Mùi Vị Văn Chương Việt Nam Qua Cơ Bút

chúng tôi có hứa tiếp tục sưu tầm “Mùi Vị Văn Chương qua Cơ Bút“ để cống hiến cho chư tín hữu và độc giả bốn phương.
Hôm nay, chúng tôi xin trích lục trong kho tàng Thánh Giáo, những lời “Vàng Ngọc“ mà Thiêng Liêng đã ban xuống cõi trần với mục đích cảnh tỉnh khách trần đừng đắm say tục lụy mà hãy mau thức tỉnh nghe theo tiếng gọi của các Ngài, đi theo con đường đạo lý hầu thoát khỏi luân hồi chuyển kiếp nơi cõi trần lao đau khổ nầy
.

1.- Thượng Đế dạy :
Khổ đời muốn lánh gắng tìm phương,
Giành giựt đừng mong khác thế thường.
Xạo xự tuồng đời lừng bợn tục,
Trau tria nét Đạo rực mùi hương.
Rừng thiền ngàn dặm Trời soi bước,
Biển khổ muôn chia khách lạc đường.
Gặp được nẻo ngay đời có mấy ?
Thìn lòng khối ngọc tạo nên gương

Đại ý bài nầy : Thượng Đế dạy con người, muốn lánh sông mê bể khổ thì phải tìm phương học Đạo tu thân. Nếu mê đời thì con người chỉ sống mãi trong cảnh giựt giành, xạo xự, làm cho cõi đời đã khổ, lại càng thêm đắm chìm trong tục lụy. Còn nếu biết theo Đạo thì trong rừng thiền ngàn dặm xa cũng có Trời cao soi bước. Hỏi vậy có mấy ai sớm giác ngộ, quyết chí tu hành cho khối ngọc thêm trong, gương lành thêm sáng ?.

Xin tạm diễn giải theo thể song thất lục bát :
Đời giả tạm con người thọ khổ,
Gắng tìm phương thoát khổ trần ai,
Giựt giành áo mão cân đai,
Đừng mong khác thế, lên đài vinh quang.
Đời xạo xự muôn ngàn bợn tục,
Người khôn ngoan lánh đục tìm trong,
Trau tria hạnh đạo gìn lòng,
Hương linh thơm nực,phước hồng hưởng lâu.

Rừng thiền có Trời cao soi bước,
Ngàn dặm xa vẫn được bố ban,
Bể khổ khách tục lạc đàng,
Cõi trần mù mịt lang thang khách trần.
Có mấy kẻ gặp phần gặp phước ?
Gặp đường ngay để bước lên Tiên,
Thìn lòng tu tập nên hiền;
Ngọc lành gương sáng triền miên muôn đời.

2.- Đức Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu dạy :
Vạn hữu thù đồ nhứt giả không,
Thiên cơ vận chuyển hiệp huyền công;
Tam Nguơn tái tạo an thiên hạ,
Thất ức qui nguyên lập đại đồng.
Mạc bả nhãn tiền lưu sự nghiệp,
Tu trì hậu thế đoạn linh thông,
Nhơn nhơn tự hữu Tiên Thiên Khí,
Huờn đắc Tiên Thiên lập Cửu Trùng.

Xin tạm giải thoát ý :
Cõi vạn hữu muôn ngàn lối khác,
Cũng đồng qui nhứt mạng là không,
Thiên cô vận chuyển hiệp đồng;
Đạo mầu vi diệu huyền công bủa tràn.
Cuối ba Nguơn sửa sang tái tạo,
Thiên hạ nhờ hiệp Đạo an cư
Bảy ức niên chẳng thiếu dư;
Qui về Thánh Đức y như Đại Đồng.
Trước mắt đây đừng hòng lập nghiệp,
Tựu rồi tan muôn kiếp trải qua,
Tu hành giúp đỡ người ta;
Làm cho hậu thế lên đà linh thông.
Người người thọ Hồng Mông chi khí,
Nguồn Tiên Thiên đắc vị chơn nhơn,
Huờn Hư về gốc Kim Đơn;
Nên Tiên, đắc Phật nguồn cơn Chín-Từng.

3.- Đức Quan Thế Âm Bồ Tát dạy :
Khán đắc phù sanh nhứt thế “không“,
Điền viên sản nghiệp diệc giai “không“
Thê nhi,phụ tử,chung ly biệt,
Phú quí,công danh,tổng thị “không“.
Cổ ngữ : vạn ban đô thị giả,
Kim ngôn : bá tuế nhứt tràng “không“,
Tiền tài thu thập đa tân khổ;
Lộ thượng huỳnh tuyền lưỡng thủ “không“.

Tạm dịch theo thể thơ bát cú :
Nhìn xem phù thế một tuồng “ không “,
Sản nghiệp,ruộng vườn thảy hóa “không“
Chồng vợ,cha con rồi giả biệt,
Công danh,phú quí,trở thành “không“
Lời xưa : vạn sự đều là giả,
Nay nói : trăm năm một lẽ “không“,
Thu thập tiền tài nhiều khổ lụy;
Suối vàng đến đó phủi tay “không“.

Dịch thoát ý theo thể thơ song thất lục bát :
Cõi phù thế muôn ngàn vạn hữu,
Có rồi không, tan tựu thành “không“
Ruộng vườn sản nghiệp mênh mông;
Muôn ngàn thay đổi, rốt “không“ có gì.
Nào phu tử, thê nhi đông đúc,
Đời tiêu tàn tới lúc thành “không“,
Công danh, phú quí ,phước hồng;
Cuối cùng cũng chỉ tay “không“ thôi mà !
Lời xưa nói : đời là giả tạm,
Luật dinh hư ai dám chắc nào ?
Người nay: lời nói ra sao ?
Trăm năm một giấc chiêm bao “không“ ngờ.
Thu thập tiền lòng tơ rối khổ,
Xui tham lam quá độ huờn“không“
Đến khi mãn số nhủ lòng;
Suối vàng đến đó tay không thật mà !.

4.- Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch dạy :
Công danh phú quí đám bèo tan,
Lấp xấp quang âm bóng đã tàn,
Vương Khải đồøn rân nghe nghĩ thiệt...
Thạch Sùng tiếng dậy tưởng thêm càng...
Suy qua cuộc thế vừng mây giáng,
Xét lại người đời cụm khói chan.
Nhớ chốn Đào-Nguyên tua trở gót,
Màng chi khuê các cuộc giàu sang.
Tạm diễn dịch thoát ý qua thể thơ song thất lục bát :
Cuộc phù thế bèo tan mây nổi,
Chuyện công danh như lối diễn tuồng,
Quang âm thấp thoáng màn buông,
Ngày qua tháng lại trăm muôn sự tàn.
Tiếng Vương Khải giàu sang quyền quí,
Nghe đồn rân,xét kỹ bật cười ......
Thạch Sùng của cải không vơi;
Nhưng nghèo tâm địa,tiếng cười thế nhân....
Suy cuộc thế như vầng mây giáng,
Xét sự đời có đáng bao nhiêu;
Đời người lần lựa tiêu điều;
Như làn sương sớm,khỏi chiều tựu tan.
Nào ai nhớ Thiên Đàng thanh thoát ?
Cõi Đào-Nguyên trở gót quay về,
Màng chi cuộc thế ủ-ê;
Cho dù khuê các muôn bề cũng “không“ !.

5.- Đức Tây Vương Mẫu dạy :
Tu hành kíp tới nhẹ dường lông,
Gở mối oan gia khỏi chập chồng,
Báo ứng lưới Trời tin chắc có,
Trả vay luật Phật lẽ nào không.
Ái hà muôn đắng đừng mơ ước,
Khổ hải ngàn cay mựa tưởng trông,
Khuyên thế gìn lời mau tỉnh giấc;
Quày thoàn qua ngạn khỏi luồng dông.

Diễn dịch thoát ý theo thể thơ song thất lục bát :
Tu cho kíp ân hồng hạnh hưởng
Đời nhẹ nhàng sung sướng là bao,
Oan gia chớ khá buộc vào;
Chập chồng quả nghiệp,khổ đau suốt đời.
Cơ báo ứng luật Trời khe khắc,
Buộc đời người siết chặt oan gia,
Trả vay luật Phật rõ mà;
Xưa nay từng thấy thật là chẳng sai.
Sông yêu tạo đắng cay muôn nỗi,
Đừng ước mơ vào lối đọa đày,
Biển khổ bão tố đêm ngày;
Đừng trông đừng tưởng,đắng cay cho đời.
Khuyên người thế gìn lời kim thạch,
Tỉnh giấc nồng rửa sạch bụi hồng,
Quay thuyền về bến thong dong;
Sang qua bỉ ngạn,gió dông khỏi rồi !.

6.- Đại Tiên Hà Tương Tử dạy :
Giàu sang danh lợi có ra chi,
Khuyên thế lo tu mới kịp thì,
Gặp lúc mưa thu vui ngả ngớn;
Nhằm hồi nắng hạ não sầu bi.
Tiền muôn lúa lẩm nhiều thê thiếp,
Ruộng mất vườn hư,hết thị tỳ,
Mê chốn phù ba chưa tỉnh giấc;
Ăn năn nào kịp buổi chung qui !.

Diễn dịch thoát ý theo thể thơ song thất lục bát :
Người cõi thế chuộng đường danh lợi,
Mê giàu sang tiến tới mà chi,
Cả khuyên tu tiến kịp thì;
Cuộc đời xây chuyển trường thi đại đồng.
Gặp mưa lủ mà không lo liệu,
Cứ vui chơi phải chịu khổ đời,
Nhằm khi nắng hạ cạn hơi;
Sầu bi cho mấy,nạn Trời tránh đâu ?
Tiền ngàn lúa lẩm cầu thọ hưởng,
Thê thiếp nhiều cứ tưởng vinh thân,
Vườn hư, ruộng mất, của trần;
Thị tỳ sau trước tới phần tựu tan.
Chốn phù ba muôn ngàn giả cuộc,
Tỉnh giấy chưa ?, mua chuộc đạo mầu,
Chung qui rồi cũng trước sau;
Ăn năn sao kịp, đáo đầu khổ than !.

Lời Tiên Phật thật cao xa sâu sắc.Với trình độ học thức và tâm linh còn sơ đẳng, dù cố gắng hết sức, chúng tôi không sao diễn dịch cho hoàn hảo. Mặc dầu vậy, chúng tôi cũng cố gắng hết sức mang lại và nhắc lại “mùi vị“ cao lương tinh thần cống hiến cho chư quí đạo tâm, đạo hữu và độc giả một niềm vui nho nhỏ. Nếu có điều chi sơ cót lỗi lầm, xin quí vị rộng lòng bổ chỉnh. Xin đa tạ.
Thay lời kết :
Mùi vị văn chương ai nếm qua,
Mới hay phước báu rải quê nhà,
Phật,Trời, thánh dược ban sanh chúng,
Tiên Thánh lương phương cứu trẻ già.
Bác ái gieo vần mùi thoát tục,
Từ bi hòa điệu nhạc âu ca,
Ơn lành cứu độ trong Cơ Bút,
Có thật lòng tin mới nghĩ ra.

Nghĩ ra Chánh Pháp Đạo Cao Đài,
Từ Đấng Trời Cha, một chẳng hai.
Đại Đạo mở đường đời mạt pháp,
Tam Kỳ ban Pháp Đạo hoằng khai.
Ngũ Chi phục nhứt, kinh đề xướng,
Tam Giáo qui nguyên luật rỡ bày.
Thế tận người đời ai thức tỉnh;
Mau tu tiến hóa hưởng lâu dài.

Lâu dài ân phước cõi trần gian,
Thượng Đế khai cơ cứu thế tàn.
Bút ngọc nêu cao tình Lạc Việt,
Kim ngôn ân tứ phước Thiên Hoàng.
Thánh Thần lập vận thiên linh tỏa,
Tiên Phật gieo vần trược khí tan.
Giáo Lý Phổ Thông truyền diệu dược;
Ai hay tìm thuốc cõi Thiên Đàng !.

Fountain Valley, 05-10-1997.
Thiện-Trung

Trở lại trang Thơ

free web counter

Thư Viện 1      4   5