TIÊN CỔ NỀN XƯA CÒN LẠC LỐI
Đàn tại gia Truyện, Sài gòn ngày Mồng Một, Đinh Dậu,
              Ngọ Thời (31-1-1957)
              Phò loan: Tượng, Hùng

CAO ĐÀI TIÊN ÔNG, NGÔ TIÊN ÔNG,Thầy mừng các con lưỡng ban nam nữ.

CAO rồi càng ẩn, gấm thêm hoa,
ĐÀI các Trung Dung Đạo hiểu hòa.
TIÊN cổ nền xưa còn lạc lối,
ÔNG quy con diễn bổn Ngô Gia.

Đinh Dậu xuân lai thế thưởng mừng,
Ngựa xe rộn rịp pháo nổ bừng.
Một sớm, một chiều đâu ngờ được,
Khá thương không ngụ cảnh vui thuần.

Thuần túy Đạo Trời trẻ mãi xuân,
Ngày qua bốn buổi thật không ngừng.
Thỏa lòng viếng cảnh Thiên Bàn sẵn,
Ấy vậy lòng vui đố thế ngừng.

Các con có hạnh Tiên Gia Đạo Cốt, nên giờ đây mới đặng lành vui, không thì các con vẫn như ai: ngựa xe rộn rịp mà chẳng biết lo mai một.

Ước ao người thế như con,
An vui thơ thới tâm hồn lành thêm.
Ngày lần khép sửa vun kềm,
Kềm cho thiệt khéo dịu mềm càng hay.
Đức dày con tập nhiều ngày,
Điển lành gom tụ có ngày hóa nhân.
Trước con phải nhận thanh bần,
Mặc cho người thế có phần rẻ khinh.
Đạo Mầu con phải nhọc rình,
Thiên Cơ Máy Tạo hở hinh qua rồi.
Giờ qua có chắc con ôi,
Ngày vui con bỏ mà ngồi dần dương.
Được rồi con mới khôn lường,
Chừng đây con toại Thầy mừng biết bao.

Thầy ban ơn Xuân Đinh Dậu con tu đầy đủ Đạo Vàng. Những khổ đời các con vượt hẳn, được “điển vô tư”, công con tu hành kỹ.
Thầy ban chén Quỳnh Tương cho riêng con toại. Thăng.

       THƯỢNG CÒN TỐI THƯỢNG CON CẦN HỌC
Đàn tại gia Truyện, Sài gòn ngày 14-1-Đinh Dậu, Tý thời (13-2-1957)
        Phò Loan: Tượng, Lệ

CAO cẩn nhẫn nhàn Đạo Pháp cao,
ĐÀI thông chín bực đáng Anh hào.
THƯỢNG còn tối thượng con cần học,
ĐẾ Khuyết Khảm Ly hiểu con nào.
(được thông khí nay NHC mới rõ)

Mừng con hoa nở đủ năm màu,
Chung một lục bình tự biết cao.
Trắng đỏ là thường không chi lạ,
Tự mình tu sửa được là cao.

(Trưa ngày nay vừa được ứng thì tối lại Thầy cho biết.)
Thầy mừng các con. Miễn lễ các con. Thầy ban ơn các con an tọa.

Thượng Nguơn Đinh Dậu giáng đàn trung,
Bố điển rọi nhuần khắp thế chung,
Tặng thưởng người hiền, dìu kẻ ngố,
Càng tăng càng hưởng biết bao thu.

Các con, một tượng Phật nên hình coi qua rất đẹp, nhưng các con thử nghĩ: lúc người thợ chạm vô mình gỗ thì còn chi đau bằng. Vậy sự tu hành các con chịu đủ mọi cách khảo đảo thử lòng, thì cũng nên cam thủ mà giữ cho đầy đủ hạnh người có “nguyên căn”.

Trung dung con tập cho thường,
Trượng phu mới khó, khó lường người cao.
Tu hành đừng nói lao rao,
Tu chi ngoài miệng tu nào ngoài môi.
Tu hành ai rõ nọc chồi,
Cứ hành công Đạo cứ bồi công đêm.
Biết chi là cứng với mềm,
Trên Thầy ghi chép ơn đền chỗ đau.
Đắng cay đủ thứ đủ màu,
Chịu qua một thuở anh hào nêu gương.
Khen không, có chí hùng cường,
Một khi thử có tinh tường vàng thau.
Khen ai có miệng ngọt ngào,
Khen trên mảnh giấy nêu cao cho đời.

Một khi muốn biết đặng vàng mười thì phải làm sao?
MINH bạch nghe!
MINH bạch: Muốn biết vàng mười phải thử. Muốn biết người tu cao thì là gặp lúc bị khảo đảo.
Thầy tiếp: Vậy trong lúc vàng bị đem nấu đỏ thì các con cũng nên hiểu mà phấn chí tu hành cho mau thành chánh quả, rồi Thầy cũng bù lại cho các con lúc phải trải qua. Vậy không ngoài phép muốn thử vàng là phải nấu.
Thầy thương các con nào có chí nhiệt thành theo Khuôn Đạo. Thầy không biết bù bao nhiêu cho vừa lúc các con bị khảo đảo mà có chí cương quyết.
Vậy đây Thầy mượn rượu bồ đào mà bố hóa Ơn cho các con.
Thăng.

NÊN SỬA MÌNH CHO TINH BA TƯƠI ĐẸP VỂ TÁNH CŨNG NHƯ MẠNG
            Đàn tại gia Lệ, Đa Kao ngày 2-2-Đinh Dậu (3-3-57)
       
               Phò Cơ:Tượng, Lệ

CAO ĐÀI TIÊN ÔNG, NGÔ TIÊN ÔNG ,Thầy mừng các con,

Ngày lành Thầy giáng hôm nay,
Ân Thiên che chở con rày thảnh thơi.
Bút vàng Thầy dặn đôi lời,
Con hiền ghi nhớ Đạo Trời con nên.
Gắng lo lập chí vun bền,
Đó là tu tánh khép kềm cho siêng.
Con thuyền lướt gió ngoài biên,
Vững lòng tay lái, ảo huyền là hư.
Hạnh tu con cũng từ từ,
Lần theo lên đảnh, biết từ nấc cao.
Luôn luôn khép cảnh trong rào,
Ngày ngày trong đẹp, ngoài rào có ai.
Mạng con há dễ một mai,
Không chi đổi được, không thay thế nào.
Dưỡng nuôi đừng ốm, đừng đau,
Thể con tươi đẹp ngó vào càng xinh.
Đừng quên ngó bóng xem hình,
Nếu khô cho nước, nhớ rình nẻo ra.
Làm sao con đặng tinh ba,
Nếu hơ thể hắc xem ra khô màu.
Luyện thần sáng rỡ làm sao,
Trăng đầy con ngụ, xem sao tỏ trời.

Trời đêm vắng vẻ bóng ai đây,
Lặng lẽ ngồi đan lại với gầy.
Mối chỉ phăng lần, lần ngộ rỉ,
Thầm không ai rõ, rõ là hay.

Hay lúc âm u ngó tịt mù,
Khỏe lòng mát mẻ tiết Trung Thu.
Thưởng xuân sương nguyệt no đầy túi,
Dạo khắp hồ sen cỡi ngọa cù.

Thầy ban điển lành ân tứ các con. Càng leo cao, càng cao càng rán. Còn con nào thấy mình thì nên sửa mình cho tinh ba, tươi đẹp về Tánh cũng như Mạng. Thăng.

NHÂN VỚI NGHĨA NGƯỜI TU KHÉP HẠNH
Đàn tại gia Truyện, Sài gòn đêm Rằm tháng 2 Đinh Dậu
        Tý thời (16-3-1957)
        Phò Loan: Tượng, Lệ

           THI
CAO ngôn phận đầu tròn,
ĐÀI thượng gắng chí con!
TIÊN gia hằng bữa học,
ÔNG giáng điểm công son.

Son với mực vàng thau đừng lộn,
Đạo với Đời lẫn lộn được không?
Đạo thì như nhứt lòng trong,
Đời thì hỗn độn rắn rồng gạt nhau.

Thầy mừng các con. Các con, phương tu của Thầy là TÁNH MẠNG SONG TU. Đạo Đời lẫn lộn. Nhưng lẫn lộn đời là để che áo người tu. Nhưng các con phải lánh người đời. Nhưng phải theo đời mà lập công quả. Nếu không có người đời thì các con lập công với ai? Hay là các con lập công với Thầy? Không. Gần đời mà không nhiễm; sen mọc nơi bùn mà thoát ly bùn, vậy mới đáng người tu phái Vô Vi, Vô Tự.

Tự tu lần hiểu thoát mê tân,
Học hỏi Càn Khôn mới định phần.
Lẫn lộn nhưng phân đời với Đạo,
Luyện mình tinh được biết lòng nhân.

Nhân với nghĩa người tu khép hạnh,
Đạo với Đời nếu lánh đi đâu?
Lập công trên quả địa cầu,
Nương đời đừng lộn mới hầu diệu thay!

Thầy ban hồng ân cho các con.
Thăng.

BIẾT MÌNH BIẾT ĐẠO CHÔNG GAI LÀ THƯỜNG
       Đàn tại gia Truyện, Ngày 1-3-Đinh Dậu
              Tý thời (31-3-1957)
            Phò Loan: Tượng, Hùng

CAO ĐÀI TIÊN ÔNG, NGÔ TIÊN ÔNG, Thầy mừng các con,

                  THI
Đại Thừa Bí Pháp độ “Nguyên Nhân”,
Bực tiểu làm sao vói được gần.
Chí cả lượng cao đời khó kịp,
Một cần, không cải, giác mà phân.

Bực tu vào Đại Thừa thì chúng con đều có căn xưa vị cũ, nhiều kiếp công phu. Nay Thầy khợi tim thì con các con ấy tự giác mà biết hành theo và tuân Thiên Mạng.
Bực Đại Thừa Thầy nhắc sơ qua rồi các con tự tu lần lần sáng tỏ. Nếu các con có ý thì biết ngay người nào còn bực Tiểu Thừa: Không bao giờ có chí cả lượng rộng thì còn mong chi.

Người tu đến bực Thượng Thừa,
Chí cao lượng cả dày thưa phân rành.
Siêng lo luyện Tánh tu cần,
Dày công mà giác, luyện Thần sáng trong.
Từ bi quảng đại nơi lòng,
Sánh cùng Trời Đất hiểu thông đêm ngày.
Dẫu chi lòng chẳng đổi thay,
Biết mình, biết Đạo chông gai là thường.

TRI bạch: Bạch Thầy “khợi” hay “khơi”?
Trả lời: Cũng vậy.
Tim đèn con sẵn có, Thầy điểm tức là đèn cháy, ấy là con giác vậy.
Thầy ban ơn lành các con.
Thăng.

Trở Lại Thư Viên Chiếu Minh

Mời xem tiếp :

Ân Thiên Đạo Ngàn Vàng Khó Đổi

Công Phu Luyện Tinh Hóa Khí

ĐỀ HỒ NHUẬN TƯỚI PHỈ NGUYỀN

Thánh Ngôn Học Đạo Chiếu Minh  H N

Chiếu Minh Đàn Minh Khai  Hải Ngoại

Thánh Đức Qui Nguyên & Linh Bửu CM

Thánh Giáo Chiếu Minh Đàn Long Hoa

Thánh Giáo Chiếu Minh Đàn Huyền Quan

Thánh Giáo Chiếu Minh Đàn Chợ Lớn