Lại nói Trùng-Dương tiên-sanh thấy mấy người học Ðạo tựu lại, xét ra trong mấy người không có tưởng Ðạo, chẳng qua là giả danh học Ðạo, lấy Ðạo làm cớ, muốn cho người biết mình tu hành, chớ không một chút tưởng Ðạo. Như chẳng dời đi chắc sau nó lấy giả làm chơn, khiến cho trong pháp môn chẳng đặng thanh tịnh. Thầy tưởng rồi thầm nói: Phải làm như vầy, như vầy... Liền la lên một tiếng lớn rằng: "Chẳng khá, chẳng khá". Mấy người kinh hải xúm lại hỏi thăm. Thầy nói: Ta chẳng nên đi du phương vì ta đi đường cảm hơi thấp khí, bịnh ta kiết-uất, trên mình nổi ghẻ. Liền cởi áo cho mấy người coi. Quả thiệt nổi mục cùng mình. Mã-Ðơn-Dương cùng mấy ông lật đật rước thầy kiếm thuốc, tầm hết danh-y uống đủ mà không hết. Cách hai ngày mấy mục đều lở, máu chảy dầm dề, hôi hám khó chịu. Mấy người đến học Ðạo bàn luận nói lén: Thầy chắc người không có Ðạo, nên bịnh hoạn như vậy. Thân mình bảo toàn không đặng làm sao độ người? Bịnh mình trừ không đặng làm sao đặng thành Thần Tiên? Mình phải tính trở về kẻo để lầm việc.
Nói rồi nay một người, mai một người, ít bữa đều về hết, còn lại Khưu, Lưu, Xích, Mã và Vương, sáu người ngày đêm phục sự. Thầy thấy mấy người về hết liền kêu sáu người lại trước dạy rằng: Ngày mai, giờ Ngọ, ta chắc qui Tây, vì ta đến đây lấy tiền bạc của Mã-Ngọc châu-tế cho người nghèo khổ, giúp cho người chôn táng cưới gã tổn phí rất nhiều, lại cấp dưỡng cho người học Ðạo mấy năm nay, tiền bạc xài hết. Nay trong rương kho đều không, ta có qui Tây, sắm sửa việc tang ắt phải cầm ruộng bán đất. Mấy người phải y lời ta dặn, đừng có xài phí bạc tiền, đừng có thương khóc, cũng đừng cúng tế để tang. Lấy bốn miếng bảng mỏng khép cho kín thân mà thôi. Khưu, Lưu, Vương, Ðàm và Xích, năm người thay phiên nhau khiêng về đến tỉnh Xiểm Tây, dưới chân núi Chung-Nam, hễ khiêng đến chỗ nào đứt dây rớt xuống, đó là chỗ chôn ta, chẳng đặng sai lời. Như trái ý ta thì ta không an, các ngươi phải nhớ.
Khưu, Lưu mấy ông nghe thầy dạy thảy đều than khóc. Trùng-Dương tiên-sanh nói: Ðừng bắt chước theo trẻ nhỏ. Mấy ông nghe thầy quở trong lòng cảm thương chảy nước mắt,
chớ không dám lộ sắc buồn.
Bữa sau giờ Ngọ, thầy mặc áo bào ngồi kiết-dà trên bồ đoàn. Kêu sáu người lại một bên giảng nói dặn dò cặn kẻ rằng: Phép tánh mạng song tu, thảy trong ngoài đều có đủ. Như không lập công ngoài thời đức hạnh chẳng toàn.
Còn khuyết công trong thời bổn-nguyên cũng chẳng thành.
Việc công ngoài là bình sanh lòng mình, đừng cho khiếm khuyết, một lời giữ trọn không nói quấy, là lời nói đó có công. Còn việc hạnh phải gìn giữ các việc vuông tròn là việc hạnh có công đó! Mỗi việc thảy đều kiên cố: chẳng phải công có chứa sẵn, tại nơi mình lập. Thường phải giác tỉnh chớ cho hôn muội, phòng cái ý cũng như giữ cái thành, không cho một vật dính đặng. Còn giữ cái lòng, lại phải hơn giữ cái thân. Ðó là Trời người đồng hạng, Tiên phàm cách có một bực như hội giao-chiến; hễ đặng thì thành Tiên, không đặng thì thành quỉ rõ ràng. (Tại sao vậy? Hễ cái tâm thần đặng thanh tịnh, ân-ái tạp niệm các việc đều không tức là thành Tiên hiện rồi, còn mình để cái tâm nó dục động tạp niệm, nó tật đố tham lam ái-ân không dứt, tài sắc không quên, chẳng có một chỗ tịnh, thì tức là ma quỉ đó rồi, cho nên phải tìm chỗ thân tâm thì đặng thành, ai muốn phải tầm mới đặng.)
Ta nay đem nội-công dạy thêm cho mấy trò nghe, vì việc nội-công chẳng khá lấy chỗ sắc kiến, chẳng khá lấy chỗ tướng mà cầu, chẳng khá làm kiêu hãnh, cũng không đặng làm biếng, quét trừ một mảy sắc tướng chẳng còn, một mảy khí nộ chẳng sanh, quét trừ sắc tướng không rồi thời số dương không sanh. Như đem mấy việc đó trừ hết thời ắt thể đặng thuần dương.
Có người học Ðạo trong lòng cũng quyết mà vì tại muốn cho mau thành,
công-phu chưa đến lại muốn chứng quả.
Còn có người tập theo đạo của ta cũng quyết việc tu luyện, lại muốn an nhàn, ngày ngày dật dựa ham ngủ. Ma-âm khí thạnh giờ giờ buồn bực chẳng vui. Ma-dương khí suy, tinh thần chẳng phát, khó nổi công phu. Ðó là tại ham an-nhàn, thong-thả, nên tu hành không đặng.
Phàm việc chi cũng phải dùng hết tâm-chí mới làm đặng việc; huống chi là học làm Thần Tiên, không lo tập luyện dồi mài học theo qui luật; cứ lo danh lợi đua chen ham điều vui ngủ, mà thành Ðạo bao giờ?
Trùng-Dương tiên-sanh nói rồi lại lấy cuốn sách tên là "Thao-Quan-Tập" của thầy làm ra, trong đó có giảng Ðạo, sự tích phép ẩn dật mầu diệu rất hay, đưa cho Mã-Ðơn-Dương dặn rằng: Ngươi cùng 5 người phải coi xét cho chí lý, thấu rồi chẳng phải khó; như làm đó có khó phải rán sức làm theo, mới không phụ lòng ta.
Tôn đạo-hữu của ngươi, đạo quả gần đủ, đừng có nhớ tưởng; duy có Khưu-Trường-Xuân công quả còn ít, ngươi phải chỉ dạy thêm cho y. Còn Lưu-Trường-Sanh sắc tướng trừ chưa hết, phải có một lần tai nạn sóng gió nữa.
Từ ấy Xích-Thái-Cổ đông qua tây lại công-phu đắc ý thấy chỗ vừa lòng là chỗ liễu đạo. Ðàm-Trường-Chơn gặp đặng máy thông huyền. Vương-Ngọc-Dương đặng thấy nghe huyền diệu. Khưu-Trường-Xuân bên thạch bàn khê đặng biết khổ căn, trên cửa rồng bay đại đơn đã thành.
Thầy Trùng-Dương nói dứt lời cười một tiếng rồi thành đạo. Khưu, Lưu mấy ông nghe theo lời thầy dạy chẳng dám lên tiếng, y phép nhập liệm, lấy dây buộc quan tài, cây đòn sắm sẵn đợi đến sáng ngày Khưu, Vương, Ðàm, Xích bốn ông khiêng linh cữu ra đi. Lưu-Trường-Sanh gánh đồ theo sau. Mã-Ðơn-Dương đưa cách 20 dặm lấy ra một gói bạc ước 40 lượng giao cho Lưu Trường-Sanh nói rằng: Tiền bạc trong nhà thầy châu-tế việc lành xài hết, nay còn có bao nhiêu đem làm sở phí, rán tiện tặn cho đủ xài, chôn rồi trở về anh em đồng nhau lo việc tu hành. Nói rồi đưa cho Lưu-Trường-Sanh tiếp giữ, rồi anh em tạ ơn, lu biệt. Ði đặng mấy dặm đường, thấy có người đem nhang đèn cúng tế, Lưu-Trường-Sanh thấy mấy người lạy cúng cũng là đệ tử của thầy.
Những kẻ giả tu học đạo khi trước thấy Lưu-Trường-Sanh thảy đều xưng tạ. Vì Trùng-Dương khi bình sanh chẳng chịu những người giả tu, ngày nay qui Tây chơn linh chẳng quên, nên trong quan tài xì hơi ra thúi người người đều chịu không nổi, bụm miệng nín mũi muốn mửa, đứng gần không đặng, lật đật cúi đầu lạy ít lạy đều chạy về hết. Mấy người đi rồi, hơi thúi liền dứt. Trường-Xuân cùng mấy ông khiêng linh-cữu qua Xiểm-Tây chừng hơn 10 dặm, có người đem cơm cho ăn, ai nấy tưởng là người quen với thầy, nay nghe thầy qui thiên nên đem cho ăn, nghĩ là nhơn tình lẽ thường nên cứ việc ăn. Khi ăn rồi tạ ơn kế khiêng đi nữa.
Chừng vừa tối, thấy bên đường có cái miễu thời khiêng không nổi nữa, liền đem linh-cữu để trong miễu nghỉ chơn. Sáng ngày khiêng đi, đến bữa mơi cũng có người đón đường dưng cơm, bữa trưa cũng vậy. Chừng vừa tối cũng có cổ-miếu an nghỉ. Ði hơn một tháng trường cũng vậy hoài. Gần đến đất Xiểm-Tây, Khưu-Trường-Xuân tưởng thầm: Thiệt việc rất lạ, trong trời đất nào có ai mà đặng việc may hoài như vậy?
ở chỗ gần thì nói rằng quen với thầy mình, nay nghe thầy mãn phần đem linh-cữu về xứ nên niệm tình làm nghĩa cho ăn, cũng có lẽ được. Nay đi đã xa mà cũng còn người cho ăn, thiệt lấy làm lạ, để mình hỏi thăm người đem cơm coi duyên cớ sao vậy? Ðến trưa có người đem cơm cho ăn. Lưu, Xích mấy ông cám ơn, rồi lấy chén ăn cơm. Trường-Xuân kêu người đem cơm hỏi rằng: Sao anh biết anh em tôi đến đây mà đem cơm cho ăn?
Ðáp rằng: Sớm mơi có một ông thầy mặc áo vàng đến xóm tôi xin, nói có năm người đệ-tử ở Sơn-Ðông đưa linh-cữu lên đây xin một bữa cơm. Ông chủ tôi làm việc lành, nghe nói nên biểu tôi đem cơm đến đây. Trường-Xuân nghe nói sanh nghi. Ngày sau đến bữa cơm sớm, giả nói đau bụng muốn vô trong xóm xin nước nóng uống, cầu Lưu-Trường-Sanh khiêng thế, Trường-Sanh chịu khiêng, đưa gánh đồ giao cho ông Khưu rồi đi khiêng. Ông Khưu gánh đồ đi trước mấy dặm, quả thấy có một ông thầy mặc áo vàng giống in thầy mình. Khưu-Trường Xuân chạy theo tới nắm áo quì xuống thưa rằng: Có đệ tử lại hầu. Trùng-Dương tiên-sanh ngó lại thấy Trường-Xuân giận trách rằng: Ngươi thiệt là tạo nghiệt, chẳng biết việc trời đất dinh hư tiêu trưởng, chỗ đạo cần giấu, hay làm hơi lanh giỏi, tiết lậu Thiên-cơ, như vậy ngày sau phải bị 3 năm ma khảo, việc đó thiệt tại mình làm tội. Nói rồi hóa trận thanh-phong biến mất.
Trường-Xuân lấy làm hối ngộ, rồi thấy linh-cữu khiêng tới lật đật lại khiêng, giao gánh đồ cho Lưu-Trường-Sanh. Từ đó đến sau không ai đem cơm cho ăn nữa.
May nhờ có Mã-Ðơn-Dương cho tiền sở phí, không thôi phải chịu đói. Rồi đi thêm nửa tháng mới tới Trường-An, tại núi Chung-Nam, khi không dây đứt, linh-cữu rớt xuống đất. Khưu Trường-Xuân thấy xóm trước có một ông già đứng ngó, lật đật chạy lại bái lễ, chưa kịp mở miệng, ông già liền hỏi rằng: Mấy người phải ở Sơn-Ðông khiêng linh-cữu đến đây chăng?
Trường-Xuân đáp: Phải, sao ông biết?
Ông già rằng: Hồi hôm tôi nằm chiêm-bao thấy Vương-Hiếu Liêm nói ông chết rồi, có năm người học trò đưa linh-cữu ở Sơn Ðông đem về đây, nói với tôi xin một chỗ huyệt mã đặng chôn ông. Tôi nhớ tình anh em khi xưa giao kết tại tỉnh thành thi cử thương nhau; nghe ông nói xin tôi chịu cho, hỏi chừng nào chôn, ông nói ngày mai, giờ Ngọ. Tôi tỉnh dậy mới biết chiêm bao, nửa tin nửa nghi, ra coi mấy lần thấy mấy ông khiêng linh cữu rớt xuống đất tôi. Trường-Xuân đem việc thầy dặn khiêng đến chỗ nào dây đứt là chỗ chôn thầy, thuật hết cho ông nghe. Ông già nghe nói rất mừng, liền vô kêu mấy người trong nhà đem cuốc xuổng đến trước linh-cữu, khiêng dời quan tài để một bên đào huyệt tại chỗ đó an-táng, đắp lên thành cái mộ lớn. Khưu-Trường-Xuân mấy ông lạy tạ ông chủ cùng mấy người chôn.
Ông già thỉnh mấy ông về ăn cơm chay. Khưu, Lưu mấy ông đi ăn rồi đến tạ ơn chủ nhà, lại hỏi thăm đường đi Ðại-Ngụy Thôn. Mấy người đều làm lễ ra đi.
Ðưa Thầy về Tây là việc phải,
Tầm Ðạo qua Ðông đặng thành chơn.
HỒI THỨ MƯỜI SÁU
Ðại-Ngụy-Thôn, Tam-lão đàm vãng sự,
Tấn-Thành kiều, nhứt ngôn chi mê đồ.
Nghĩa là:
Ðại-Ngụy-Thôn có ông Tam-lão nói việc trước,
Cầu Tấn-Thành, một lời chỉ đường mê.
Có bài kệ rằng:
Muôn chuyển thân như chẳng động châu,
Gió đưa sóng dập khó nên thâu,
Nước trôi cầm chặt chèo cùng bánh,
Ðường thẳng nhẹ buồm đến ngạn đầu.
Lại nói Khưu-Trường-Xuân cùng mấy anh em tới chỗ Hàm Dương Ðại-Ngụy-Thôn, thấy nhà cửa tan hoang, có ông Vương Tam-Lão ngồi trước cửa miễu. Trường-Xuân bước lại làm lễ, hỏi thăm nhà ông Vương-Hiếu-Liêm. Ông đáp rằng: Mấy người hỏi nhà Hiếu-Liêm bộ cũng có bà con cùng ông chăng?
Trường-Xuân nói: Có, ông là thầy của anh em tôi ở tại Sơn Ðông dạy Ðạo. Nay thầy tôi qui Tây, anh em tôi đưa linh-cữu về đây xin đất chôn tại nơi chơn núi Chung-Nam. Nay muốn trở về Sơn-Ðông, nên lại đây hỏi thăm nhà thầy tôi và bà con mạnh giỏi.
Ông già nghe nói than một tiếng: Hỡi ôi! Anh Hiếu-Liêm là anh bà con của tôi. Tôi thứ ba, nên người kêu tôi là Vương-Tam Lão. Từ ảnh đi tu đến nay, vợ là Châu-Thị bị lo mà thành bịnh nên mãn phần rồi. Con ảnh tên Thu-Lan đi theo bên chồng chừng một năm mới về một lần. Nhà ảnh bây giờ không có ai.
Trường-Xuân lại hỏi: Trong xóm nầy sao mà coi hư tệ dữ vậy?
Vương-Tam-Lão than rằng: Từ anh tôi đi rồi thì trong thôn không ai làm đầu, nhà ai nấy lo, có việc không người ra làm đầu tính liệu, nên phận ai nấy giữ, bỏ lâu phải hư. Sau lại nghe Hiếu Liêm thành Tiên rồi, người người đều nói phong thủy đường long bị ảnh lấy đi, đem các việc tội đổ về cho ảnh.
Khưu-Trường-Xuân hỏi: Sao biết ổng thành Tiên?
Vương-Tam-Lão chỉ cái miếu nói rằng: Miễu đó Nam Bắc hai thôn người ta làm cho ảnh. Mấy ông vô coi thì biết. Nói rồi mấy ông đi vào miễu, quả thấy trên bàn để ngồi cốt tượng của thầy y như người sống, đều đến trước làm lễ. Thấy trên khuôn biển biên bốn chữ:
"Ðinh hồ nhơn hào",
hai bên có treo đôi liễn đề:
Hiển đạo thuật ư Hàm-Dương, phúng tửu diệt hỏa,
Thi ân quan du cố lý, thi phù khu ôn.
Khưu, Lưu mấy ông coi rồi chẳng biết duyên cớ làm sao liền hỏi Vương-Tam-Lão "diệt hỏa khu ôn" không biết ý chi?
Vương-Tam-Lão nói: Năm đó tại đây bị ôn dịch truyền nhiễm nhiều người, may có ông đạo mặc áo vàng vẽ bùa son thí cho trong xóm không lấy tiền. Ai đặng bùa linh dán trước cửa thì khỏi bị ôn dịch.
Sau nghe người nói chợ Hàm-Dương bị lửa cháy dữ không tắt, rồi thấy có một người đạo-sĩ mặc áo vàng ở trong tiệm rượu đi ra, tay bưng chén rượu hớp trong miệng, phun trên lửa tắt liền. Người trong chợ cảm ông có ơn cứu lửa khỏi tai nạn, đều lại hỏi ông tên họ chi? Ông nói: 3 ngang một sổ là họ,
3 sĩ có khẩu là tên. Nói rồi liền đi mất.
Sau lại có mấy người bàn ra hai chữ đó, 3 ngang 1 sổ là chữ Vương, 3 sĩ có khẩu là chữ Hỷ, chắc là Vương-Hỷ. Nói rồi truyền ra trong xóm, tôi mới biết là ông thành Thần Tiên rồi.
Trong họ tôi, có chị Vương-Má-Má, hồi mãn phần có nói rằng: Chú Hiếu-Liêm mặc áo vàng đến rước tôi đi. Nên Nam Bắc hai thôn cám ơn ông cứu hộ, chung tiền làm một cái miễu đặng trả đức cho ông. Trên vách có treo tấm bảng nói việc đó, mấy ông coi thì biết. Khưu, Lưu mấy người lại coi, thấy đề rằng: "Tỏ nghe việc người có công nơi Nhà nước cùng có đức với dân nên phải thờ đó.
Xóm tôi có ông Vương-Công tên Hỷ thiệt người dị nhơn, tuổi còn nhỏ đọc thơ, lớn lên tập võ thi đậu làm chức Hiếu-Liêm sau giả bịnh phong điên chẳng nói, người chưa hiểu việc động tịnh của ông, dưỡng bịnh 12 năm không ra khỏi cửa. Bữa nọ ẩn mất chẳng biết là đi đâu, bốn phía kiếm tầm không rõ tông tích. Rồi sau trong thôn khởi bịnh ôn-dịch, ông thí bùa cứu hết bảo toàn tánh mạng cho thiên hạ rất nhiều. Trong xóm người người đều nhờ ân huệ. Còn chợ Hàm-Dương lửa cháy phun rượu tắt liền, giấu tiếng để tên, độ chị dâu lên trời, hộ hương nhơn nhờ phước. Ông vì không quên xóm làng mà người trong xóm làng nào dám quên ơn ông; lẽ nào lại không cúng tế, nên anh em tôi hội nghị làm cái miễu lên cốt tượng thờ ông, thường năm chiêm ngưỡng đặng trả ơn huệ ấy của ông."
Khưu, Lưu mấy người xem rồi than rằng: Thầy thiệt là thần cơ khó hiểu, biến hóa vô cùng, bạn ta không biết đặng. Rồi thấy Vương-Tam-Lão kêu một người nhỏ nói chi không biết, người nhỏ gật đầu, kế một hồi thấy có một người xách cái giỏ đem đồ ăn lại, mời quí thầy đạo hữu dùng cơm. Vương-Tam-Lão nói: Nhờ quí thầy đưa linh-cữu anh tôi về xứ, lại tới thăm nhà nữa, không có chi trọng đãi,
xin vui lòng đa thiểu.
Mấy người thấy vậy liền ngồi lại ăn. Bữa đó ngủ tại trong miễu, nhiều người tới hỏi thăm. Bữa sau trời gần sáng có bảy tám người đem cơm cho mấy ông ăn, mà ăn sao cho hết! Rồi mỗi nhà đem lại dùng một chút lấy thảo. Lưu-Trường-Sanh nói cùng anh em rằng: Nay tiền sở phí của Mã sư-huynh cho còn dư lại mười mấy lượng giao cho Vương-Lão đặng bồi sửa miễu thầy. Mấy anh em đều vui lòng giao cho ông, xin ông ở đó bồi sửa giùm. Khưu, Lưu mấy ông giao rồi thưa đi, hồi lâu khỏi Ðại Ngụy thôn hơn mười mấy dặm,
tới gốc cây lớn ngồi nghỉ.
Ðàm-Trường-Chơn nói: Bạn mình đưa thầy về Tây việc lớn đã rồi, bằng trở lại Sơn-Ðông nữa cũng ăn xài tiền bạc của Mã sư huynh không nên. Lời tục thường nói: "Nào có tiệc rượu tựu rồi không tan. Ðạo chẳng luyến tình, luyến tình chẳng phải Ðạo". ở lâu chắc thiên hạ sanh nghi, chẳng bằng một người đi một xứ, đặng vui riêng tự toại.
Vương, Xích mấy ông cười nói rằng: Sư huynh luận phải. Nói rồi Lưu-Trường-Sanh đi phía Ðông-Nam, Vương-Ngọc Dương đi phía Tây-Nam, Ðàm-Trường-Chơn qua phía Bắc,
Xích-Thái-Cổ qua phía Ðông.
Khưu-Trường-Xuân thấy mấy ông đi hết rồi nói thầm, thôi mình ở lại Xiểm-Tây xin ăn, vì mình phước mọn đức ít thì phải khổ tâm, khổ chí tu hành mới đặng việc.
Lại nói qua Xích-Thái-Cổ đi tới đất Tấn, thấy một cái cầu đá, dưới chơn cầu có tám chín cái động cũng là Trời sanh đá như vậy. Mỗi năm đến mùa Thu, Ðông, nước dưới sông cạn, thường có mấy người nghèo tị nạn vào động mà ở. Xích-Thái-Cổ thấy dưới cầu sạch sẽ, khi đó nước cạn, ông vào dưới cầu ngồi tu, trước không ai biết, thiệt cũng thanh tịnh, sau lần lần có người biết mới gây ra việc khiên triền, cảm động mấy người ở gần, thấy ông thường thường ngồi hoài nên biết là người tu hành, họ hay đem cho đồ ăn. Ông ăn dư thường để lại trước mặt, bị chim cò tha đi rớt cùng đường, hoặc dưới nước. Trẻ nhỏ thấy lượm ăn rồi kiếm lần tới chơn cầu đến trước chỗ Thái-Cổ ngồi mà giỡn hớt. Thấy ông ngồi hoài chẳng động cũng như cốt cây hình đất, chúng nó lại tưởng ông như một vị Bồ-Tát, muốn làm miễu thờ ông, mới lấy đá sắp hai bên làm tường, cây lá che kín thành cái miễu. Mỗi ngày chúng nó ăn cơm rồi tới miễu bái lạy chơi giỡn, bữa nào cũng vậy. Xích-Thái-Cổ là người tu đặng tịnh dưỡng cũng không nói động, để chúng nó mặc tình, thiệt là có ít người như vậy!
Cách ít ngày, xóm trước làm chay, hội Quan-Âm, mấy đứa trẻ đi coi hội hết, thiệt là thanh tịnh. Rồi Xích-Thái-Cổ thấy một người ngồi dưới cầu lấy cục đá mài hoài; mài một hồi lâu lấy lên coi, hơn mấy chục lần tiêu hết miếng nầy tới miếng khác, mà không thấy làm việc chi. Mài ra như bùn rồi lại lấy miếng khác mài nữa. Ông thấy vậy sợ uổng phí công phu của y, ông muốn chỉ dạy việc lành nên kêu hỏi:
Ông mài đá muốn làm việc chi?
Ðáp rằng: Muốn làm đồ.
Xích-Thái-Cổ nói: Như muốn làm cái chi trước phải định chắc, hoặc chỗ cao sửa bằng, chỗ tròn sửa vuông, phải có phép tắc mới là nên đồ tốt. Ông nay chẳng dụng cái qui-củ, cứ ngồi mài hoài như vậy sao cho đặng thành công?
Người ấy đáp: Tôi muốn mài đá ấy cho sáng mà làm cái kiếng thường ngày soi mặt.
Xích-Thái-Cổ cười rằng: Ðá là đồ đất, làm sao mà mài cho thành kiếng soi đặng?
Há chẳng uổng phí công-phu?
Người ấy cười lớn rằng: Như lời ông nói tôi mài không thành kiếng, còn ông ngồi hoài như vậy đặng thành Tiên hay sao?
Tưởng lại một việc ngồi hoài nào khác tôi mài đá mà thành kiếng!
Xích-Thái-Cổ nghe nói giựt mình thức tỉnh, lật đật đến trước mặt người, ý muốn xin cầu dạy. Người đó liền đi, không hỏi chi đặng. Xích-Thái-Cổ biết là người dị nhơn đến đây chỉ điểm cho mình, như mình ngồi khổ tọa thiệt không ích. Nghĩ rồi sửa soạn lấy đồ đi liền, đi khỏi cầu Tân-An qua xứ U-Yên.
Có bài kệ rằng:
Mài gạch làm gương phí công-phu,
Ngồi thoàn khống tọa khí tiêu khô,
Hai việc đều là không đặng sức,
Một lời nói tỉnh phá mê đồ.
Chẳng nói việc Xích-Thái-Cổ du Bắc, lại nói việc Ðàm Trường-Chơn qua Nam, bữa đó đi tới đất Bắc-Tỳ-Châu, trời gần tối không có đình miễu chi hết, lại không có ngủ, thấy có một sở nhà lớn, ý muốn lại nghỉ nhờ đặng xin cơm ăn. Ði gần tới cửa thấy một người đi ra, chắc là chủ nhà, người đó họ Cổ, tự Trúc Thành, hiệu Dủ-Phong, khi trước cũng người ham Ðạo, vì bị mấy người đạo chẳng lành giả hình tướng làm như người Thần Tiên, lường gạt tiền bạc của ông hết mấy lần, nên ông thấy mấy người đạo tới ông ghét lắm; vì bị kẻ trước làm quấy mà lụy đến người sau. Dủ-Phong thấy Ðàm-Trường-Chơn đi lại liền la một tiếng lớn rằng: Ðạo-sĩ đừng tới xóm tôi nữa, tôi với người tăng đạo không có duyên. Ðàm-Trường-Chơn nghe nói trong ý lại muốn độ ông.
Ý muốn người ta tin phục mình,
Phải đem việc mình mà phục người.