THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT

GIẢI VỀ TAM GIÁO QUI-NGUYÊN

(Thiên-Lý Bửu-Tòa, 12g30 ngày 1-7-1977)

Thi rằng:

BỔN tánh từ-bi mới trọn lành,

đệ phăng tầm rõ trược thanh,

THÍCH, Ðạo cũng là chung một gốc,

CA tụng đức dày đấng liệt oanh.

MÂU thuẫn cuộc đời toan cấu xé,

NI tăng ngộ giác khá học hành,

PHẬT pháp cổ truyền đường chánh-giác,

Giáng trần miêu tỏa phép luyện phanh.

Thi:

THÁI độ người lành gắng học lo,

TỬ phủ quê xưa cố lần dò,

hiền tạo lập nên danh tốt,

ÐẠT bảng tên đề mới phải cho.

TA nguyền độ thế thành Phật-đạo,

ÐỜI khổ tầm tu đáng mặt trò,

NHÀ rách chớ phiền trau luyện tánh,

CHÂU đáo Phật thành ngọc chẳng so.

Tản văn:

       Nay Bần-Ðạo nhậm sắc Thiên-triều giáng Ðàn tả Kinh. Cũng vì nay đã cận kỳ mạt thế, nên sắc-chỉ Thiên-Ðình mới xuống lịnh ban truyền khai thông Ðại-Ðạo, Tam Giáo Qui-Nguyên, đại-đồng hiệp nhứt hầu độ tận nhân sinh qua kỳ thế diệt. Nay Tam-Giáo thượng tòa mới hợp đồng qui cơ mà khai thác quyển Thánh-Kinh. Các vị Giáo-Chủ Tam-Giáo đồng thọ lịnh giáng trần nơi Thiên-Lý Diệu-Ðàn mà để lập thành cơ qui-nguyên thống-nhứt, khai Ðạo truyền Kinh lưu hành toàn cõi đại-đồng thế-giới và lưu cổ truyền kim.

       Ðạo có qui-nguyên, có tác-hiệp, có dung-hòa, thì mới có tầm đến mối chơn-truyền bí-pháp tối-thượng vô-vi, hầu mới dìu dẫn Linh-Căn phục hồi cựu vị. Nầy hỡi các chư môn-đồ hãy nghiêm tịnh lắng nghe, Ta sẽ giải rành về mục Tam-Giáo qui-nguyên.

       Vì nay là buổi đời cùng tận, mạt hậu tam nguơn nên nhân sinh trên toàn cõi dinh-hoàn nầy đồng chung chịu qua những cơn xây chuyển lập đời. Khắp vũ-trụ-quan nầy cũng đều sắp chuyển mình mà đưa sang một kỳ tiêu diệt cuối cùng vì loài người đã lần lượt gây nhiều tội lỗi. Vì thế, mà cuộc đời phải đành cam chịu cảnh nguy vong thống khổ. Ðức Chí-Tôn có dạy rằng:

Ðời mạt hậu tầm đường giải-thoát,

Như kiến bò miệng bát vòng quanh.

       Lời phán của Ðức Chí-Tôn nghĩa một ý hai. Ðọc Kinh phải cầu lý. Chớ như việc đọc Kinh mà cứ đọc suông qua, cốt để giải trí thì cũng đâu có thắm thía gì đến ý nghĩa cao siêu huyền huyền diệu diệu.

       Ðạo Phật sơ khai vốn đời Thượng-Cổ. Thuở ấy, loài người còn bổn tánh thiện-lương, thiệt là đời Thánh-Ðức! Thế nên, những người chơn-tu thành Phật rất nhiều. Lần lượt sang qua thời Trung-Cổ, khi ấy bổn tánh đã lạc xa, ít người tu niệm. Ta ra đời nhằm thuở thái-bình. Phụ Vương ta vốn là một bực Chúa-Tể san hà vinh vang ngôi báu. Nhưng riêng Ta vì chán ngán kiếp làm người, thân thể nhục bào như phù du ngắn ngủi. Cõi trần giả tạm nay còn mai mất. Sanh, Lão, Bịnh, Tử khổ là vị chi tứ khổ của loài người. Thể xác nầy vốn là tạm giả, sự còn mất chẳng hẹn ngày giờ. Sống và thác vẫn coi như tên bay trước mặt, như cửa sổ ngựa qua. Dầu cho của cải trăm muôn, một phút vô-thường cũng không mua chuộc đặng. Dầu cho bực Thiên-Tử nắm quyền sanh sát, quản trị một tay, nhưng đến phút vô-thường cũng phải cam đành xuôi tay nhắm mắt. Lời Thánh cũng có câu:

Vô-thường chẳng sợ tay oanh-liệt,

Quỷ tốt nào kiêng bực phẩm hàm.

       Thế cho nên, dầu bực Công, Hầu, Khanh, Tướng, phú quý vinh hoa đối với sự đời cũng đều xem như là bọt nước ven sông. Người sanh trong cõi đời tạm giả, vòng tứ khổ vây hãm nhục-thân khiến cho ta lúc nào cũng ngại lo lũ quỷ vô-thường đang chực chờ bên ta mà vẫn không hẹn ngày giờ cho ta biết trước. Chi cho bằng ta sớm xả thân tầm Ðạo, ấy là ta tầm đặng một con đường giải-thoát tối thượng tối cao vĩnh sanh bất diệt. Dùng gươm trí huệ mà cắt đứt dây oan, giải vòng tứ khổ, dứt đoạn sầu bi thì thân tâm ta mới đặng nhẹ nhàng, tinh thần phát huệ, lưu thông cửu khiếu thì ta mới vượt khỏi vòng đời trần lụy mà nhập cảnh Niết-Bàn thiên thu tự toại.

       Ta xưa nương cội Bồ-Ðề sáu năm tu luyện, Phật-đạo đắc thành, Ta bèn đem chơn-lý mà phổ độ nhân sinh, dắt dìu bá tánh. Nhưng Ta cũng rất thương thay cho ngày nay người đời cũng có lắm kẻ quyết chí tu thân, cũng muốn học đòi gương xuất-gia giải-thoát, cũng quyết tâm cắt ái ly thân, nhưng rốt cuộc rồi đời tu khổ hạnh ấy vì không được mối chơn-truyền thì làm sao đắc thành chánh-quả? Bởi vì từ xưa, thời kỳ mạt pháp, cửa Ðạo đã bế môn, thất lạc mối chơn-truyền từ khi Thần-Tú ra đời. Vì thế mà những thế kỷ trôi qua thì Phật-Ðạo chỉ còn là các phần vi-hữu, sắc tướng thinh âm. Còn phần tâm-pháp bí-truyền ngồi tu luyện như xưa thì vẫn không còn nữa. Bởi thế, cho nên tu hành thì nhiều kẻ, mà thành công đắc quả thì lại rất hiếm hoi. Ðến nay là thời kỳ Long-Hoa Ðại-Hội, Huỳnh-Ðạo Thiên-Khai, Tam-Giáo Qui-Nguyên, đại-đồng tác hiệp, ban truyền tâm pháp độ rỗi Linh-Căn và dành riêng cho những bậc tầm tu giải thoát để đưa về nguyên-vị và độ tận nhân sinh, dìu dắt lẫn nhau hầu vượt qua cơn biến thiên đại-cuộc mới mong còn giữ lại được sự sống mà để bước sang qua đến một thời cuộc thái-bình Thượng-Nguơn Thánh-Ðức mà hưởng cuộc nhàn yên.

       Nầy hỡi chúng-sanh, con đường tu luyện để cần giải thoát cho linh-hồn nghe qua rất là khó khăn, nhưng thật ra cũng chẳng có chi khó nhọc tột cùng, mà cũng vẫn không quá dễ dàng để cho mọi người đều được thấy. Các vị có hiểu chăng? Phép Ðạo luyện tu tâm-pháp bí-truyền từ xưa vốn đời Phật Ðạt-Ma Ngũ-Tổ tích cổ truyền lưu. Bí truyền cho Ðức Lục-Tổ là Huệ-Năng, Kinh sử vẫn lưu truyền cho đời hiểu biết. Xiển-Giáo vô-vi thậm-thâm vô-thượng, nhưng nếu người đời mà không gắng chí thì cũng đâu có dễ chi kiếm tầm đặng ra phép báu!

       Châu ngọc ở thế-gian dầu là quý báu mà vẫn còn dùng giấy bạc mua đổi được thì thật là không quý. Vàng ngọc trong tay vẫn còn lo ngại nay còn mai mất. Còn như phép Ðạo luyện tu kết thành Kim-Ðơn Xá-Lợi để cho linh-hồn người đặng trường cửu, bất diệt, bất sanh, ấy mới thật là quý báu hơn trăm ngàn lần ngà ngọc. Sang giàu như bọt nước, công hầu phú quý cũng tan hợp tợ phù-vân. Cõi trần tạm giả. Xác thể nhục-bì cũng chỉ là tạm. Cõi đất bụi nầy mãn hạn đúng kỳ ta cũng phải trả về cho đất bụi. Linh-hồn phải vướng víu nghiệp trần mà chịu luân-hồi tứ khổ, vay trả, trả vay... đời đời chẳng dứt. Mãi cho đến lúc thối thân từ kiếp thú cầm sang qua thảo mộc; thối đến các loại kim khí, sắt thép, thau chì, ... thì biết đến mấy ngàn năm mới có đặng cơ hội tiến hóa từ kim khí chuyển sang đến cầm thú, và từ kiếp thú cầm mới bước sang đến nhân-loại. Sự phục hồi ấy sẽ khó nỗi mong ước. Gẫm đáng thương thay và đáng tiếc lắm thay!

Thi bài:

       Khuyên bá tánh tịnh thần nghe dạy,

       Lòng từ-bi hà hải độ đời,

              Nhân sinh tai biến chiều mơi,

Cần lo tu niệm Phật Trời noi gương.

       Nương bút Thánh tận tường phân giải,

       Khuyên người đời đường phải bước mau,

              Ðừng than phận khó nghèo giàu,

Ðạo, Ðời, chung bước cùng nhau lo tròn.

       Tu tại gia phận tròn công đắc,

       Tu chẳng cần bưng bát chùa am,

              Màng chi mão áo, tước hàm,

Không phiền cạo tóc, tu tham một mình.

       Tu lẫn lộn thế tình ai biết?

       Tu trọn gìn chẳng thiết xuất gia,

              Ðừng chi áo trắng nhuộm dà,

Tâm còn tráo chác mị tà ích chi!

       Tu giữ kỷ điều qui tâm tánh,

       Giữ mười điều xa lánh tu cao,

              Tu sao vô phạm nhứt hào,

Tu cầu bá tánh khỏi vào sông mê.

       Tu cứu khắp người quê kẻ chợ,

       Tu rèn lòng như tợ nước trong,

Tu gìn giữ một chữ KHÔNG,

Ðừng cho lay động mới mong đắc thành.

       Tu cho đặng Công-Bình cư xử,

       Tu rèn lòng hai chữ Từ-Bi,

              Tu gìn Bác-Ái gắng ghi,

Ðường tu mới hãn chứng vì Phật-gia.

       Tu đắc Ðạo, ta-bà cứu thế,

       Mới gọi tu thật thể Ðạo-mầu,

              Tu phân thiện ác khác nhau,

Tu gìn tâm địa răn câu mị tà.

       Lời châu ngọc Phật-gia nghiêm thuyết,

       Xin người đời lý triết hiểu thông,

              Bút cơ miêu tỏa mấy dòng,

Ban ơn Hiền-Nữ chơn-đồng lui chân.

       Giả tín-nữ ban ơn mầu nhiệm,

       Nương khiếu người diện kiến tác văn,

              Diệu mầu đôi phút hãn tường,

Khuyên trong bá tánh mọi đường tầm tu!

 Thăng. 

Thư Viện 1      4   5