Linh Hồn con người có 3 ngôi

1 Thần-hồn
2 Anh-hồn
3 Linh-hồn

1 THẦN HỒN thuộc về Khí Hạ-Thiên; chính là Linh thể trong 7 thể chẩt hình-hài của con người. Linh-Thể vô-hình nầy hiệp với các thể chất hữu-hình mà tạo thành một con người.
Linh-thể nầy là Nguơn-thần hay là Hạ-trí, trường-tồn bất-diệt. Mỗi khi con người chết rồi, nó lìa bỏ xác thân của con người mà nghỉ-ngơi và sống độc lập trong cõi hư-linh, nơi chốn hư-không.
Thần-hồn thường bị Thức-thần cám-dỗ sanh ra nhiều dục-vọng nên mới mê-muội và truy-lạc; phải nhờ tu tâm,
luyện tánh thì Thần-hồn mới được minh-linh và sáng suốt.

2.- ANH-HỒN
là Nguyên-thủy chơn linh (gọi là Thượng-trí) của con người đã được tấn-hóa cao-siêu rồi là nhờ có học hỏi kinh nghiệm nhiều đời,

nhiều kiếp nên mới được tinh-khôn và thanh-khiết như vậy.
Trong nhiều kiếp, Anh-hồn nhờ thọ tú-khí âm-dương mà tạo thành Huyền-linh-khí, rồi nhờ hơi nóng mặt Trời phóng ánh quang được lâu đời mà rút thâu Thiên-Điển vào mà hóa thành Linh-điển tức là Anh Hồn vậy.
3 LINH-HỒN thuộc về Khí Tiên-Thiên, chính là Linh-Thanh Điển. Tức đó là

((Linh-căn chơn-dương)) nhờ

tu hành Đạo-Đức trong nhiều kiếp trở nên Nguyên dương Thanh-Khí hết sức thuần-túy nhẹ nhàng, trong sạch. Nhờ có luyện-đạo mà được phát-huệ, thông-minh và
hiển-linh, hóa thành Linh-quang.
Linh-quang nầy tức là Linh Hồn vậy


Thi - Bài
Thầy quản-đại cao-dày sông biển
Thấy nhiều con nhác-biếng dại khờ
Thương con thầy chỉ huyền cơ
Cho con biết bến, biết bờ mà theo
Thần Đạo-học vừa gieo tính mạng
Luyện Linh-hồn vượt khoảng từng mây
Hồn con là ngọc của Thầy
Hồn con báu lạ xưa nay còn ngoài
Thân-thể với hình-hài vật-cbất
Có giác-hồn ba bưc tùy thân
THẦN-HỒN khôn dại không chừng
Theo màu thuốc nhuộm, theo lằn sống đưa
Noi chánh-lý ngăn ngừa nẻo dạy
Chính ANH-HỒN phải quấy phân minh
Hể người cốt-cách được than
THẦN-HỒN ít lúc cải canh ANH-HỒN
Kẻ tiền kiếp đeo còn nghiệp cốt
Nặng nhẹ mang những lốt thú cầm
THẦN-HỒN nhiều ít giả tâm
ANH-HỒN khó nổi việc châm nom liền
LINH HỒN vốn thiêng liêng hượt bát
Chính là ngôi bổn giác Thầy ban
Gìn cho trong sạch hoàn toàn
Thần dày Đạo Đức, Linh càng phẩm cao
Giữ trong sạch, đừng hao tinh-khí
Nguơn-thần đừng đến lụy trần-ai
Trong-ngần chẳng chút lợt pbai
Có ngày chơn bước đến đài Cao-Xanh
Phải rán nhớ trong mình sẵn đủ
Tánh linh Thầy ban phú từ xưa
Trăm điều vật-dục phải chừa
Đừng tham danh-lợi chớ ưa sang-giàu
Chữ chí-thiện là đầu trăm việc
Lẻ chánh-tà định quyết chớ từ
Thấy điều gian-trá phải trừ
Đừng cho mình vấy tiếng- hư theo người.


Cuộc tấn hóa Linh Hồn
Tức là Ngươn Thần trong một kiếp ở cõi trần thuyên biên
Trong một kiếp luân-hồi của Nguơn-thần (Thần Hồn
hay là Hạ-Trí) có thể làm được một viêc rất lớn lao vỉ-đại, đặng hay thất, tùy theo căn-quả và công-phu kể dưới đây :
1- Có thể nhờ thâu Tánh-quang Vỏ-Trụ về trong Huyền-quang-khiếu : (l) Nến biết định-tịnh tham-thoàn cố sức gắng-công nhẩn-nại mới-mong toàn bảo mới đắc cảnh đặng !...
Khi có được Tánh-quang về làm chủ trong thân mới ((diệt trừ dục-vọng)), vùng-vẩy vượt khỏì mảnh mù-ám kia của Thức-thần (là tạp-trược chất âm-khí kêu là Karma) mà hiệp lại với ANH-HỒN (là Chơn-linh hay là Thượng Trí) ! ! !
Sự diệt nầy là nhờ Tánh-Quang đã qui nhứt rồi mới Giải thoát được Giả-Quang (là tạp-tánh dục-vọng)
Il. Trong khi lên khi xuống hiệp với ANH-HỒN (chơn-linh) có thể không hiệp nổi ; bởi chưa dứt tuyêt Thức-Thần ; vì tại mê-mộng, huyền ảo ; củng bởi tại bị Tạp-Trược-Âm nó làm mê-mẩn hôn trầm, củng là bị Thức Thần nó đương quyền làm chủ như vậy đó, là vì chưa có đặng Định-tịnh tinh thần thống-nhứt ; vậy phải Hồi-Quang phản chiếu, đó là cách thâu Tánh-quang về hầu mượn lấy ánh-linh của Tánh-quang kia, đặng trừ diệt Thức-thần cho tuyệt gốc-căn trần-trược thì đâu còn gì là Mê.
Đó là cảnh-tình của phần đông chưa Ngộ nên mới ra cớ đó. (Ngộ nghĩa là gặp Chơn-sư truyền dạy). Cho nên nhà Đạo gọi vậy là (chưa có tu luyện) hay là (Vị Đắc chơn-truyền) cùng một nghĩa vậy.
Nếu học đạo mà Đắc-ngộ chơn-truyền rồi, thì Ngươn- Thần sẻ vượt lên khoản từng mây như chơi ...
III- Bị Hôn trầm nhẫn nhừ với Thức-thần mà ra mờ ám, do cho mờ-ám đó nên đành chịu hãm mình với nó mà lại đành dứt dây liên lạc với Linh-căn chơn-chưỡng vậy !
Khi con người đã sa đọa hãm vào cảnh Dục-trược mờ ám ấy rồi ; thì lại bị chia ra Thể và Dụng làm ra 2 hình thức là :
Bổn thể : Hình-người.
Sự-dụng : Lòng-thú.
Như vậy thì kiếp sống của họ rất vô-vị, vô-năng vô- giác, đã chẳng giúp ích cho cơ-tạo tuần-hườn tấn hóa ; mà họ còn đem sự họa hại cho nhơn-loại và sự thối bộ của cơ tạo lại đành bích-màng, dứt-mần sự vạn-năng đi. Ôi cứ như vậy thì biết bao giờ mà tán-thủ tới cực- điểm tấn-hiệp cùng Chơn-linh được
YẾU LUẬN
Ngày nào Nguơn-Thần (Thần-hồn) được nhờ lấy (chỗ Tham-thoàn Định Tịnh, thâu Tánh-quang về được tới mới có thể tấn tới Chơn-Giải Thoát được .
Nếu mà chúng-sanh đoạn dục-vọng của Tâm-Viên Ý Mã rồi mới vọt lên tột cao-siêu hầu tiếp xúc với điển ((Linh Thiên chi-điển)) được trọn rồi, thì khỏi bị lôi cuốn trong vòng năng-lực của Thức-thần xô đẩy nữa.
Vậy mới có thể gồm đủ chỗ Tiên-Giác-Nhi-Hậu-Động
1- Là lối theo Phật-Đà nói ta Tự-giác Giác-tha ; lối này trí thức hoàn toàn sáng-suốt vậy .

Tánh tình cao
thượng. Nếu con người đã hưởng nhờ Chơn tánh-quang tức là Chơn-linh-căn đã sẵn có đôi phần mới trọn đặng sự tự-trị, tự do, tự cường mà chế phục các sự Tà kiến thì ít có thất bại và buồn bã lúng túng trong xác phàm hồi
chưa có tu vậy.
2.- Nhưng phải biết, trong lối Định-tịnh Vong-Ngả
như Tử-thi vậy, ta đã hưởng ứng vào Bổn-thân ta rồi, lối nầy là lối ngủ Hy-Di một giấc, thì lại có cảnh lạ cho ta biết sự Ấn-chứng.
A) Như là Ngủ-tạng động như bánh xe lăn .
Nơi hạ-thận phát-gian thì Qui-Đầu diêu động. (Khí về phải luyện lấy đơn dược).
Cứ như vậy là đã hưởng-ứng Chơn-khí về đặng rồi, đó là đắc cảnh ấn-chứng vậy. Do chỗ cảnh đó mà Tiên-gia Phật-Đạo kêu rằng Càn Khôn Giao-cấu hoặc Tịnh hoặc động thì có huyền-diệu chí linh vậy. Chừng đặng Hồi-Quang Phục-Vị rồi thì coi lại cảnh đau khổ của cảnh giả-tạp nơi dục-vọng trong kiếp phù-ba nầy còn gì mà hại ta trụy lạc nửa .
Muốn Ngươn Thần (Thần Hồn)
Đặng tấn hóa theo 3 việc Đắc Thất Vĩ Đại đã nói đó thì phải làm sao ?
Muốn cho Nguơn-thần (Thần-hồn) đặng tròn được 3 việc đã nói chỗ tấn-hóa, hầu diệt dứt tuyệt căn của Thức- Trần, thì phải đem lấy Tánh-quang (thánb-trí) về trong Huyền-quang-khiếu hay là (Cốc-thần) mới có thể bồi bổ bổn-thể của con ggười được tươi-nhuận mà tuyệt cả
vạn kiếp trược trần lưu tồn lại nửa, đó là Thức Căn đã tiêu .
vậy thì ta tất phải lo Thoàn Định Vong Ngã mới đặng Định nầy là Định cho tới tột chỗ Vô Định mới đúng việc tu theo Tân pháp của Thượng Đế Ngọc Hoàng dạy truyền từ năm Bính Tý (1936) 8 tháng 9 ban truyền Chơn Pháp vậy.
Đạo Trời rất tinh vi ; chỉ rỏ huyền vi bí pháp giữa thanh thiên bạch nhựt, cho các trò tâm đức học lấy mà làm đặng trở về ngôi xưa vị củ.
GIÃI-NGHĨA
1. - Tiên-Giác-Nhi-Hậu Động ấy là ((Thuần âm chi khí)) nó manh động là Tạp Khí Tịnh Khởi, trần căn phóng túng, trước muốn việc nầy, sau muốn việc nọ bèn tưởng tượng dục tâm mới sanh ra Ý Thức Dục Vọng ; Dục vọng bèn sanh và dục thúc dâm niệm giáo cấu, nên gọi là Tạp Niệm Phát Khởi chi động tình, vậy là (thuận Sanh Phàm Nhơn)) đó .
Nên kẻ tu thoàn phải trừ trược ý đó tức là cái ((trước biết mà sau động))

bằng không thì sanh ra bịnh và hại.
Trái lại theo Tiên Gia Thánh Thể thì Tiên Động Nhi Hậu Giác là ý nói : Sự Chơn niệm tự khởi là không có giả ý trong chỗ niệm, niệm chi hết ; tuy không có niệm tưởng chi chi hết, mà huyền-cơ mầu nhiệm tuần huờn đến khí độ, tự nhiên nhứt niệm niệm sanh, chơn dương sảng xuất liền liền liên tiếp theo sau !! Rất huyền diệu lắm .
Trống trống không không vong ngã mà có Chơn Tánh Khí phục huờn về phát Động Niệm Tâm, nên mới dám gọi là Chơn Niệm Chi Động.
Đoạn mới dùng Chơn Ý dẩn Chơn-niệm (hay chơn-chưởng) nầy mới có thể bồi bổ đặng khắp toàn châu thân Ngủ tạng thượng tầng mà còn điểm nhuận linh căn đó vậy .
mới gọi là Trường Sanh Cửu Thị, là lối Hoãng hoãng hốt hốt vong ngả kỳ trung hữu vật đó.
2. Tịnh-Định Vong Ngã như Tử-Thi gọi là Chơn Tịnh Chánh Pháp , đả có nói rằng : Chết mà không chết, sống mà không sống ((tử-nhi-bất-tử, Sanh-nhi Bất-Sanh) mới là trúng vậy. Trái lại mà mê-mẩn hôn trầm thì còn bị Thức Thần nó đương quyền làm chủ vậy.
Nếu Chơn Tịnh vong ngã là Tịnh Cực, đặng thâu lấy Tiên Thiên Khí đó thôi.
Còn Hậu-Thiên-Khí hết dụng đặng nữa do đó mới dám nói là Tử-nhi Bất Tử. Sanh Nhi Bất Sanh vậy ; vì lối đó nó lủng đửng lờ đờ mà nhẹ nhàng thân thể vui khoái tứ chi vậy
Nếu đặng lối nầy thì phải phân biệt 2 lẻ là :
I- Lối vong ngả nầy chỉ còn có Thần và Khí là Hồn Sanh mà thôi.
II - Còn Bổn-mạng là Thức Thần ; đả bị tiêu diệt rồi.
Nhưng còn một bí yếu về Độc điều nữa đây là :
Phép tu Đại Đạo của Ngọc Hoàng chẳng dụng vật chi mà trợ nó đặng ; chỉ dùng Hư-Vô Tiên Thiên Khí mà thôi ; vì nó thiệt là Chơn-khí nên gọi là Kỳ tựu tắc hữu Kỳ tán tắc vô.
Bởi vậy cho nên tu về Trường-sanh, trước hết học Tử rồi sau mới có Sanh... cho nên phải chịu xấu nhược mới nói là phép Bá Nhựt Trúc Cơ đó. Vì không tu thì thuận hành theo cơ Thiên Địa ((nhứt Bổn tán vạn thù)) đó mà bảo dưỡng về xác thịt Hậu Thiên.Vậy nay tu theo về Tân Pháp Đại Đạo Cao Đài Giáo-Chủ thì nghịch chuyển Châu-Thiên cho Vạn thù Qui Nhứt-Bổn; cho nên trước hết chịu Tử mà trừ khử nghiệp chướng cho Chơn Hồn qui về Đạo Tâm vậy. Nên phải chịu Tử trước ; rồi sau mới đặng phục sanh ; bởi trong Kinh Phật có câu rằng Vãng Sanh của Di Đà là ((Bạc nhứt thiết nghiệp
chướng, Căn bổn Đắc sanh Tịnh Độ ĐÀ-LA-NI vậy )) Đó là sau mới Phục-sanh đặng mà Trường-Cửu vì vậy ((phải lấy Khí mà nuôi Thần đó)).
Trái lại không nên dùng Thần mà bổ Khí nửa.
HIỂU TẠI SAO VẬY ?
Do tại Tỳ-tướng chưa được hẹp nhỏ lại vì còn chứa nhiều tạp-chất quá ; bởi đó cũng thành không đặng Chơn-Tịnh, cho nên Dương-khí Tiên Thiên thâu vào mà tựu ở lại có đặng đâu ; lại còn lắm khi pha chất nhục-thể nửa. Như vậy đâu có gọi là Tịnh-Định Vong-ngã như Tử-thi (Chơn-Tịnh) cho đặng. (Vì vậy mà người luyện-Đạo phải ăn chay trường).
Thần-vị thạnh nên sanh ra mê-muội đó là Hôn-trầm, vì bởi thâu Âm-khí vào nên Lục-dục Thất-tình vẩn còn mà ra vậy.
Nếu mà cứ thâu Âm-thần vào mải thì lần lần phải bị tiêu diệt đâu là Đại-Đạo Tiên-gia nữa.
3.- Huyền-Quang-Khiếu là một cái lỗ-quang rất bí yếu bí-diệu phép mầu-nhiệm

thâu lưỡng-khí Âm-Dương
ngưng tựu hòa-hiệp mà có ra. Nên Đạo-gia gọi là Chơn- Diệu Khiếu-chánh

là cho Khảm-Ly giao xứ đó.
Khảm-Ly giao-xứ là cho Trung tâm Thái-cực hay là Đạo-tâm của con người. Tức là Tiên-Thiên ngủ-nguơn là Lương-tri và Tiên-Thiên Ngủ-khí Lương-năng tương-hội tại nơi Cung-trung đơn-điền vậy. Duyên cớ đó mới gọi Khảm-Ly giao xứ là cho Huyền-Quang-Khiếu vậy.
Khiếu nầy ngoài Cửu Khiếu của Nhơn-thân, nhờ tu luyện lưỡng huyền-khí hiệp về mà có vậy.
Hể có tu có luyện mới có Khiếu Huyền-Quang nầy, nếu không tu-luyện thì không có Khiếu-diệu nầy.
Trong Đơn-kinh nói rằng :
Thử Khiếu phi phàm Khiếu, Càn-khôn cộng hiệp-thành
Bổn lai vô nhứt vật ; nơi hửu Khãm-Ly-Tinh ( 1 )
Khảm-ly-tinh nầy là Tinh-hoa của Nhị-ngủ [/COLOR[color=blue]]vậy ; rồi Tinh-hoa của Nhị-ngũ là Ngủ-nguơn với Ngủ-Đức
đó là chỉ rỏ Lương-tri Chơn-tánh và Lương-năng Chơn-Tinh của linh-khí Vỏ-trụ kết hiệp lại mà nên chổ nầy gọi là Thánh-Thai, mà bọc Thánh-Thai đây gọi là Huyền-Khiếu vậy.
Do chổ diệt-trừ Thức-Quang-Tữ đi, là những tạp-trược-âm lưu-tồn, tán tuyệt là bởi nhờ Tánh-quang (Thần-hồn) sống lại do nhờ rút thâu Linh-điển được nhiều ; là nhờ có nhiều ánh-sáng linh-điển. Đặng sự sáng suốt huyền-diệu mới hiệp được với Đạo vậy.
TỔNG KẾT LUẬN
Gom lại mà nói ; Nếu chẳng sớm lo tu Thoàn Định thì Thức thần (vọng-niệm) xao-động hoài, vậy xin hỏi lấy đâu mà an-thần, lấy đâu mà định trí. Như T'hần không an, Trí không định ắc phải chịu hoại nát Linh-căn. Do chổ diệt-trừ Thức-thần, chỉ cần có thật-hành phép Nhứt bất-kiến hữu-vô là Chơn-tất Cảnh (I) đó là chơn-giãi-thoát.
Được chơn-giải-thoát mới làm trọn phận-sự một kiếp luân-hồi của Ngươn-Thần, mà tấn-thủ tới tột nơi
siêu việt thì thấy thông-thã tiêu-diêu Linh-tánh đó là Chơn-giác.
Sự khổ về luân hồi của Ngươn-Thần phát thi hành chỗ trả vay, vay trả đó là tại Vọng-niệm của Thức- thần phát sanh mà có vậy.
Nếu có vọng-niệm của Thức-thần dục-thúc, mà ai biết được Định-tịnh cho lâu ngày thì sẽ nhờ Tánh-quang dứt tuyệt thức quang (mạng quang) mà hễ thức quang chết rồi,

thì Ngươn Thần sống lại đâu còn là khổ và sanh nghiệp-quả.
Mà không Vọng-niệm nửa đó là tán tiêu trược âm thì đâu còn khổ nữa !... Hết đau khổ là trọn ròng Thanh Dương Khí thuần dương rồi.
Mà khi hết khổ là đến chỗ Linh-Chơn chứng quả "Tam Diệu, Tam Bồ-Đề vậy (2)
Nếu muốn đặng ((Chơn-Linh Toàn-Giác như Phật thì chỉ có một đường là phải đem hiệp với Bổn-Tánh Thiên Chơn Chí Linh kia mà ta đã làm mất đi rồi, thì bây giờ phải nhờ phép Định-Tịnh thâu Tánh-Quang trở về hiệp vớiCăn-Mạng nơi Khảm-Ly Giao Sứ (3)
Và phải tập quán phép Hồi-Quang phản-chiếu mới đặng Hồi-Quang. Quang tức là Linh-Quang phản chiếu qui ư Khí Huyệt.Khi Linh-Thiên-Điển qui ư Khí-huyệt nên Châu rồi thì Chơn thể toàn-linh, nhẹ nhàng, hết ăn vật-chất chỉ còn có lấy thực-khí sơn-hà mà thôi.
1 Tất-cảnh-không là Đắc Đạo vậy, mà đắc Đạo là vô Đắc vô-vô đắc hựu vô không không không ; vô vô không mới là thiệt Tất-cảnh-không nghĩa là không còn Tam-tâm và tứ tướng gì cả. Nếu Tam-tâm tứ-tướng bặt đứt thì còn đâu vọng Niệm đó là Thoàn , Thâu đặng Bổn Tánh thiên nhiên cho sơ sanh đó , Phật gọi rằng ((Viên Minh phổ chiếu bổn hườn sơ))
2- Tam-diệu Tam Bồ-Đề là : Chơn hưởng-tử linh căn của Tinh Khí Thần ; có ra ánh linh này chiếu diệu huy hoàng mà phát hào-quang cũng nhờ Thoàn-Định đó !...
3- Khảm Ly giao-xứ ấy là chỗ chơn Tinh chơn-Khí chơn Thần ngưng tựu về cả ba, mới biến hóa ra chơn-chưởng-tử hay là Phật gọi Bồ-Đề , mà cũng kêu là chỗ Khí căn-huyệt của Tiên-gia vậy ; Tánh-mạng con người gom vào nơi đó cả

Thư Viện 1      4   5