CÁCH THỨC THỜ PHƯỢNG

       Ðây Thầy giải sơ về cách thức thờ phượng của Cao-Ðài Ðại-Ðạo.  Tại sao Thầy lại bảo các con tạo ra "Thánh Nhãn" mà thờ, không dạy thờ hình tượng như các Tôn Giáo khác?  Các con phải biết rằng:  Trời là Lý thì Lý ấy rất thông linh bao quát Càn-Khôn Thế-Giới.  Thầy đâu phải có xác phàm như các con mà tạo hình thể như các con, nên chi thờ Thiên-Nhãn là thờ Thầy.

       Tại sao Thiên-Nhãn là Thầy?  Thầy có dạy trước: "Nhãn thị chủ tâm, lưỡng quang chủ tể, quang thị thần, thần thị Thiên, Thiên giả ngã giả".  Nhãn là trái tim của con người.  Trái tim ấy là Tạo-Hóa tức là Thần mà Thần là cái hư vô.  Lý hư vô ấy là Trời vậy.

       Người tu hành chừng nào luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hườn hư, luyện hư huờn vô thì huyền quang nhứt khiếu ấy mở hoát ra.

       Huyền quang nhứt khiếu ấy là chi?  Là Thiên-Nhãn vậy.  Nó ở ngay nê huờn cung, gom trọn chơn dương chánh đạo.  Hai con mắt của các con là nhục nhãn, tức là âm với dương, thì cũng như Thái-Cực là Thiên-Nhãn, còn lưỡng quang là Nhựt Nguyệt hằng soi sáng khắp Càn-Khôn, cứ tuần huờn mãi, hết ngày đến đêm, hết đêm đến ngày, không bao giờ dứt sự hành tàng của Tạo-Hóa.

Thi:

Luyện thuốc kim đơn rõ Ðạo mầu,

Thành Tiên tác Phật tại song-Mâu,

Âm dương toàn ẩn cơ tại "Mục",

Thần khí thông linh tại thượng đầu.

       Ðây Thầy giải về: Vô Cực Ðăng.

       Trước khi chưa phân Trời Ðất thì khí hư vô bao quát Càn-Khôn sáng soi đầy trong Vũ-Trụ.  Nó là một cái trung tâm điểm tức là Ðạo.  Ðạo ấy mới sanh Thái-Cực, hóa lưỡng nghi.  Lưỡng nghi là âm với dương (động với tịnh).  Có âm dương rồi mới hóa sanh muôn vật.

       Ngọn đăng các con thờ chính giữa đó là giả mượn làm tâm đăng.  Phật Tiên truyền Ðạo cũng do đó, các con thành Ðạo cũng tại đó.  Nó ngay chính giữa không lay động, xao xuyến, chiếu soi khắp cả Càn-Khôn.  Mặt Nhựt, Mặt Nguyệt có lúc sáng, hồi tối, chớ nó thì giờ khắc nào cũng tỏ rạng không lu lờ.  Nhơn vật nhờ đó mà sanh, nhờ đó mà thành, nhờ đó mà an vui, Trời Ðất nhờ đó mà quang minh trường cửu, người tu hành nhờ đó mà tạo Phật tác Tiên, siêu phàm nhập Thánh.  Hễ chinh qua bên tả thì thành tả-đạo, xê qua bên hữu thì lại bàng-môn, ngay ở giữa là chánh Ðạo. Các con nên tường lý ấy.  Lý ấy ở trong tâm.  Tâm an tịnh, vô-vi tự-nhiên bất động là chánh Ðạo, tâm còn tính mưu thần, chước quỉ, độc ác, hiểm sâu, ấy là bàn môn tả Ðạo, chớ chi các con.

       Còn Hai Chén Nước là âm dương (động và tịnh).  Âm dương là cơ động tịnh của Trời Ðất tức là thần khí của các con.  Tu hành không nhờ thần khí lấy gì luyện đắc Thánh thai.  Trời Ðất không có âm dương làm sao hóa sanh vạn vật, muôn vật không trống mái làm sao sanh sản thêm ra.  Vậy âm dương là cái diệu động tịnh của Trời Ðất vậy.  Âm dương lại có thêm cái thể dụng của âm dương nữa là Nhựt, Nguyệt, tức là Cặp Ðèn (lưỡng nghi).  Người tu hành biết cách hồi quang phản chiếu thì đắc kim đơn cơ tại mục là vậy.

       Trên có Lư Hương tức là Tiên-Thiên lập đảnh, tượng ngũ khí, ngũ hành.

       Dưới có Lư Trầm là Hậu-Thiên an lư, hóa ngũ linh, ngũ đức.  Trên đầu là đảnh, dưới đơn-điền là lư.

       Còn Hoa, Quả, Trà là tam-bửu của các con.  Ngày nào hiệp tam-bửu rồi là ngày thành Ðạo.

Trường Thiên

Khí hư-vô tạo ngôi Thái-Cực,

Tức là ngôi độc nhứt quang minh,

Vô-vi, vô-ảnh, vô-hình,

Thần thông quảng đại chí linh diệu-huyền.

Trong Vũ-Trụ trọn quyền sanh hóa,

Nắm trong tay khắp cả Càn-Khôn,

Nấng nuôi vĩnh kiếp trường tồn,

Làm cho xác thịt linh-hồn an vui.

Người tâm chí nhiễm mùi Ðạo-đức,

Gia công tìm mẹo mực Tạo Ðoan,

Rõ thông trong máy hành tàng,

Bảo tồn thân thể vững vàng bền lâu.

Khắp Vũ-Trụ một bầu Thiên Ðịa,

Cơ vận hành bốn phía mở mang,

Phân ra Ðịa-Ngục Thiên-Ðàng,

Các con sao vén nổi màn huyền vi.

Ðạo ẩn tàng, có khi ứng lộ,

Phật, Tiên truyền để độ chúng-sanh,

Chỉ phương siêu thoát rành rành,

Thuận tùng Thiên-lý tu hành lại ngôi.

Phép Ðạo tránh luân-hồi tứ khổ,

Mà tầm vào đến chỗ quang minh,

Bày ra giả tướng hữu hình,

Ðặng làm thể Ðạo chí linh diệu-huyền.

Người gọi là tiểu Thiên Ðịa đó,

Người với Trời nào khó khác chi,

Hễ Trời có những món gì,

Người người đều cũng đủ y như Trời.

Trong thân thể đổi dời tấn-hóa,

Người biết tu mau khá trau giồi,

Coi như có lỡ thì bồi,

Cho đầy đủ lại phục hồi cựu nguyên.

Phật nhập-định tham-thiền tầm lý,

Mà dưỡng thần, tinh, khí đủ đầy,

Làm cho bánh phép hằng xây,

Âm dương luân chuyển gió mây vận hành.

Tiên tịnh-tịnh thanh-thanh bất động,

Ðể cái tâm trống lỗng chẳng xao,

Tâm xao biển dậy ba đào,

Trược thanh cũng phải lộn nhào đó con!

Con biết Ðạo giữ còn tâm Ðạo,

Mang thân người lộn lạo âm dương,

Pháp-luân con chuyển cho thường,

Xuất huyền nhập tẫn là đường giao thông.

Luyện âm tuyệt lòng trong đắc quả,

Âm tuyệt rồi Ðạo đã thuần-dương,

Thuần-dương thẳng đến Thiên-Ðường,

Làm Tiên, Thánh, Phật thoát đường tử sanh.

Chơn-dương hết thì thành ma quỉ,

Âm dương đồng tức thị là người,

Hạo nhiên cướp đặng tốt tươi,

Ðem vào nuôi nấng thân người trường sinh.

Dạy sơ qua hiểu rành lấy trẻ,

Phép nhiệm mầu không lẽ chỉ nhiều,

Tìm vào đường giác thì siêu,

Biết phương thoát khổ phải chìu Thiên-cơ.

Ðạo không thấy, nghe rờ sao đặng,

Ðạo im lìm phẳng lặng tự-nhiên,

Ðạo thông lưu khắp hậu tiền,

Ðạo là then máy diệu-huyền biết bao.

Ðạo không thấp, không cao chi cả,

Ðạo không dùng phép lạ hoặc nhơn,

Ðạo là chí-chánh chí-chơn,

Toàn năng, toàn thiện là đơn luyện thành.

Ðạo dưỡng dục vận hành bao quát,

Ðạo độ người hay sát hay sanh,

Suy cho thấu, hiểu cho rành,

Giải sơ hình thể chúng-sanh bề ngoài.

Tôn chỉ Ðạo Cao-Ðài chỉ rõ,

Mượn hữu hình bày tỏ chỗ vô,

Thiên-Bàn làm cái Bản Ðồ,

Coi ngoài mà biết điểm tô trong mình.

Tuy là sự giả hình sắp đặt,

Trái trông sao thì mặt cũng in,

Người tu phải biết giữ gìn,

Chuẩn thằng qui củ mà tìm Thiên-cơ.

Tại sao lại dạy thờ Thiên-Nhãn?

Thiên-Nhãn là căn bản chúng-sanh,

Ðó là một đấng trọn lành,

Một ngôi chúa tể hóa sanh muôn loài.

Trong các giống, các nòi do đó,

Mà ngày nay mới có tại đây,

Hạ-nguơn máy Tạo vần xây,

Nên chi Từ-Phụ dựng gầy cơ quan.

Biết tu sớm hội bàn lập vị,

Trước dạy rồi nhãn thị chủ tâm,

Tâm là chủ-tể cao thâm,

Quang minh chánh đại muôn năm vững vàng.

Phải biết rõ "lưỡng quang chủ tể",

"Quang thị Thần, Thần thể thị Thiên",

Thiệt là diệu-diệu huyền-huyền,

Trời người có một chẳng riêng khác gì!

Trời là Lý vô-vi tuyệt diệu,

Tức là thần phản chiếu Càn-Khôn,

  Người kêu bổn tánh linh-hồn,

Ðời đời kiếp kiếp trường tồn không hư.

Phép tu biến đầu từ suốt cuối,

Khai huyền quang tánh muội đắc thông,

Toàn tri hiển hiện chơn không,

Huyền quang khai xuất nhãn thông côn-đoài.

Ðoạt lấy chỗ bổn lai diện mục,

Luyện cho thành cửu khúc minh châu,

Tha-tâm thông mối nhiệm mầu,

Lấy kim đơn tại sông mâu vào lò.

Thần cảnh thông Ðạo do tâm đắc,

Diệt lục trần, lục tặc ngoài trong,

Làm sao cho lậu-tận thông,

Thành tâm tuyệt vọng trống trong mới mầu.

Ðạo hư vô người hầu đoạt lấy,

Thiên-Nhãn thông mới thấy suốt tường,

Nhãn là thần đã thuần-dương,

Công viên quả mãn đắc trường sanh an.

Cách sắp đặt Thiên-Bàn thờ phượng,

Mượn hữu hình sắc tướng truyền đăng,

Tam-Tông đem Ðạo khai hoằng,

Dụng tâm chánh-giác công bằng chấp trung.

Nói sao cho tận cùng lý Ðạo,

Vẽ vời ra máy Tạo khó thay!

Mỗi người có tánh Như-Lai,

Tầm ra thấy sẵn Thiên-Thai bên mình.

Chỗ chí diệu, chí linh Ðạo cả,

Âm dương hòa sanh hóa Phật Tiên,

Cái cơ động tịnh diệu-huyền,

Luyện thành chánh quả nhờ truyền âm dương.

Trời, Ðất, Người, một phương một lý,

Trong mình người thần khí giao nhau,

Cang nhu, trống mái một mầu,

Ðục trong lừa lọc thì mau chứng thành.

Năm Cây Nhang ngũ hành mới tượng,

Mới phân ra bốn hướng bốn phương,

Cặp Ðèn là tiểu âm dương,

Tức là Nhựt, Nguyệt chiếu chương đêm ngày.

Vận hành mãi trở day lăn lộn,

Soi sáng cùng chốn chốn nơi nơi,

Làm cho rực rỡ Ðất, Trời,

Người là đôi mắt ấy thời khác chi?

Mắt thuộc hỏa là Ly thần trụ,

Luyện thâu về cho đủ một cân,

Kim đơn nhờ hiệp khí thần,

Tan ra là khí tụ đông thành hình.

Tinh, Khí, Thần, trong mình có đủ,

Hoa, Quả, Trà thể dụ tam-quang,

Lư Trầm để tại trước bàn,

Tiên-Thiên lập đảnh, hậu càn an lư.  (1)

Chú thích:

       (1) Hậu là hậu-thiên.



     Ngọ thời 03-03 Tân Mùi (1991)
        
                        THI:
        
     GIÁC đặng quày về thọ Pháp Cao,
     MINH minh thấu lý pháp Thầy trao;
     KIM thạch lời truyền tâm hằng giữ,
     TIÊN cung giáng điển tỏ cơ mầu.

     Giác Minh Kim Tiên, Bần Ðạo chào trung đàn lưỡng ban đại tịnh thủ lễ nghiêm trang, Bần Ðạo đắc lịnh Thầy tiếp điển chuyển cơ linh có đôi lời thuyết minh chơn pháp. Vậy chư Ðạo tâm kim đàn đại tịnh nghe. Hân hạnh thay! may duyên thay! ngày nay Bần Ðạo được Ðức Từ Bi ban sắc lịnh cho Bần Ðạo giáng Pháp Bửu Ðàn, để có đôi lời thiếc thạch cạn tỏ cùng chư thiên mạng. Vậy chư đạo tâm ngày nay lo tròn nhiệm vụ của Thầy giao phó trọng trách. Bần đạo nhận thấy chư hiền có lòng thành kỉnh chí tâm vô tư vì Ðạo vì Thầy, mà quên mình không nệ nỗi khó khăn cực khổ ngày đêm lui tới Bửu Ðàn để chung lo trách nhiệm của Thầy. Như thế Bần đạo lấy làm vui lòng không phương tả xiết, Bần Ðạo cầu Thầy ban cho chư Ðạo tâm điển huệ, để cho huệ sáng tâm minh thấu đoạt hiểu rõ những lời Thầy cùng chư Tiên chỉ giáo.

                       THI:
        
     Ðôi lời cạn tỏ giữa trung đàn,
     Lịnh sắc ngày nay đã bố ban;
     Pháp Bửu Ðàn Tiên Cao Ðài chuyển,
     Ngày nay thành lập lịnh Thiên Hoàng.

        
                      HỰU:
        
     Hoàn thành sứ mạng của Trời Cha,
     Bảy Ðóa Sen tươi hiệp một nhà;
     Bắc Khuyết giáng trần kỳ mạt hạ,
     Giúp Thầy độ thế hội Long Hoa.

        
                      HỰU:
        
     Hoa sen Bảy đóa sắc hồng tươi,
     Thượng đế vừa ban sắc lịnh Trời;
     Khai mở Ðàn tiền nay thành tựu,
     Chư hiền đại chí gắng lo thôi.

        
                       HỰU:
        
     Thôi rồi mọi việc đã xong xuôi,
     Bần Ðạo từ nay sẽ tới lui;
     Hướng dẫn chư hiền và Ðạo Ðệ,
     Ngôi Ðàn Pháp Bửu của Cha Trời.

        
                       HỰU:
        
     Trời Cha giáng điển hộ đàn trung,
     Lịnh sắc Trời Cao Ðấng Cửu Trùng;
     Chỉ dạy chư hiền lo tròn phận,
     Chung lo đại chí hội đồng chung.

Thôi Bần Ðạo có đôi lời tỏ bày cùng Ðạo tâm kim đàn đại tịnh thủ lễ nghiêm trang trung đàn, có Linh Tiêu ngự giá long xa giáng điện đàn Bần Ðạo xin xuất ngoại hộ đàn.
         Tiếp Ðiển.

                       THI:
        
     NGỌC chiếu CAO truyền sắc lịnh ban,
     HOÀNG ân ÐÀI độ Pháp Bửu Ðàn;
     THƯỢNG thừa giáo lý TIÊN truyền pháp,
     ÐẾ vị ÔNG truyền lịnh sắc ban.

        
                      HỰU:
        
     Ban ân con trẻ tại Ðàn nay,
     Thầy xuống thế nay ẩn dấu hài;
     Mở Ðạo Kỳ Ba lo tận độ,
     Con lành nam nữ hội Kim Giai.

        
                     HỰU:
        
     Vai tuồng nặng gánh Ðạo Trời Cha,
     Xuống thế giáng sanh hiệp một nhà;
     Chung bước lái lèo con thuyền Ðạo,
     Trên Thầy giáng điển đượm MA HA.

Ngọc Hoàng Thượng Ðế, Thầy các con, Thầy mừng các con kim đàn đại tịnh an tọa nghe Thầy giáng dạy. Vậy các con định tâm nghe hôm nay Thầy giải tiếp về cách thức thờ phượng trên Thiên Bàn cho các con tường lãm. Thầy giở bức màn vô minh cho các con được tường tận lý đạo đó, tỏ rõ về huyền vi về vô vi bí pháp cho các con nam nữ kim đàn được thấu triệt. Các con phải biết cách thức thờ phượng tại Thiên Bàn (ngoài 7 con) ẩn, vì các con mà Thầy phải ngày đêm lui tới để hộ độ và hướng dẫn các con tu các con xem đó, là nhiệm vụ của các con, quan trọng như thế nào, đây Thầy tiếp dạy cho các con nghe... Con nào biết, các con hãy nhìn lên Thiên Bàn. Thầy hỏi các con, nầy các con "Tam Thanh Phụng" là chi? các con nghe Thầy giải...

             BÀI:
        
     Nhìn xem Chữ Thập rõ ràng,
     Các con nam nữ Bửu Ðàn tịnh tâm.
     Mắt con nhìn kỹ chú chăm,
     Thầy trên bố điển Cao Thâm dạy bày.
     Thượng Ngọc con hiểu đó rày?
     Trên Thầy đã giải ngày nay con tường,
     Ðó là lý thuyết Âm Dương.
     Lưỡng Nghi hiệp lại nên thành đó con.

     (Thượng Thanh, Ngọc Thanh, Thái Thanh)
        
     Thầy giải tiếp:
     Các con nam nữ lòng son,
     Tam Ngũ Thiên Bàn còn các món chi?
     Con nào biết rõ bạch đi...?

Tùng Bạch: Bạch Thầy trên Thiên Bàn còn 3 ly rượu, 5 cây nhang, 2 ly bạch thủy và nước trà... Xin Thầy dạy con.

      Các con nghe rõ lời ni con à...
     Tùng con nghe rõ lời Cha,
     Ngày nay con Bạch sơ qua Thầy tường.
     Chấm con mười điểm Thầy thương,
     Thầy đây tiếp dạy con tường lời Cha.
     Ngũ hành năm món đó là,
     Các con nhìn thấy chăng à hỡi con?
     Năm cây nhang đó vuông tròn,
     Thập Tự, Thiên Nhãn, Tượng Thầy là ba.
     Hai câu (liễn) tả hữu luyện mà,
     Họp thành năm đó con mà thấy chưa,
     Dưới con nghe tiếp lời Cha.
     Rượu, Ðèn, Nước đó con mà rõ chưa,
     Ngang qua năm đó sớm trưa.
     Âm dương hiệp lại thượng thừa đó con,
     Tam Hoa, Thần Khí Tinh con.
     Trong mình như thế đó con tường trình,
     Thập này nó rất uy linh; (là chữ thập)
     Trở vay lăn lộn vô hình chuyển xoay,
     Các con tường tận lời Thầy giải minh.

Thầy hỏi tiếp:
C ác con kim đàn, con nào biết thấy trên Thiên Bàn có ba chữ Thập con nào biết bạch rõ Thầy nghe...
        
     Tùng Bạch:.....
        
     Tùng con bạch đúng Thầy khen,
     Mười phần được tám huệ đèn chiếu soi.
     Các con Thầy dạy hẳn hòi,
     Mà nay quên hết tìm tòi không ra.
     Ðây Thầy dẫn giải sơ qua,
     Các con sẽ thấy lời Cha Cao Ðài.
     Tùng con đã bạch trúng hay,
     Còn một chưa rõ con rày bạch nhanh.
     Lư Hương Thầy giải đành rành,
     Năm cây nhang đó vận hành vô vi.
     Mồ thổ trung điểm chớ gì?
     Tạo ra con thấy nghĩ suy tỏ tường.

Thầy giải:
Bốn cây đèn 4 bên, 4 góc hợp lại thành chữ Thập, trung tâm chữ Thập là lư nhang trong lư nhang có 5 cây nhang thuộc ngũ hành. Vậy thì ba chữ Thập y như nhau. Một chữ Thập trên là Thập Tự Tam Thanh mà các con thờ đó, một chữ Thập thứ hai là Lư Hương, chữ Thập thứ ba là 4 cây đèn 4 góc. Cười... cười... cười...

                     BÀI:
     Ngày nay Thầy giải Thiên Bàn,
     Cho con nam nữ Bửu Ðàn tường tri.
     Thầy dùng huyền diệu vô vi,
     Dạy con tường tận y kỳ hành theo.
     Thương con Thầy giải tiếp theo,
     Cho con nam nữ rõ thì lời Cha.
     Các con hãy ngó đây mà,
     Nghe Thầy dẫn giải con mà tường tri.
     Tu hành đại chí hành trì,
     Thiên Bàn con thấy hành y con à.
     Thân con ẩn dấu đó đa,
     Hữu hình Thầy sắp con mà rõ thông.
     Thiên Bàn là của chánh tông,
     Thầy truyền con rõ đục trong y hành.
     Âm Dương lý kín đành rành,
     Các con khó hiểu Thầy đành dạy con.
     Thập Tự ba cái vuông tròn,
     Thầy phân cạn tỏ đó con tỏ tường.
     Các con nam nữ tịnh trường,
     Nghe Thầy dạy bảo là phương độ trò.


Thầy giải tiếp:
     Tam ngũ là 3 con số 5 là 3 lần 5 cộng lại là 15 là con số tròn. Các con có biết con số tròn là số gì chăng?
     Thầy giải tiếp:

C ác con nam nữ nghe đây số tròn ấy đó như vầy đó con....
     Trăng tròn con thấy thật tròn,
     Ngày rằm con hiểu trăng tròn là đây.
     Trăng tròn số ấy như vầy,
     Ngày rằm con thấy số này mười lăm.
     Ðó là số ấy ngày rằm,
     Các con nam nữ chỉ chăm như rày.

     Trăng tròn là ngày rằm là số mười lăm, mười lăm là trăng tròn. Vậy các con số này:
     - Số dương 1 + 3 là 4; 4 + 5 là 9. Số 9 là con số dương.
    - Số 2 + 4 là 6. Số 6 là số âm.
     Vậy số âm dương hiệp lại là 15 tức là 9 + 6 là 15. Số dương chỉ Trời, số âm chỉ đất.
  Trời đất hiệp tức là âm dương hiệp nhứt là số 15 trăng tròn. Các con cũng hiểu nhưng các con quên hết để Thầy giải tiếp.

6+5+4=15 --
6+1+8=15 > 618
7+5+3=15 > 753
2+9+5=15 > 294
2+5+8=15 -- ^^^ 6+7+2=151+5+9=158+3+4=15

     Nhị tướng thất trì phò lục quốc
     Tứ hải tam sơn hội bát tiên
     Cửu long ngũ hổ địch nhất nhơn.

        Các con nghe Thầy giải tiếp:
        
                     BÀI:
      Thầy nay giáng điển giải bày,
     Cho con tường lãm mỗi ngày tịnh tu.
     Thiên Bàn Thầy giải tuyệt mù,
     Con lành ẩn kín hạp phù Trời Cha.
     Thái Cực số Một đó à,
     Bình Bông số Tám con mà rõ thông.
     Số Sáu, Dĩa Trái để lòng,
     Lư Hương chính giữa ở trong rõ ràng.
     Số Năm là số an bày,
     Ngũ hành chính giữa trở vay đó à.
     Kế là Nước Trà đó đa,
     Số Bảy ghi nhớ con mà ghi tâm.
     Nước Trắng số Ba hiểu ngầm,
     Ly Rượu số Chín tại tâm rõ ràng.
     Số Hai bên trái cây Ðèn,
     Là Dương Mặt Nhựt gày then nhớ rày.
     Số Bốn Mặt Nguyệt Âm bày,
     Cây Ðèn bên phải con thì tường con.
     Công dụng Bát Quái vuông tròn,
     Âm Dương hiệp nhứt trăng tròn mười lăm.
     Lý này ẩn kín Cao Thâm,
     Bửu Ðàn Pháp Bửu để tâm nhớ rày.
     Vì con Thầy giải tỏ bày,
     Cho con nam nữ ngày nay tỏ tường.
     Thầy ban tất cả tịnh trường,
     Bửu Ðàn Pháp Bửu là trường tịnh tu.
     Thầy trên bố điển hộ phù,
     Mỗi ngày dẫn dắt con tu có Thầy.
     Thầy dùng huyền diệu ban đây,
     Các con trách nhiệm nghe Thầy đồng lo.
     Nhìn xem hình vẽ đó trò,
     Họa Ðồ Thầy vẽ con dò hiểu thông?
     Ðó là Bát Quái ẩn trong,
     Hà Ðồ con rõ đục trong lý này.
     Con nào biết rõ bạch đây?
     Các con mạnh dạng để Thầy chấm công.

       Thầy giải tiếp:
Số 1 nối liền số 9, số 3 nối liền 7 là thành chữ Thập, chữ Thập nầy 4 cánh 4 góc là Âm Dương hiệp lại vận xoay chuyển động thành Bát Quái như thế, Thầy giải tiếp.
                     BÀI:
      Một là Nam Hỏa đó à,
     Tức là Tâm đó con mà tường tri.
     Diệu mầu ẩn kín vô vi,
     Nối liền số Chín con thì rõ thông.
     Chín liền Thận Thủy Thận trong,
     Nước Lửa giao hiệp thì đồng đắc đơn.
     Ðơn điền cõi hạ tâm chơn,
     Tu hành sẽ kết Ðơn Ngươn Thai thành.
     Hạ Ðiền ngày lớn lẫn nhanh,
     Thai Tiên thành tựu con lành tường tri.
     Thần, Tinh, Khí hiệp vô vi,
     Nhờ tu mà có huyền ky con à.
     Tinh Thần Khí hiệp Tam Hoa,
     Hạ Ðơn chuyển đến trên Tòa Nam Tâm.
     Trung Ðiền con trẻ hiểu ngầm,
     Ðó là Ngũ Khí Cao Thâm dạy trò.
     Ba năm tám tháng ban cho,
     Phật vàng con chuyển các trò nhớ nghe.
     Sáu năm cực khổ đó nè,
     Chuyển lên đảnh thượng Thần hè phi thăng.
     Ðạo mầu ẩn kín bao giăng,
     Thầy phân tỏ rõ tâm hằng khắc ghi.

Thầy giải tiếp:
Các con nào biết, Ðạo Thầy các con tu có chia ra rành rẽ Nhứt bộ từ năm nào đến năm nào và Nhị bộ từ năm nào đến năm nào... v.v...
     TAM BỘ LUYỆN THẦN HƯỜN HƯ?
         Tùng Bạch: Bạch Thầy các con tu từ Nhứt Bộ là được Kết Ðơn là Phật Vàng còn ở Hạ Ðơn Ðiền - đến 3 năm 8 tháng, sau khi lãnh Nhị Bộ đem lên tại Tâm, cho đến 9 năm đến 12 năm- đem lên thượng đảnh xin Thầy dạy con.
     Thầy dạy: Từ 9 năm đến 12 năm... là Tam Bộ (nhưng Thầy hồi còn tại thế chỉ cho các con tới Nhị Bộ là Thầy đã đắc lịnh về nguyên) - Vì Thầy biết trước sau này sẽ có Tam Thiên Bí Chỉ Di Ðà truyền pháp cho các đại nguyên căn... Nên Thầy lật đật cởi rồng về nguyên. Sau này sẽ có Di Ðà truyền trao Bí Chỉ Tam Bộ cho các Ðại Nguyên Linh.

                       BÀI:
      Tùng con bạch đúng rõ ràng,
     Thầy trên điểm trẻ điểm vàng sổ con.
     Tu hành nhờ tịnh đó con,
     Thiên cơ thấu rõ lời con của Thầy.
     Nhứt Bộ Thầy chỉ con Thầy,
     Ba năm tám tháng Thầy đây chỉ trò.
     Phật Vàng Thầy đã ban cho,
     Con lành đắc lịnh lần dò đem lên.
     Trung Ðiền ghi nhớ lời Trên,
     Cao Ðài chỉ dạy sĩ hiền đàn trung.
     Ðó là Nhị Bộ cung trung,
     Phật vàng lên ngự Tâm Trung đó mà.
     Chín năm an dưỡng ấy à,
     Thì con ôn dưỡng bước qua đó là.
     Tam Bộ Bí Chỉ Di Ðà,
     Con lành lãnh lịnh Trời Cha tu hành.
     Hườn Hư con nhớ đành rành,
     Mười hai năm chẳn rồng xanh phản hồi.
     Ðó là trở lại cựu ngôi,
     Cảnh thanh an nghĩ mình ngồi Tòa Sen.
     Sống còn ở thế lấn chen,
     Lợi danh phế hết gài then phất trần.
     Hườn Vô luyện đắc kim thân,
     Bến mê xa lánh cõi trần thoát ra.
     Ðạo thành viên mãn chiếu tòa,
     Lệnh ban chiếu chỉ về Tòa Linh Tiêu.
     Bồ Ðào tiên tửu tiêu thiều,
     Nhạc Trời trổi giọng mừng thời tân tiên.
     Cao Ðài Ðại Ðạo bí truyền,
     Minh Tâm nắm lấy mối giềng vô vi.
     Ngày nay sắc lịnh Từ Bi,
     Chuyển khai Pháp Bửu trường thi Cao Ðài.
     Tịnh Trường Pháp Bửu ngày nay,
     Cha Trời khai mở độ rày sanh linh.
     Vô vi bí ẩn Ðạo Huỳnh,
     Bửu Ðàn Pháp Bửu Thiên Ðình định phân.
     Minh Tâm đắc lịnh giáng trần,
     Ngày nay lãnh sắc giáo dân Cao Ðài.
     Lịnh truyền Ngọc Ðế Kim Giai,
     Ngày nay thành lập Cửu Trùng định phân.
     Hỏi con nam nữ ân cần,
     Con nào biết rõ cân phân bạch liền?
     Thiên Ðàn Ðịa Ngục hiện tiền,
     Con nào biết rõ bạch liền Thầy nghe.
     Các con nam nữ e dè,
     Con nghe Thầy dạy dặt dè nghe con.
     Luyện Tinh Nhứt Bộ đó con,
     Ðể cho Hóa Khí các con hiểu à.
     Nhị Bộ luyện Khí hóa ra,
     Biến thành Thần đó con mà hiểu chưa?
     Ðó là luyện Khí hóa Thần,
     Các con tu học chuyên cần luyện trau.
     Tam Bộ con trẻ gắng nào,
     Luyện Thần cho được Thần mà Hườn Hư.
     Các con nam nữ anh thư,
     Ðại căn tu học Thiên thơ ban trò.
     Bửu Ðàn Pháp Bửu Trời cho,
     Các con tu học lần dò hành theo.
     Minh Tâm giềng mối lái lèo,
     Y truyền Thánh Lịnh y keo mà hành.
     A Di Ðà Phật Hà Danh,
     Thích Ca Phật Pháp chỉ rành ngàn xưa.
     Ðây là Bí Pháp Thượng Thừa,
     Nhiên Ðăng Cổ Phật lọc lừa ngày nay.
     Tam Kỳ Ðại Ðạo Cao Ðài,
     Tiên Ông Thế Chí Như Lai Phật Truyền.
     Cùng chung Bát Nhã Tâm Truyền,
     Như Lai Phật Tổ Dương Quyền truyền ban.
     Ngày nay đắc lịnh Ngọc Hoàng,
     Khai Ðàn Pháp Bửu Tịnh Ban Cao Ðài.
     Tam Kỳ Thánh Chúa Ngôi Hai,
     Giáng trần khai giáo Cao Ðài xưng danh.
     Qui Tông Tam Giáo đành rành,
     Phật Tiên Thánh Ðạo Cao Xanh chuyển à.
     Minh Tâm vâng lịnh Trời Cha,
     Khai Ðàn Pháp Bửu để mà độ sanh.
     Kỳ ba mạt hạ lập Thành,
     Bửu Ðàn Pháp Bửu Cha Lành mở khai.
     Vâng theo sắc lịnh Cao Ðài,
     Ngọc Hoàng Thượng Phụ ngày nay chuyển trò.
     Diệu huyền Tiên Phật đồng lo,
     Hộ Ðàn Pháp Bửu nhã dò vô vi.
     Tuyển căn chọn lựa trường thi,
     Tịnh trường Pháp Bửu nay thì mở khai.
     Kỳ ba mạt pháp Cao Ðài,
     Chuyển khai Huỳnh Ðạo Cao Ðài xưng danh.
     Bửu Ðàn Pháp Bửu độ sanh,
     Cao Ðài Chưởng Giáo lập thành đàn trung.
     Minh Tâm vâng lịnh Cửu Trùng,
     Lập thành đàn nội Thiên tùng định phân.
     Phật Tiên Thánh Ðạo hộ trần,
     Bửu Ðàn Pháp Bửu minh tân đó à.
     Ngọc Hoàng Thượng Ðế ban ra,
     Tam Tông qui nhứt kỳ ba Bửu Ðàn.
     Bửu Ðàn Pháp Bửu tịnh ban,
     Ngày nay trách nhiệm Ngọc Hoàng định phân.
     Kỳ ba tuyển chọn nguyên nhân,
     Tịnh trường Pháp Bửu Thiên ân ban hồng.
     Ngày nay Thầy chuyển lập xong,
     Nguyên linh trách nhiệm chung đồng nhau lo.
     Ðiển lành Thầy bố ban cho,
     Các con Ðàn nội đồng lo cho tròn.
     Ðôi lời Thầy dạy vàng son,
     Các con ghi nhớ lo tròn thì thôi.

Thầy hỏi Thiên Ðàn trong mình Ðịa Ngục ở đâu? Con nào biết bạch nghe?
Liễu Bạch: Bạch Thầy Thiên Ðàn là ở trên đầu của các con, Ðịa ngục là dưới Hạ Ðơn Ðiền tức là ở Bắc Hải thuộc Thận (Tinh) tẩu lậu là Ðịa ngục... Xin Thầy dạy con...
Tùng Bạch: Bạch Thầy Thiên Ðàn là từ đầu trở lên... Ðịa ngục là từ bụng trở xuống.                                                           Ngực thuộc trung gian xin Thầy dạy con.
          Hùng Bạch: Thiên Ðàn Ðịa Ngục do tâm... Xin Thầy dạy con.

            Thầy giải tiếp:
       Liễu, Tùng hai trẻ hay hay,
     Hai con minh sáng như vầy Thầy khen.
     Hai con trí sáng như đèn,
     Ðúng y như vậy Thầy khen các trò.
     Như vầy điểm huệ ban cho,
     Liễu, Tùng, Hùng trẻ Thầy cho điểm vàng.
     Mỗi con mười điểm tại Ðàn,
     Ban cho tất cả lưỡng ban đồng đều.
     Nầy con tất cả mến yêu,
     Của Thầy nghe rõ danh nêu sau này.
     Các con tất cả tại đây,
     Thầy trên bố hóa con Thầy ghi tâm.
     Lắng nghe Thầy dạy hiểu ngầm,
     Thiên Ðường đảnh thượng từ đầu trở lên.
     Tắc Cung địa ngục làm nên,
     Ðó con hiểu rõ Thầy trên chỉ bày.
     Huỳnh Ðình ngũ khí ở ngay,
     Trung ương (trung gian) con hiểu rõ rày lờ Cha.
     Thanh thăng con hiểu đó là,
     Thiên Ðường con hiểu ấy là Khí Thanh.
     Ðó là Tâm Hỏa hiểu rành,
     Ðịa Ngục trược giáng Thận Sanh con người.
     Thuận hành sa đọa con ôi,
     Nghịch hành tu luyện về Ngôi (Tòa) Tiên Thiên.
     Trược thanh thanh trược con hiền,
     Thiên Ðàn Ðịa Ngục rõ ràng chẳng xa.
     Ðó là do ở tâm ta,
     Phật Tiên đắc vị cũng là do Tâm.
     Quỷ Ma bị đọa luân trầm,
     Thiên Ðàng Ðịa Ngục do tâm tạo thành.

        
     Thôi các con an nghỉ Thầy hồi Kim Khuyết...
             Thăng.

Bủu Minh Ðàn.Trang Web Phục Vụ Nhơn Sanh Miễn Phí.,Webmaster Trương Ngọc An

Thư Viện 1      4   5