
PHÉP LUYỆN TĨNH CÔNG “HỖN ĐỘN SƠ KHAI”
Phép luyện tĩnh công “hỗn độn sơ khai” được sinh ra theo nguyên lý trời động, đất tĩnh” và “đất động trời tĩnh”. Tĩnh (lặng) động là xác thịt tĩnh mà bản tính động. động tĩnh cùng gốc, cực động thì sinh tĩnh. Động tĩnh kiêm lẫn nhau, trong động có tĩnh, trong tĩnh có động để sản sinh ra “chân động chân tĩnh” (động thật sự, tĩnh thật sự) kết hợp với nhau mới có thể động và tĩnh ở cùng một thể, chẳng những có thể nối thông trong cơ thể người mà còn cùng vũ trụ hợp thành một khối, đó chính là chiếc cầu thang bằng vàng để bước chân lên công phu thượng thừa.
Phép luyện khí công tĩnh “ hỗn độn sơ khai” là cực nguồn của tính, mạng hóa hợp với giai đoạn cấu trúc cơ bản, căn cứ theo quy luật cực hóa của “sinh hóa trở lại” trong “ nguyên cực đồ” (hình vẽ tượng trưng nguồn gốc cực sâu xa của vũ trụ và con người theo Đạo giáo) rút ra từ ba nguồn cực (là) nguồn của vũ trụ: hỗn độn sơ khai, thanh dương hóa nhật ( trời xanh trong hóa ngày), thủy phân trú dạ (bắt đầu chia ngày đêm), ý nghĩa sáng sủa của trời đất hợp với “nguyên khí” (khí nguồn ban đầu) của cơ thể người mà quy về “tính, mạng” hóa thành “chân tĩnh chí bảo” (của cực báu của tĩnh thực sự) theo “túi đựng” (nguyên văn “thác thược” một kiểu túi) rồi theo ống dẫn trứng, ống dẫn tinh mà xuất ra. Nam nữ giao hợp, đó là lý luật của sự ngưng kết hai “vật” để thành thai. Mở ba nguồn đầu của vũ trụ do các khiếu huyệt lông tóc nối thông với cơ thể, đó là điều bí mật của con người. định ra âm để niệm chân kinh không có chử (theo truyền thuyết cổ được thể hiện trong “Tây du ký” khi hành giả lấy phải kinh phật không có chữ bèn thắc mắc. Phật tổ cười bảo: “kinh không chử mới là chân kinh” (kinh thật sự). đây là phép để dung hợp điều chế nguyên khí của vũ trụ hòa với nguyên khí của con người tụ tập tích trữ lại ở hạ đan điền, ở cửa quan vĩ lư (huyệt) và Hạ hòang đình khiến cho nguyên khí của con người (chân tinh của nam, chí bảo của nữ) hóa sinh cao độ, vận hành khắp trong ngoài cơ thể, đạt đến sự hỗn độn sơ khai của vũ trụ, đó là nơi chốn hợp lại ban đầu của tính mạng con người.
Phép tĩnh công “hỗn độn sơ khai” chọn cách thầm niệm chân kinh không chữ” vẫn giữ việc mở các khiếu huyệt, “nguyên âm” (các âm thanh ban đầu) thúc đẩy sự thông nối, khống chế và hít tích tụ nguyên khí của vũ trụ, điều hòa nguyên khí trong cơ thể người hóa hợp lại thành một thể, làm lại sự biến hóa trong nội bộ cơ thể căn cứ theo sự biến hóa giờ giấc của trời đất, đó là nguyên khí vận hành tương ứng với sự khai mở, nối thông tích tụ của khiếu huyệt theo các giờ Tý, Sửu, Dần là giờ giấc các khiếu huyệt hạ đan điền, vĩ lư quan, Hạ hoàng đình hoạt động để tụ hợp, sinh hóa và trên cơ sở đó thông qua khẩn quyết công phu mà vào khiếu (huyệt), kêu gọi linh tính trong khiếu (huyệt) hợp cùng khẩu quyết, hình thành nên công năng mới của khiếu huyệt, khống chế sự vận hành của khiếu huyệt trong các giờ Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi khiến cho “nguyên khí” trong cơ thể không bị phát tán ra ngoài cơ thể mà được tiếp tục dẫn đạo quay trở về nguồn đầu, về tới căn cứ để tích tụ, tiếp tục sinh sinh hóa hóa, vận hành đi lại nữa. hít tụ nguyên khí của vũ trụ, phát động nguồn khí của cơ thể để cải biến tố chất trong thân-tâm. Trong sách “Nguyên cực mật lục” (lời mật của nguồn cực) có viết: “nguyên khí cực hóa địa nhân thiên, địa chi thời vận cửu khiếu toàn, thân thiên hợp hòa vi nhất thể, phàm nhân tiện thị hóa thần tiên” (“Nuyên khí (tức khí từ nguồn đầu) cực hóa đất người trời. địa chi theo giờ vận chín khiếu xoay vần, người trời hòa hợp thành một thể, người thường bèn cũng hóa thần tiên”).
Phương pháp lưyện công này căn cứ vào quy luật cực hóa “ba nguồn đầu sinh hóa trở lại”, vũ trụ thông qua âm trở lại dương, có-không chuyển hóa, trời đất trong dâng lên đục hạ xuống, diễn biến sinh sinh không bao giờ dứt đoạn dẫn đến ba nguồn đầu tiên thiên với ba nguồn đầu hậu thiên hóa hợp với nhau mà thành hình hiện tượng rỏ ràng. Con người thừa hưởng ba nguồn đầu tiên thiêncủa cha mẹ mà ra đời, rồi hóa hợp ba nguồn đầu hậu thiên nước và thức ăn mà thành người, rồi hóa trở lại rò rỉ dần cho đến hết ba nguồn đầu tiên thiên lẫn hậu thiên thì chết đi. Tiên thiên chân khí con người ta cất giữ ở thận, tinh khí hậu thiên dựa vào tỳ vị (lá lách dạ dày) thu lượm ở thức ăn với nước, vào khí trong sạch dựa vào sự ít khí ở phổi từ giới tự nhiên. Chức năng của các tạng, phủ phối hợp cùng với nhau đem chân khí tiên thiên, tinh khí hậu thiên và khí (trời) trong lành ngưng hợp lại mà thành thân xác con người. “nguyên khí” (khí đầu nguồn) nạp vào huyệt mệnh môn, đồng thời vận hành phân bố khắp trong, ngoài cơ thể khiến cho con người sinh trưởng một cách thành thục, trong thận tạng có ống dẫn tinh (hoặc ống dẫn trứng) tiếp sự mệt nhọc của mạch thận (tức kinh túc thiếu dương thận) do đó con trai đến tuổi 16 vì đã có thận khí thực nên “chân tinh” mới rò rỉ ra, con gái 14 tuổi do thiên quý vận hành mà “chí bảo” (của cực báo) rò rỉ ra (tức rụng trứng hành kinh). Do “bẩy tình sáu dục vọng” thúc đẩy mà có khi rò rỉ ra ngoài. Biết tiếc mà để “chân nguyên, chí bảo” (tinh trùng và trứng) phát động nguồn “khí” tạm cắt đứt cánh cửa mở vào “địa ngục”.
Tu luyện bước công này là trực tiếp ra tay từ hạ đan điền cực kỳ cao xa khó hiểu, đây là nơi ống dẫn tinh (hoặc ống dẫn trứng) thông với tiền âm. “Chân tinh chí bảo qua đây chuyển hóa” thuận thì sinh người, ngược thì thành phật”. tu luyện hạ đan điền, dùng khẩu quyết luyện công để luyện hóa “chân tinh chí bảo”, cực hóa ra khỏi “dương trong âm”, lại phối lấy cửa ải vĩ lư cực phát khỏi “âm trong dương”, hội hợp ở hạ hoàng đình, xây dựng căn cứ đại của nguyên khí ban đầu ở tại đây. Người còn trẻ có thể thay đổi dung mạo, giữ mãi tuổi xuân, người già thì cải già thành trẻ. Thọ mãi không già.
Xây dựng căn cứ địa của nguyên khí ở tầng thứ tư là vận luyện “tam hòang cửu chuyển”. “tam hoàng cửu chuyển” là chỉ các giờ “Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân< Dậu, Tuất, Hợi” là thời khắc nguyên khí vận hành qua “cửu khiếu” (chín khiếu) cùng hạ đan điền, cửa ải vĩ lư, hạ hoàng đình là ba “căn cứ địa” trộn lại thành một thể, triệt để chặn tuyệt đường “chân tinh chí bảo” đi ra ngoài, mà đi ngược trở vào, trở lại nguồn đầu. kiên trì vận dụng tập luyện công phu “tam hoàng cửu chuyển”, con trai hết cái họa di tinh, trở thành cơ thể “không còn đường rò rỉ”, con gái thì có thể “đứt mạch sông núi”, thôi hẳn kinh nguyệt, không còn sinh nở nữa. đối với trai gái chưa thành hôn hay đã thành hôn mà chưa có con cái thì khỏi cần luyện “tam hoàng cửu chuyển” mà chỉ cần phân rò hạ đan điền, vĩ lư quan và hạ hòang đình trong lúc luyện công thì chẳng còn chút ảnh hưởng gì đến cái tệ công năng sinh nở mà còn có thể thu được hiệu quả lý tưởng không đạt tới điều đó. Đồng thời căn cứ vào quy luật vận động biến hóa “sinh hóa trở lại” của trời đất, cơ thể con người cũng có cơ hội đạt “lớn, hóa, thu, giữ”. Mùa hạ tới (hạ chí), mùa đông tới (đông chí) xong , 36 ngày sau đó là thời kỳ “giữ tinh”, cấm tuyệt giao cấu. hàng thánh ở người, trời, âm dương gặp gỡ (giao hội) vào ngày mùng một và ngày rằm cũng cấm tuyệt giao hợp. giờ giấc nguyên khí hóa hợp trong cơ thể người ta trong 12 giờ của ngày là các giờ Tý, Ngọ, Mão, Dậu cũng cấm chỉ làm tình. Trong người ta có chu kỳ biến hóa 60 năm thì trước 25 tuổi nên 6 ngày giao cấu một lần, trước 35 tuổi nên 12 ngày một lần, trước 45 tuổi nên 18 ngày một lần, trước 55 tuổi nên 24 ngày một lần, trước 65 tuổi thì nên thôi hẳn giao hợp để giữ tinh khí kéo dài tuổi trời.
A. khẩu quyết
“Mở đầu hỗn độn đạo đứng đầu
Sửu đất, người dần, tý sinh trời
Âm thuận dương ngược đương trường sinh
Điên đảo về nguồn trở (lại) thai tòan
Chín rồng lật chuyển, rượu cam lộ
Ba vòng xoay vầng khỏang hư không
Mầm thiêng mọc dài non sông đổi
Cây khô gặp xuân xanh ngàn đời ”.
Nguyên văn: “hỗn độn sơ khai đạo vị tiên, Mão địa, nhân dần, tý sinh thiên, âm thuận dương nghịch trường sinh lộ, điên đảo quy nguyên phải thai toàn. Cửu long phiên chuyển cam lộ tửu, tam hoàng bàn nhiễu hư không gian. Linh miêu phát trướng, sơn hà hoán, khô mộc phùng xuân vạn niên trường.
B.phương pháp niệm khẩu quyết
Ngồi xong dựa theo yêu cầu tập luyện mà “điều thân”: toàn thân thả lỏng, chót lưỡi đưa lên hàm ếch, chiếu ngược (tức nhìn ngược vào trong) các khiếu huyệt tương ứng. hít khí vào, thọat đầu hít bằng miệng, miệng hơi mở lưỡi đặt ngang, tự nhiên hít một ngụm (hơi) khí, miệng khép lại, lưỡi đưa lên vòm họng (hàm ếch) ý tưởng tượng khí vào tận các khiếu huyệt tương ứng (như chỉ dẫn ở phần lý luận đã dẫn).
Sau khi đã thuần thục thì dùng mũi tự nhiên hít khí vào khiếu huyệt. khí vào khiếu huyệt thì bắt đầu niệm khẩu quyết. theo khẩu quyết mà hít khí vào tận khiếu huyệt sao cho khí từ từ dung hợp với khẩu quyết (tức là từng bước, từng câu khẩu quyết đưa khí đi theo đúng trình tự của khẩu quyết), lấy khẩu quyết tới cực hóa khí hậu thiên (tức khí hít vào) trở lại sinh thêm khí tiên thiên (có sẳn trong cơ thể). Khi ý niệm đã tưởng tượng khí hít vào hoàn toàn dung hóa (tức khí hậu thiên hóa hợp trọn vẹn với tiên thiên) và sinh hóa trở lại thì nuốt tân dịch sinh ra (nước dãi trong miệng) đưa vào tận khiếu huyệt, rồi lại tự nhiên hít một ngụm (miệng) khí vào khiếu và tiếp tục niệm khẩu quyết mà hóa khí, lại nuốt tân dịch, trở lại hóa tụ ở khiếu huyệt và cứ tiếp tục như vậy không dứt đoạn, hậu thiên phát động; khẩu quyết công phu giúp (nuôi) dưỡng, tiên thiên sinh trưởng phát triển, cho tới khi hít một ngụm khí vào trong cơ thể niệm được bao nhiêu khẩu quyết thì tùy từng người cảm giác thế nào trong luyện công mà định (tức khí hít vào dẫn đi theo khẩu quyết niệm dài ngắn bao nhiêu là tùy theo công phu hàm dưỡng có thể cảm giác được mà quyết định, tránh gò ép phản tác dụng). yếu lĩnh là: hít khí tự nhiên, tự nhiên niệm khẩu quyết, tự nhiên tụ hóa “khí –quyết”, không nên miễn cưỡng ép khí và thở khí (ra), trong quá trình niệm khẩu quyết sẽ tự nhiên hình thành, còn sự không may bất ngờ thì không kể.
Yêu cầu của niệm khẩu quyết là: “khẩu quyết công phu nổi trong tâm, khẩu quyết công phu xuất trong âm (thanh), khẩu quyết công phu nhập vào tai, khẩu quyết công phu qua trong mắt (tức nhìn trở vào nội chiều, tưởng tượng ra), khẩu quyết công phu rơi xuống (là) tâm”. Khẩu quyết thúc đẩy hoạt động, cứ từng âm từng âm (từ ngữ trong khẩu quyết) rơi xuống từng huyệt phải giữ “khí-quyết”, cũng từng âm, niệm quyết. huyền quan chiếu định, khẩu quyết luyện công tương ứng hòa hợp với khiếu huyệt. điều động nguyên khí phát nhiệt nhẩy động, tụ hợp thành châu. Người mới học không cần quá chú ý đến hàm nghĩa trong khẩu quyết luyện công để phải suy nghĩ nhiều, cứ tự trong niệm khẩu quyết luyện công mà dần dần hiểu ra và sẽ là : “cứ nổi trong mù mờ, rồi tự rỏ ràng tới!” phải ghi nhớ là: “ niệm (quyết) mà không niệm, không niệm mà vẫn niệm” và tự chuyển hóa.
B.yếu lĩnh để hiểu được khẩu quyết
Mỗi bước luyện của công phu này đều được diễn hóa dựa theo bức tranh “nguyên cực đồ” hợp với quy luật “sinh hóa ngược” của trời đất để đạt được tới sự đồng bộ của người và trời. yếu lĩnh để hiểu thấu được khẩu quyết chỉ có thể đề ra được sự gợi ý, người học có thể học một suy ra hai ba.
1.trước hết, xét về mặt ý nghĩa từ ngữ để hiểu biết một cách dễ hiểu thì “khẩu quyết luyện công” (nguyên văn “công quyết”) là phép tắc để tu luyện mà cũng là năng lượng vật chất. như câu “hám sơn điền hải bình ba lãng” nếu giảng theo phép tắc thì “sơn” (núi) tức “tâm”. “hải” (biển) là thận, “hám sơn điền hải” (lay non lấp biển) tức là “tâm thận thông nhau”. Khiến cho thận có “chân tinh, chí bảo” do sự khống chế của tâm mà tụ hợp lại ở hạ đan điền do đó có thể làm cho yên ý nghĩ lung tung cũng như tình dục quấy rối trong tâm, chiến thắng tình dục. xét về mặt năng lượng, niệm động câu này thì sẽ sinh ra được năng lượng “lay non lấp biển”, điều động “kim tân ngọc dịch” (chất dịch vàng ngọc) tức là thứ vật chất tinh vi tích tụ sự sinh trưởng có thể tính của tâm thận, công lực đạt tới uy lực chẳng những có thể “lay non lấp biển”, được ở trong cơ thể con người mà còn có thể thông suốt tới giới tự nhiên để sản sinh ra uy lực tựa như “lay non lấp biển ”.
2. hiểu được do bản tính. Ý niệm có thể sản sinh ra động lực, hoạt động của ý niệm phản ánh lên phạm vi của bản tính, ý niệm là sự biểu hiện sơ cấp của “nguyên âm” (âm đầu tiên). Đây là nơi bản tính trao tay, phải thường xuyên quan sát và để tâm tới ý niệm, không ngừng tự ta phải tích cực hóa, bổ xung nguồn năng lượng mới cho khẩu quyết luyện công, nâng cao giác ngộ hóa thành hành động của bản mệnh, thể hiện ra phép tắc “tiếp liên thiên địa tức hậu thiên” (nối liền trời đất tức hậu thiên). Khôi phục năng lượng cực phát của bản mệnh để bổ xung chổ chưa đủ của bản tính, đạt tới độ tương giao. Như câu “lay non dốc biển yên sóng lớn, tân vàng ngọc dịch dài mầm thiêng”, đây là phạm vi của bản tính để làm yên “bẩy tình, sáu dục vọng” (nguyên văn: “thất tình lục dục”) nằm trong thân xác con ngừơi để đối phó với làn sóng cuộc đời (nguyên văn “hồng trần”) trên trần thế do đó có thể sinh phát ra “tân vàng và dịch ngọc” (tức nước dãi còn được gọi là nước thần-“thần thủy”) hội tụ lại trong miệng, ngon ngọt thơm hương . đấy là sự chắc lọc vật chấttinh vi trong thân xác thuộc dạng “trong âm nổi dương” của cơ thể. Uống thứ “tân vàng dịch ngọc” đó đưa xuống hạ đan điền khiến cho thứ tinh túy của bản mệnh quy tụ về hạ đan điền, rồi qua sự thăng hoa, dung hợp vào trong bản tính.
3. vận dụng các khiếu huyệt và kinh lạc trong cơ thể để phát hiện năng lượng tiềm ẩn ở trong khẩu quyết luyện công. Ý thủ hạ đan điền có thể sinh phát ra “tân vàng dịch ngọc”, ý thủ vĩ lư quan có thể nối thông hai mạch nhâm, đốc để mở thành “một đường cao xa sáng rỡ” (nguyên văn “nhất tuyến huyền minh”), “ý thủ hạ hòang đình” có thể “bẩy khiếu mở ra” (tức huyệt mệnh môn, huyệt giáp tích quan, ngọc chẩm quan, thượng hòang đình, thượng đan điền, thiện cung, trung đan điền) thông với chu thiên.
Tầng thứ tư của việc tu luyện là nối thông ba “căn cứ địa” đạt tới “cửu long phần thủy” (chín rồng phun nước) “cửu long” là “cửu khiếu” (chín khiếu tức bẩy khiếu vừa kể trên với hai khiếu trung hòang đình và hòang kim điện). “chín rồng phun nứơc” chỉ việc năng lượng tiềm ẩn trong chín khiếu đã được điều động, hình thành sự vận chuyển biến hóa chu thiên để phá trừ sự “hỗn độn” ban đầu trong cơ thể mà bứơc đầu thấy ánh sáng của thành công.
4.lợi dụng trong “chân kinh không chử” để hấp thu tích tụ năng lượng to lớn biến hóa của tự nhiên, để cải biến tố chất cơ thể, để mở rộng phạm vi ý thức tư duy của con ngừơi, phát triển công năng của “bản tính”. Như những sự biến hóa năng lượng của tự nhiên ở trên đã nhắc: “dời non lấp biển”, “sấm rung chớp giật”, “chín rồng lăn lộn” v v… dung hợp vào làm một bên trong cơ thể và nối thông với quy luật biến hóa của khỏang không vũ trụ. Đó là “trời người tương hợp” đồng bộ và là một khâu trọng yếu theo thứ tự đồng bộ của việc luyện công.
5. bản tính và bản mệnh gặp nhau nối thông trời đất nên có thể ra vào có chổ hở hoặc không có khe hở, bày ra một thế giới mới tinh. Như “non sông đổi”, “xanh ngàn đời”, “vui tiêu dao”, “khôn mới càn diệu”, “dây leo vàng”.
Phép luyện công “hỗn độn sơ khai” có khẩu quyết luyện công chia ra làm bốn tầng: cải biến đối với bản mệnh, phát triển đối với bản tính, đối với sự tương hội với quy luật của tự nhiên v v…
Phép luyện công pháp này ai ai cũng có thể luyện được cả, già trẻ đều được. người học, luyện các phép luyện công khác cũng có thể đồng thời tu luyện khí công tĩnh, cũng thu được lợi ích rỏ rệt. vì do đất này, người này, lúc này mà có khác lạ, có người chỉ sau ít ngày đã thấy hiệu quả có người phải sau mấy tháng mới thu được kết quả. Người có năng lực hiểu biết cao có thể nhân bước luyện công này mà có thể trực tiếp học để tiến bước cao hơn.
D. phép luyện công
Cơ sở xây dựng bước luyện công này là phát sinh tích tụ nguyên khí, cộng lại để vì bốn tầng thứ hạng mà hòan thành công pháp. Tầng thứ nhất là “quyết tụ hạ đan điền”, tầng thứ hai là “quyết tụ vĩ lư quan”, tầng thứ ba là “quyết về hạ hòang đình” và tầng thứ tư là “quyết về hỗn độn sơ khai”. Trước tiên luyện tầng thứ nhất đạt được yêu cầu thì luyện sang tầng thứ hai và cứ tiếp tục như vậy với các tầng sau. Dưới đây là khẩu quyết, phép luyện công và hiệu ứng của từng tầng thứ được phân biệt giới thiệu với bạn đọc:
1. tầng thứ nhất: “quyết tụ ở hạ đan điền”
A. khẩu quyết luyện công (công quyết)
“hám sơn điền hải bình ba lãng
kim tương ngọc dịch trường linh miêu
liễu tử khước sinh trường sinh lộ
âm dương giao hợp lạc tiêu dao.”
“dời non lấp biển yên sóng cả
tương vàng dịch ngọc dài mầm thiêng,
chết rồi vẫn sống đường trường sinh
âm dương giao hợp sướng tiêu dao”
An, Jin, Mí, Bì, Ba, Ýa, Yìn, Pì, Bĩ, Ding (âm Bắc kinh)
Am, Cấm, Mê, Tật, Bát, Áp, Ẩn, Phích, Tỷ, Định (âm hán việt).
B. phương pháp luyện:
tư thế. Kiểu ngồi là chuẩn nhất, ngồi thoải mái tự nhiên là hay, ngồi xếp bằng (thiên bàn thức) càng đẹp. nếu cơ thể yếu ớt, bệnh tật có thể nằm (luyện tập các tầng thứ khác cũng theo tư thế này).
Thủ khiếu. điều chỉnh tư thế, hai mắt hơi nhắm, nhìn ngược vào trong huyền quan. Hít thở tập trung, ý niệm từ huyền quan, từ bên trong mạch nhâm mà xuống, phản chiếu hạ đan điền. bắt đầu ý niệm khai thông cảm giác huyền quan và hạ đan điền có một luồng sáng nối huyền quan và hạ đan điền thành một thể. (Ý) thủ hạ đan điền niệm khẩu quyết công phu động, khẩu quyết rơi đúng hạ đan điền và đồng dạng sủi lên (nổi bọt) trong huyền quan. Trong hạ đan điền có huyền quan, trong huyền quan có hạ đan điền. đó tức là huyền quan (“Tâm”) và hạ đan điền (“khiếu”) hợp nhau quy về một thể. Niệm quyết có thể đạt hiệu quả nhiều kiểu, khai thông hiểu bản tính mà cũng là nối thông bản tính. Nếu nhắm mắt để nhìn vào trong, chiếu trở lại, mà dễ bị mê mẫn thì có thể mở hai mắt nhìn ngang, có thể giữ chắc chót mũi, ý định khiếu huyệt. niệm khẩu quyết cũng có thể từ niệm thành tiếng dần chuyển sang niệm thầm.
Niệm khẩu quyết. nhất tâm niệm quyết, tự nhiên hít khí (vào) rơi xuống tích tụ ở hạ đan điền, niệm đi niệm lại quyết và không ngừng nuốt tân dịch (nước dãi), niệm càng nhiều càng tốt, trăm lần, ngàn lần, vạn lần chưa phải là nhiều. hoặc một tầng thứ luyện công chí ít cũng phải niệm đủ mười hai vạn tám ngàn lần. tính toán số lần niệm quyết, không phải niệm bao nhiêu lần là đúng mà là khi khẩu quyết niệm phải rơi đúng “khiếu” sản sinh ra năng lượng mới là chuẩn. trong quá trình niệm quyết, nếu trong “tâm” khó giữ nguyên bản tính bị ý nghĩ lung tung quấy rối hoặc vì “thủ khiếu” không chuẩn v v… nên cũng có những lần niệm không hiệu quả, vì vậy ngừơi luyện công chỉ cần nắm được ang áng số lần là được. con đường hít khí tự nhiên và niệm quyết vận hành là con đường bên trong theo mạch nhâm vận đi xuống hạ đan điền.
Thời gian luyện quyết. có thể linh họat sắp xếp, tự chủ mà định chọn giờ tập. giờ tý là đẹp nhất.
Thu công. Ngừng niệm quyết, thúc đẩy tân dịch ra nhiều chia làm ba ngụm theo con đường vận hành của niệm quyết mà nuốt tống xuống hạ đan điền. khi bắt đầu luyện thì ý niệm tưởng tượng khí nạp vào đi qua tiền âm mà vào trong, theo công lực mà tiến triển rồi sẽ cảm thấy nguyên khí dạt dào từ tiền âm (đây là mạch nhâm) vận xuống vào hạ đan điền. phương pháp cụ thể là : nuốt một lần tân dịch, nạp một hơi nguyên khí. Xong ba lần, “tâm” sẽ định ở hạ đan điền. dùng ý dẫn động tân dịch ở trong “khiếu” hỗn hợp với nguyên khí thành năng lượng mà vận chuyển theo chiều kim đồng hồ từ trong ra ngoài, xoay tròn chín lần thành kiểu vòng tròn xóay trôn ốc từ nhỏ ra to dần (nữ thì vòng tròn xoay ngược chiều kim đồng hồ). tiếp đó lại theo ngược chiều kim đồng hồ vận hành năng lượng từ ngoài vào trong cũng theo vòng tròn xóay trôn ốc từ to nhỏ dần đủ 9 vòng (lần này nữ xoay vòng tròn ngược lại, tức thuận chiều kim đồng hồ) rồi tụ thành một điểm nằm ở tâm hạ đan điền. diện tích vòng tròn xóay trôn ốc không có đường kính quá 1 tất 3 phân ta là được (độ 4-5 cm). nhìn trước ra sau thành mặt phẳng vuông gốc. chiếu theo yêu cầu trên mà thu công, song nếu thấy ở hạ đan điền vẫn còn năng lượng từ trong tán loạn ra ngoài hoặc cảm thấy trong bụng trướng lên khó chịu, như thế tức là khi thu công đã không hòan tòan tích tụ được năng lượng lại thành một điểm thì phải làm động tác thu công lại môt lần nữa hoặc mấy lần cho đến khi thấy đan điền dễ chịu, bụng yên trở lại thì ngừng. xin chú ý là chớ có thu công qua loa hoặc không thu công mà đạ ngủ thiếp đi khiến năng lượng kích phát được không thu vào hạ đan điền nên lại theo dòng trong giấc ngủ mà thóat hết ra ngoài thì nam sẽ bị di tinh, nữ bị rụng trứng.
C. công hiệu:
tu luyện hạ đan điền bắt đầu cảm thấy hạ đan điền máy động, phát nóng, hai thận căng lên, huyệt hội âm máy động và thấy có khí cảm, trong miệng tân dịch (nước dãi) ứa ra nhiều từ loãng dần thành đặc, từ không mùi vị dần trở nên có hương vị ngọt ngào. Đầu óc dần trở nên trong sáng linh hoạt, tinh lực gia tăng. Sự nhìn ngược vào trong bụng từ mờ tối dần sáng sủa, từ màu ngả đen biến sang màu xanh sáng, dần dần phát sáng. Tòan thân thư thái, trong lòng khoan khoái vui tươi, theo thời gian, huyệt vĩ lư quan ngấm ngầm rung động, như căng lên.
Hạ đan điền luyện ra tinh của hậu thiên. Tùy theo công phu sâu sắc, nam giới có hiện tượng dương “cương” thì phải tĩnh tâm niệm quyết đừng để hiện tượng cương cứng kéo dài mà phải hóa tinh cho trở về hạ đan điền. nữ khi luyện công phu này sẽ thấy chu kỳ kinh nguyệt sớm hơn hay muộn đi, bụng dưới căng đau kinh nguyệt ra nhiều hơn v v… đây là do bên trong cơ thể được thúc đẩy đổi mới. sự đổi mới đó đã điều chỉnh chu kỳ kinh nguyệt phải thay đổi, nói chung chỉ sau 3 tháng kinh nguyệt sẽ trở lại bình thừơng. Ngừơi có bệnh phụ khoa sẽ tự thiên giảm.
Nguyên khí ở hạ đan điền máy động, tích tụ lại thành khối tròn, khi cảm giác thấy như vậy là đã có thể chuyển sang tầng luyện tập thứ hai tức là luyện huyệt vĩ lư quan.
ReTour

Thư Viện 1 2 3 4 5