là màu huyền, huyền là huyền cân, khăn đen tức là huyền võ.
Vậy Tây Bắc Càn cung (hình 1) có nước màu huyền, trước nước màu bạch.
Huyền bạch phải hiệp mới trúng thiên cơ, mới thành quả vị.
các con nào muốn đắc quả vị phải y lời Thầy. Ấy là Càn tam Liên tây bắc, chỗ đó lại nhằm dĩa quả tử tức là kết quả. Thầy ban ơn các con.
Thăng.
************ Thánh Đức Tổ Đình ngày mùng 01 tháng 11 năm Đinh-Mùi (1) (02-12-1967)
PL: Lang, Điều
ĐG: Hỷ, Ái
ĐK: Sóc Thi: Ngọc ẩn non cao chiếu sắc truyền, Hoàng thành thống nhứt Đạo qui nguyên; Thượng Thiên chỉnh giáo hườn nguyên lý, Đế chuyển các con Trung, Hậu, Tiền.
Hậu, Tiền sắc tứ lịnh ân truyền,
Chỉnh-Giáo hườn lai đáo Bổn nguyên ;
Bí pháp ẩn vi nương máy tạo,
Chơn Truyền lưu ký dĩ cơ Thiên.
Bổn nguyên sửa lại gìn nguồn gốc.
Qui củ chỉnh tông giữ mối giềng,
Ngọc ẩn cơ Thiên do luật định,
Hoàng thành đạo đức giữ cơ huyền.
Thầy mừng các con nam nữ kim đàn,
Hôm nay Thầy lâm đàn để tiếp truyền cơ Qui-Tông Chỉnh-Giáo ban hành Sắc Lịnh.
Vậy Thầy cho Đạo Đức Kim Tiên lâm đàn. Thầy thượng ỷ.
Thăng.
Tiếp điển.
Thi: Đạo lịnh Thầy ra chiếu sắc ban, Đức truyền Chơn-Pháp đắc huy hoàng; Kim ngôn lưu ký đời ghi tạc, Tiên Phật lâm đàn thọ lịnh mang.
Bần Đạo mừng chư đạo hữu nam nữ nơi đàn trung. Bần Đạo miễn lễ Chư hiền an tọa.
Chư hiền thành tâm nghe Bần Đạo tuyên sắc lịnh: Điều thứ nhứt: Thánh Đức Tổ Đình Thầy định là đàn trung ương kể từ ngày ban hành Thánh Sắc. Những điều qui luật chi chi nơi Tổ-Đình là nơi ban hành Thầy ấn định nơi đây. Vậy các đàn phải thính tùng, thọ hành những điều luật.
Vậy Đạo có căn cơ giềng mối không sai lạc. Điều thứ hai: Thiên Bàn phải thờ y một kiểu, dầu các nơi tư gia của chư đạo hữu cũng y khuôn, tùy theo rộng hẹp, lớn nhỏ, nhưng cũng cho đúng mẫu. Ngay giữa bức ảnh Thầy khăn áo đen, hai bên tả hữu ảnh Thầy áo trắng đứng và ảnh ngồi. Điều thứ ba: Kinh không được thêm bớt, Hồng Thệ, Hồng Nguyện, Cửu Thiên, Nhụy Châu, Ngọc Hoàng Bửu Giám, Bông, Rượu, Trà, bảy biến Ngọc Hoàng Cứu Khổ, ba biến Quan Âm Cứu Khổ là đủ Chơn Truyền Thầy để lại giữ cho y. Điều thứ tư: Khi hành lễ Đại Đàn, chư đạo hữu nam nữ hai hàng cho nghiêm trang, nam và nữ đồng xá nhau gọi là thủ lễ nhập đàn. Khi chủ đàn hoặc cơ Truyền Ban Giáo-Pháp niệm hương xong đồng quì chậm rải chờ đợi cho y khuôn.
Trước khi quì phải xá một xá dài gọi là nhứt tâm, rồi quì niệm “Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng, Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, Nam mô Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần. Đoạn lạy Thầy 12 gật, 12 xá nhỏ.
Lạy Chư Phật, Chư Tiên 9 gật, nhờ Chư Phật, Chư Tiên hộ độ mình tu.
Vậy hằng ngày nhớ tưởng mà hành lễ… Còn kỳ sau sẽ tiếp.
Trường Thiên: Qui-Tông theo bức họa đồ,
Chỉnh-Nguyên giáo lý điểm tô Chơn Truyền.
Từ đây gìn giữ mối giềng,
Vô-Vi Chánh-Pháp Bổn nguyên Cao Đài.
Luyện đơn nấu thuốc Thiên Thai,
Âm Dương ngưng kết Linh-Đài giáng thăng.
Vô-Vi Chánh-Pháp tầm phăng,
Bổn nguyên qui củ là căn cội nguồn.
Gìn cho đúng phép y khuôn,
Tam-Thanh Chưởng-Giáo gốc nguồn Vô-Vi.
Cứ theo lý chánh tu trì,
Chơn Truyền giữ đúng, không ly mảy hào.
Chơn Tông Chánh-Pháp Đạo cao,
Không bày màu sắc, không trau hữu hình.
Chơn Truyền Thầy dạy đinh ninh,
Đơn phòng khuya sớm ẩn mình luyện đơn.
Tu cho đạo pháp qui hườn,
Âm dương ngưng kết, Chơn Nhơn đắc thành.
Đừng bày thêu dệt cải canh,
Đừng ham danh vọng nảy sanh việc đời.
Đừng bày giao thiệp các nơi,
Vô-Vi Chánh-Pháp tứ thời luyện đơn.
Ẩn mình chẳng biết thua hơn,
Giữ tâm thanh tịnh qui hườn Đạo cao.
Qua giang chả biết làm sao,
Nhờ thuyền đưa rước qua vào bến giang.
Nay Thầy thả chiếc Linh Thoàn,
Rước đưa lữ khách vào đàng Thiên Thai.
Hữu hình bài bác là sai,
Vô-Vi nắm mối đêm ngày tầm phăng.
Sương sa che khuất bóng hằng,
Âm dương ngưng kết giáng thăng nhiệm mầu.
Cô đơn ẩn bóng canh thâu,
Càn Khôn xây chuyển luyện bầu thuốc linh.
Ngao du thắng cảnh thượng trình,
Đồ Thơ một quyển giữ gìn đời sau.
Khuôn vàng, thước ngọc Thầy trao,
Phận trò toan liệu thanh cao đạo mầu.
Linh Căn vạn kiếp dãi dầu,
Lâm phàm nhiều lúc khổ sầu thảm thay!
Rủi may gặp cuộc trả vay,
Chuyển luân nhiều kiếp đọa đày lầm than.
Nay Thầy thả chiếc Linh Thoàn,
Nguyên Căn Thầy rước vào đàng Thiên Thai.
Khó khăn nung chí miệt mài,
Gặp cơn khảo đảo tháng ngày vượt qua.
Sao cho trên thuận dưới hòa,
Anh em lớn nhỏ một nhà lo chung.
Ngày sau giữ được trùng phùng,
Cảnh Tiên ngôi báu đồng chung cảnh nhàn. Thi: Cảnh nhàn lui tới động đào nguyên,
Tu luyện ngày nay rất phỉ nguyền;
Gió mát trăng thanh vui hứng cảnh,
Bàn-Đào chung hội với Thần Tiên.
Chư hiền nên để ý bài thệ giữ Bổn nguyên y pháp thì chủ đàn và cơ truyền giao giáo pháp học cho thuộc lòng để gìn giữ Chơn Truyền của Thầy, chớ không nên đọc trong khi cúng tứ thời.
Nơi Tổ-Đình, ý Bần Đạo muốn treo thêm đôi liễn “Phật Nhựt Tăng Qui“ bắt từ mút bài vị Tam-Thanh trở xuống đến cơ Vô-Vi, vách rộng khuôn hình hẹp mà dài nên ý khó coi. Luôn dịp Chỉnh-Giáo trong khi nầy được phép sửa lại.
HUYÊN hiền đệ công lao rất dày với Thầy, với Đạo. Vậy hiền đệ nghe : Thi : Thầy giao một gánh nặng oằn vai,
Bác ái từ bi ghi nhớ hoài;
Lèo lái chiếc thuyền gìn tánh đức,
Rước đưa khách lữ đến Thiên Thai.
Bần Đạo cầu nguyện với Đại Từ Phụ ban ơn lành hộ trì ân điển cho Chư hiền nam nữ chơn tâm mát mẻ, đạo pháp huy hoàng. Vậy Bần Đạo mời Chư hiền hoan ẩm bồ đào. Bần Đạo giã từ.
Thăng.
Sao y bổn điển.