ĐẠO PHÁP TRONG THÂN, NGOÀI THÂN KHÔNG CÓ ĐẠO PHÁP

1. Thế nào là đạo pháp trong thân ?

Trời vì thương chúng sanh khổ não,
Đến khai minh Đại Đạo cứu đời;
Thoát ra bể khổ trần vơi,
Khỏi vòng chuyển kiếp luân hồi đọa sa.
Học Đạo phải hiểu ra lẽ đó,
Để tự tu, tự độ lấy mình;
Chớ Trời không bảo chúng sinh,
Phụng thờ, lễ bái, tụng kinh cho Trời.
Đừng hiểu quấy: Phật Trời truyền Đạo,
Dùng huyền linh khuyên bảo chúng sinh;
Cúng dâng lễ phẩm linh đình,
Để rồi bù lại oai linh hộ phù.
Nếu hiểu vậy là tu mê tín,
Phật đâu ưa dua nịnh như đời;
Vái van chuốc ngót đủ lời,
Thọ ơn người thế, để rồi ban ơn.
ĐẠO không là độc tôn chủ tể,
Bắt chúng sanh nô lệ suốt đời;
ĐẠO thường bàng bạc khắp nơi,
Hiếu sinh trưởng dưỡng muôn loài tế vi.
Trời với người gốc thì có một,
Hồn, xác do than chốt âm dương;
Trời là Khối Đại Linh Quang,
Còn người là Tiểu Linh Quang khác nào.
Do một KHÍ ban trao vạn hữu,
Cho người làm Tam Bửu cơ sinh;
Con người từ gốc Chí Linh,
Là hàng Thượng Đẳng Chúng Sinh phàm trần.
Tuy là khối nhơn thân huyết nhục,
Mà cơ linh nung đúc bên trong;
Thế nên người có tấm lòng,
Lương Tâm, Phật Tánh, Chủ Ông, Chơn Thần.
Đó là vốn Thiên Châu, Bến Nạt,
Để người tu giải thoát sông mê;
Nương Thuyền Đạo Pháp dịch xê,
Để làm phương tiện mà về Bổn Nguyên.
ĐẠO không phải ảo huyền trừu tượng,
Hoặc mông lung ảo tưởng xa xôi;
ĐẠO là sự sống nơi người,
Là Hồn, là Xác, một đời tế nhân.
Làm sao được tinh thần thoải mái,
Làm sao Tâm tự tại, thong dong;
Làm sao trí não tinh thông,
Làm sao tánh Đạo huyền đồng phối thiên.
Làm sao được bình yên mạng sống,
Làm sao thân hoạt động mạnh lành;
Làm sao bịnh hoạn không sanh,
Làm sao trường thọ tinh nhanh kiện cường.

2. Phương pháp thực hành Đạo Pháp ra sao ?

Phương thực hành không ngoài nhục thể,
Là XÁC, HỒN liên hệ cả hai;
Làm sao hồn xác hòa hài,
Đó là Tánh Mạng hằng ngày song tu.
Tánh với Mạng đắp bù bồi dưỡng,
Và cũng gây ảnh hưởng cho nhau;
Hồn buồn: thân xác ốm đau,
Bệnh thân: tâm trí biến mầu ám hơn.
Pháp tu là: bảo hồn, dưỡng xác,
Cách uống ăn, sinh hoạt nhơn thân;
Quân bình tâm, vật cân phân,
Bùa nào pháp ấy khỏi cần lưu tâm.
MÙA XUÂN khởi ứng nhằm CAN, MỘC (gan)
MÙA HẠ song nhằm gốc HÒA, TÂM (tim)
MÙA THU KIM, PHẾ chớ lầm,
MÙA ĐÔNG : THẬN, THỦY nhớ tầm nguồn sanh.
Trời vận khí Ngũ Hành ngày tháng,
Ảnh hưởng nơi Ngũ Tạng nhơn thân;
Hiểu thông quy luật mỗi phần,
Thực hành đúng lúc thì thân mạnh lành.
Nhớ làm chủ Thất Tình nội tặc,
Thất tình là Con Giặc tôi loàn;
Làm cho điên đảo giang san,
Uổng đời xe cát Dã Tràng biển Đông.
Không phiền não: bảo phòng TỲ, VỊ,
Không giận hờn, CAN KHÍ không hao;
ƯU TƯ: hao tổn TÂM bào,
Muốn an THẬN THỦY, đón rào DÂN TÂM.
Không TẬT ĐỐ: dưỡng hàm KIM, PHẾ,
Là phương châm bảo thể trường sanh;
THẦN người là gốc Chí Linh,
THẦN là Chánh Khí giải tinh, giải tà.
Tịnh với Tà chính là Âm Khí,
Đừng hiểu lầm: ma quỷ yêu tinh;
Những ai Âm khí quá nhiều,
Dễ sanh tà chứng đủ điều bịnh căn.
Phép tu là: luyện THẦN CHÁNH KHÍ,
THẦN đến đâu: tà mị tiêu tan;
Thân người nhờ đó được an,
TÂM người nhờ đó phát quang Huệ Từ.
Siêng thiền định công phu bốn buổi,
Bồi dưỡng thân thêm tuổi trường sinh;
MẸO THỜI: bồi MỘC CAN sinh (Can),
NGỌ THỜI: bồi HỎA, TÂM linh Chơn Thần.
DẬU THỜI: bổ KIM chân PHẾ khí,
THẬN, THỦY nhờ thời TÝ mà sung;
Tứ thời thiền định thung dung,
Dưỡng bồi TỲ PHỔ, chánh trung KỸ MỒ.

3. Kết luận


Hỡi hành giả: viễn đồ tầm ĐẠO,
Đừng nhọc công đi rảo Đông Tây;
Trèo non, vượt biển tháng ngày,
Tìm sư trên núi, tìm thầy trong hang.

Càng lặn lội lại càng xa ĐẠO,
Càng bôn ba, càng tạo nghiệp tâm;
ĐẠO đâu viễn xứ mà tầm,
Long Rùa, Sừng Thỏ, muôn năm mỏi mòn.

NGÂM
Có TÂM, TÂM chớ lạc lầm,
Có THÂN, THÂN chớ đọa trầm trần ai,

Song tu TÁNH MẠNG hòa hài,
ĐẠO MẦU thực dụng CAO ĐÀI là đây !

Trích Lục Và Biên Soạn
HUỆ CHƠN

Thư Viện 1      4   5