THẤT-CHƠN NHƠN-QUẢ

HỒI THỨ BA

Thọ Thiên triệu Sơn-Ðông độ thế,

Nhập địa đạo Chung-Nam tàng thân.

Nghĩa là: 

Vưng lịnh Trời qua Sơn-Ðông độ đời,

Vào hang động ở núi Chung-Nam ẩn mình.

  Có bài kệ rằng:  

Ý đời nóng nguội thiệt thêm cười,

Ðoạt lợi tranh danh biết mấy mươi,

Dễ độ súc sanh người khó độ,

Nguyện độ súc sanh khó độ người.

Bởi ông Hiếu-Liêm nguyên thiệt không bệnh, chẳng qua là giả bịnh, muốn dứt việc khiên triền đặng học Ðạo. Trương-Hải Thanh nào biết được ẩn ý ông, nên xem mạch rồi khó hiểu đặng bệnh, cũng tùy ý mà nói là bịnh trúng phong bất-ngữ, cũng biên toa đưa cho chủ rồi lấy tiền lễ ra về, làm lấy có mà thôi.
Lúc nọ bạn hữu từ tạ ông ra về nói rằng: Xin ông rán bảo trọng, chúng tôi ít bữa đến thăm. Ông gật đầu, thảy đều về hết.
Châu-Thị thấy khách về rồi biểu Thu-Lan và Ngọc-Khuê đi hốt thuốc về sắc, rồi Thu-Lan bưng vào phòng mời cha uống, lại thấy ông trợn trắng, vùng té một cái, Thu-Lan hoảng liền để chén thuốc, lật đật chạy ra. Bà thấy vậy sai vô nữa, nó không dám vô,
 ông bưng chén thuốc đổ trong vách.
Từ đó đến sau, một mình Ngọc-Khuê ra vô, chẳng ai dám vào phòng ông hết. Hễ ông thấy mặt vợ con thì đấm họng dậm chơn. Qua bữa sau Châu-Thị niệm tình vợ chồng vào hỏi thăm lần nữa, ông cũng làm như vậy.
Còn từ khi ông giả trúng phong đến sau, trong ngoài đều giao cho bà toan liệu; bà con thân thích cũng không đến đặng; duy có bạn hữu thăm một hai lần, thấy ông làm như vậy không dám tới nữa, người người đều than tiếc. Bị đau bịnh nặng mà ở chỗ nhà vắng một mình, nào ai thấu đặng ý đó! Ấy là ông muốn thanh tịnh ở trong thơ phòng ngộ Ðạo mà giả chước như vậy; đặng bó buộc công phu, quên dứt việc trần, không không một niệm.Ở đặng 12 năm, đại đơn đặng thành!

Có bài kệ rằng: (ca giọng trầm)

Vợ làm bằng hề, con làm bạn

Khát uống trà, rồi đói ngật phạn (ăn cơm)

Coi lại cùng người cũng không không

Nào hiểu y học Ðạo tình trạng

12 năm công thành viên mãn

Xuất dương thần trên đảnh hiện quang

Trên đời những mấy kẻ tu hành

Ai mà hiểu đặng làm bản dạng.

Ông tu xuất đặng dương thần biến hóa, đặt pháp danh là Trùng-Dương Tổ-Sư. Ðêm nọ ông nằm tại thơ phòng, đương công phu, một niệm chẳng sanh, vạn duyên đều tuyệt. Vẳng nghe trên hư không kêu rằng: Vương-Trùng-Dương mau lên đây tiếp triệu! Trùng-Dương lật đật bước lên hư không, thấy Thái-Bạch Kim-Tinh đứng trên mây nói: Ngọc-Chỉ đến!
 Trùng-Dương lại gần nghe đọc triệu rằng:
Ta niệm người Trùng-Dương có công khổ chỉ tu 12 năm không sai thất lòng, lo độ người tu chơn. Nay đạo quả đủ đầy phong làm Khai-Hóa Chơn-Nhơn, mau qua tỉnh Sơn-Ðông mở đạo, như sớm độ đặng Thất-Chơn thành công sau gia tăng thêm nữa, ắt phải vưng lời."
Thái-Bạch đọc triệu vừa dứt, Trùng-Dương quì lạy tạ ơn, rồi Thái-Bạch biểu rằng: Chơn-Nhơn mau qua Sơn-Ðông, đừng sợ khó nhọc mà phụ lòng Thượng-Ðế, để ngày sau lên hội Bàn Ðào đặng gặp. Kim-Tinh nói dứt, đằng vân trở về Thiên-Cung,
 còn Trùng-Dương cũng trở về tịnh phòng công phu.
Bữa sớm mai nọ, Ngọc-Khuê đem nước rửa mặt, xô cửa không mở, lật đật thưa cho Châu-Thị hay, bà cùng hai đứa tớ kêu hoài không đặng, thầm chắc ông chết rồi, cạy cửa vô coi không thấy ai hết, lấy làm lo sợ liền sai đi bốn phía tìm kiếm, không nghe tin tức bèn khóc lớn kinh động trong xóm người người đều chạy đến hỏi thăm.
Ngọc-Khuê thuật việc cho mọi người nghe.
Mấy người nói: Việc thiệt cũng lạ! Cửa còn đóng chặt mà người đi mất, hay là trổ trên nhà hoặc cạy vách mà ra chăng? Mấy người vô coi không có dấu gỡ cạy chỗ nào.
Có một người nói rằng: Thôi mấy người đừng kiếm nữa, tôi coi ông Hiếu-Liêm thể dạng chắc thành Thần Tiên rồi.
Hỏi rằng: Sao anh biết đặng?
Ðáp: Lúc ở phòng ngồi tịnh 12 năm, không động một bước, bỏ hết việc trần, lại giả làm bịnh trúng phong, tôi coi thiệt ông muốn tuyệt dứt cuộc thế. Hình dung tươi tốt mắt có thần quang, như vậy chẳng phải Thần Tiên sao?
Nghe nói ai nấy bán tín bán nghi nói rằng: Như vậy chắc ông thành Tiên đằng vân đi rồi.
Bà nghe mấy người bàn luận mới bớt lòng sầu, rồi mấy người về hết.
Lại nói về Trùng-Dương bữa đó ở trong tịnh phòng độn thổ ra khỏi Ðại-Ngụy-Thôn đi Sơn-Ðông hết mấy ngàn dặm mới tới, không thấy bảy vị thất chơn, chỉ thấy có hai hạng người: một vì danh, hai vì lợi mà thôi, chớ không có ai mộ Ðạo!
Trùng-Dương thấy vậy chắc không có người độ đặng bèn trở về Xiểm-Tây, đi đến núi Chung-Nam, thấy một núi đất dài hơn trăm dặm vắng vẻ thanh tịnh, trong lòng tưởng rằng: Thôi ở lại đây vô trong núi này tìm chỗ hang sâu mà tịnh dưỡng, đợi chừng nào trong thế gian có người tu, sẽ ra đi độ. Liền niệm chú "Tá-Thổ-Ðộn" ước chừng một khắc thấu tột hang sâu, gặp cái hang động lớn ông vô ẩn mình phục khí điều dưỡng mà tu tánh mạng.

Có bài kệ rằng:  

Rộng lớn kiền khôn có dị nhơn,

Một danh một lợi tính thua hơn,

Thất-Chơn chưa biết về đâu độ?

Vào đất ẩn mình đợi Thất-Chơn.

 Khi đó Trùng-Dương độn trong núi ẩn mình chẳng biết tháng ngày. Cách hơn nửa năm vẳng nghe một tiếng vang cũng như lở trời sụp đất, thấu đến trong hang, nứt ra một đường hào quang chiếu xuống. Trùng-Dương biết có thầy đến, trong lòng kinh sợ, lật đật nhảy ra, liền thấy thiệt Chung, Lữ, hai ông ngồi trên, Trùng-Dương đến trước quì lạy chẳng dám ngó lên. Lữ-Tổ cười trách rằng: Người ta tu hành lên Thiên-Ðường, còn ngươi tu hành vào địa ngục. Coi công của ngươi khác hơn người ta, trên trái lòng Trời, dưới bỏ ý Thầy,
 nào có phải Tiên bao giờ?
Trùng-Dương nghe thầy quở cúi đầu xin tội rằng: Chẳng phải đệ tử dám trái mạng Trời, nghịch ý Thầy, vâng lịnh Thầy qua Sơn-Ðông độ Thất-Chơn, mà kiếm cùng cũng không gặp, duy có hai hạng người lo việc danh lợi mà thôi. Nên đệ tử tạm vào đây ẩn mình đợi chừng nào có người tu hành sẽ ra đi độ.
Lữ-Tổ nói: Người tu xứ nào không có, tại ngươi chẳng chịu khó nhọc nên độ không đặng.
Thí như ngươi hồi ban đầu nào có lòng học Ðạo, ta cùng Tổ Sư mấy lần đi đến điều độ mới đặng. Nếu không thì ngươi trọn đời chỉ một chức Hiếu-Liêm mà thôi,
 nào có thành bực Ðại-La Kim-Tiên?
Nay ngươi ham thong thả chẳng chịu tinh tấn độ người, lại nói trong thiên hạ không có người tu, thiệt là sai lầm. Ngươi lấy cái lòng như hồi ta đi độ ngươi,
mưa gió không nài cũng đến, nằm sương ngủ cỏ nào than, đặng mà ra độ người,
thì trong thiên hạ chỗ nào mà độ không đặng?
Khi xưa ta có ba lần giả say ở núi Nhạc-Dương người chẳng biết, rồi ta kinh thân bay qua Ðộng-Ðình-Hồ, trong ý cũng gọi là đời không người độ, rồi trở về bên Bắc, qua tới Liêu-Dương thấy Kim-Quốc Thừa-Tướng bỏ chức về núi tu thành, thấu đặng huyền cơ, hiệu là Hải-Thiềm, rồi bắt chước ta đi Nam du độ đặng Trương-Tử-Lương. Trương-Tử-Lương độ Thạch-Hạnh-Lâm. Thạch-Hạnh-Lâm độ Tịch-Ðạo-Quang. Tịch-Ðạo-Quang độ Trần-Chí-Hư. Trần-Chí-Hư độ Bạch-Tử-Thanh. Bạch-Tử-Thanh độ Lưu-Vĩnh-Niên và Bành-Hạt-Linh.
 Bảy người ấy sau đặng chứng quả, đó là "Nam-Thất-Chơn". Khi đó ta cũng tưởng không người độ đặng, ai dè y độ đặng mấy người. Trong thiên hạ bốn biển rộng lớn, diệu lý khôn cùng người chí chơn chẳng ít, lẽ nào không người ra tu?
Nay có "Bắc-Thất-Chơn" là Khưu, Lưu, Ðàm, Mã, Xích, Vương, Tôn, bảy người trước có căn, nên mấy lần dặn dò biểu ngươi, ngươi chẳng chịu đi. Sức ngươi chẳng bằng Lưu-Hải Thiềm sao? Vì ngươi sợ khó nên chẳng bằng người ta đó thôi!
Lữ-Tổ nói rồi Trùng-Dương mở thông huệ tánh, giựt mình sợ sai hồng-thệ, mồ hôi ướt mình, cúi đầu xin tội. Chung-Tổ thấy vậy kêu Trùng-Dương lại một bên dạy rằng: Chẳng phải thầy trách ngươi, nhơn vì hội Bàn-Ðào gần đến, kiếp nạn lâm đầu, rán điều độ trong thiên hạ, người tu hành Chơn-Tiên, đều đặng phó hội Bàn-Ðào, thế Thiên hành hóa, đại Phật Tiên ngôn trọn ổ thâu duyên, đặng về nơi thanh tịnh. (Vì đào tiên sanh tại núi Côn-Lôn, 1000 năm mới nở bông, 1000 năm kết trái, 1000 năm mới chín. Cộng là 3000 năm mới hội một kỳ.)
Bởi 96 ức Phật tử xuống trần đã lâu mà về chưa hết. Thượng Ngươn độ 2 ức, Trung-Ngươn độ 2 ức. Cộng là 4 ức. Nay còn lại 92 ức mê trần! Vì hội gần đến, đào chín rồi, Phật-Mẫu trông con về ăn cho đủ. Nếu đến kỳ hội mà về không hết thì Phật-Mẫu rất buồn! Nên mình phải rán lo điều độ đặng đến kỳ hội thâu duyên, Phật-Mẫu thưởng đào,
 ăn một trái sống đặng ngàn năm.
Vì Tây-Vương-Mẫu chẳng lòng hưởng một mình, muốn cùng các chơn linh đồng hưởng, nên thiết lập hội tên là "Huỳnh Tiên đại-hội". Mỗi lần hội phải có thêm Thần Tiên mới thì trên hội mới vui, bằng chỉ có mấy vị Tiên cũ chắc là trong thiên hạ không có người tu hành,
thì bà Vương-Mẫu ắt buồn.
Thuở thượng-cổ mỗi kỳ hội, người tu thành Tiên về dư ngàn. Qua đời trung-cổ mỗi kỳ hội người Tiên mới hơn mấy trăm. Ðến đời hạ-ngươn chắc có ít. Nên thầy ngươi dặn dò phải sớm độ Thất-Chơn đặng lập hội kỳ, ấy là giúp thêm oai nghi, vậy phải vui mừng. Vì bàn đào gần chín, nếu để trể ngày giờ qua hết một viên hội, phải đợi 3000 năm nữa mới đặng phó hội,
 há chẳng tiếc sao?
 Chung-Tổ giảng nói thấu lẽ, Trùng-Dương nghe đặng quì thưa rằng: Nay đệ tử nghe lời Tổ dạy thiệt như chiêm bao mới tỉnh, tôi nguyện đến Sơn-Ðông khai hóa. Xin cầu Tổ-Sư chỉ dạy cách điều độ trước sau.
Chung-Tổ nói rằng: Ngươi đến chỗ đất Tịnh. Người hiền nhiều, mà hỗn tục theo đời, hiện thân giảng Ðạo qui củ tinh nghiêm, hoặc tài lợi phân minh trước sau như một thì có người đến tìm ngươi. Việc trong đó mở dạy chắc đại công khá thành, hễ đi gặp Hải thì ở, gặp Mã thì hưng, gặp Khưu thì dứt. Chung Tổ nói rồi quạt một cái lên mây đi mất.
Trùng-Dương quì lạy Thầy, rồi trở qua Sơn-Ðông. Một bửa ông đi đến huyện Ninh-Hải, tại tỉnh Sơn-Ðông, phủ Ðăng-Châu ông nhớ lời Chung-Tổ dặn rằng gặp Hải thì ở, hay là tại đây chăng? Thôi, ở đây giả người đi xin, như khi trước hai ông độ mình, nay mình dụng cùng phương tiện độ người.

Hỗn tục theo đời để đợi thời,
Gặp duyên đạo quả đặng nên thành.

HỒI THỨ TƯ

Ðàm chơn không, Tôn-Thị hối phu chủ,

Cầu Ðại-Ðạo, Mã-Dương tầm minh sư.

Nghĩa là:

Nói việc chơn không, bà Tôn-Thị khuyên chồng,

Cầu học Ðại-Ðạo, Mã-Ngọc tầm minh sư.

      Có bài kệ rằng:

Trời cũng không, Ðất lại cũng không,

Người đời phái phái ở nơi không.

Nhựt cũng không, rồi Nguyệt cũng không,

Ðông lên Tây lặn chẳng cần công.

Ruộng cũng không, hề đất cũng không,

Ðổi dời nhiều ít người chủ ông.

Vàng cũng không, rồi bạc cũng không,

Thác rồi nào đặng ở tay trong.

Vợ cũng không, con lại cũng không,

Huỳnh-Tuyền đường nọ chẳng tương phùng.

Sớm qua Tây rồi tối qua Ðông,

Người đời tỷ thí tợ con ong.

Thể đặng trăm bông nên mật đó,

Ðến đầu cực khổ cũng buông không.

Khi đó Trùng-Dương đi đến tỉnh Sơn-Ðông, huyện Ninh-Hải, giả người xin ăn, trong ý muốn tìm người tu hành. Huyện Ninh-Hải phía Tây có nhà họ Mã, làm chức viên ngoại, tên là Mã-Ngọc. Cha mẹ qua đời, lại không anh em, cưới người vợ họ Tôn tên là Huyên-Trinh, dung mạo đoan trang, tâm tánh thông thái. Bà là người có học thường coi Kinh sách thấu việc xưa nay, chẳng ham thêu dệt vá may. Tuy là nữ lưu mà khí chất trượng phu khó sánh. Hễ viên ngoại có việc chi tính chẳng đặng hỏi bà thì rõ thấu. Cho nên ông bà kỉnh nhau như thầy bạn, ngặt tuổi già mà lại không con nên có làm bài kệ rằng:

Quang âm mau lẹ chẳng đợi chờ,

Người người chỉnh thấy việc bơ thờ,

Chẳng tin soi thử trên mái tóc,

Khi trước mày xanh bạc trắng dờ.

Mấy câu kệ này ý nói: "Máy quang-âm lẹ như tên bắn, đưa người rất mau già, ngày tháng thắm thoát như thoi đưa, thúc trẻ nhỏ trở nên già rất lẹ". Khi đó vợ chồng Mã viên ngoại tuổi đã gần 40 mà không con. Một hôm viên ngoại nói cùng vợ rằng: Bạn mình mới nhỏ mà nay gần bốn chục rồi, chắc là vô hậu, vạn quán gia tài này chẳng biết về tay ai?

 Tôn-Huyên-Trinh rằng:

Xưa Tam-Hoàng trị thế, sau Ngũ-Ðế lập đại công.

Vua Nghiêu, Thuấn sau tiếp nối, Võ-Vương mở chín sông.

Thành-Thang rước Y-Doãn, Văn-Vương thỉnh Thái Công.

Ngũ-Bá bày mưu chước, Thất-Hùng khiến bụng lòng.

Vinh, Tần tranh sáu nước, Hớn, Sở lại tranh hùng.

Ngô, Ngụy giành nhà Hớn, Lưu-Bị thỉnh Ngọa-Long.

Ðông Tấn cùng Tây Tấn, sự nghiệp cũng không tông.

Nam Ngụy với Bắc Ngụy, giang san cũng long đong.

Ðường Tống lại đến đây, bao nhiêu phú quí ông.

Hỏi thử người còn mất, đều thiệt cũng tay không!!!

      Xin coi từ xưa đến nay biết mấy muôn năm, Ðế Vương, quan, tướng, thành bại thạnh suy biết mấy ngàn người, vì danh lợi mà bỏ mình, việc đến đâu cũng tay không, nháy mắt đều tan hết. Nay bạn mình đem việc trước sau phú cho nơi không, như trong thiên hạ không gia sản này, cũng như cha mẹ chưa sanh bạn ta, thì có chi là vinh diệu.
 Viên ngoại nghe nói cười rằng: Người ta tuy không còn có nhánh nhóc; bạn mình cái không này gốc rễ cũng dứt tuyệt.
Tôn-Huyên-Trinh nghe rồi nói rằng: Không nhánh không căn thiệt đại không.

Có bài kệ rằng:  

Không đến tột rồi thiệt đại không,

Không kim không cổ tợ hồng mông,

Bằng người biết đặng hư không lý,

Thẳng đến Linh-Sơn thấy đại hùng.

Tôn-Huyên-Trinh nói: Xét có con cũng như không con, ngẫm lại có con cũng không, mà không con cũng không. Như vua Văn-Vương có 100 người con, đến nay coi lại có mấy người? Họ Cơ con cháu muôn đời của ông, có người nào cúng tế mộ phần ông bao giờ? Còn ông Trương-Công-Nghệ sanh chín trai hai gái, Quách-Tử-Nghi bảy trai tám rễ, Ðậu-Yên-Sơn năm trai đều đặng khoa, Lưu-Ngươn-Phổ sanh hai người con đều đậu cử-nhơn. Mấy người đó nhiều điều sang trọng, con cháu hiển vinh, mà nay có thấy ai con cháu nào đâu? Coi lại cũng mưa lạnh gió sầu, nhà hoang mồ lở, cỏ mọc dẫy đầy. Há chẳng phải "có" rồi cũng qui về nơi "không" chăng? Cô phòng lạnh lẽo nào phải những người không con? Còn ruộng nhà đồ sộ thì người có con mới đặng, người không con không đặng hay sao? Tôi tưởng người sanh ở đời trong mấy mươi năm mau như nháy mắt dường như đá lửa chớp nhoáng, thấy đó rồi mất đó, tợ chiêm bao bọt nước, nào thiệt nào chơn. Nhà lớn ngàn căn, chẳng qua đêm nằm tám thước. Ruộng nhiều muôn sở cũng ngày ăn ba bữa mà thôi. Bao nhiêu mùi ngon vật báu, uổng cho cuộc giàu sang như nháy mắt, quỉ vô thường theo đến thì muôn việc đều không. Dẫu bạc vàng đầy rương cũng khó chuộc đường sống thác. Hỡi ôi! Thiệt làm người ở đời mà chẳng tỉnh, thì cũng như một giấc chiêm bao!

Kệ rằng:       

Kinh dinh thuở mấy uổng mang mang,

Lầm nhận đường mê gỗi xóm làng,

Nay lại xưa qua nào có ở,

Dường như mượn chỗ tựu rồi tan.

Tôn-Huyên-Trinh nói cùng viên ngoại rằng: Bạn ta ở chỗ "không", tầm cái Thiệt mà chắc Thiệt, đặng luyện chỗ bất sanh bất diệt, học phép trường sanh chẳng chết rất hay vậy.
Mã viên ngoại nói: Bà nói vọng rồi. Từ xưa đến nay, hễ có sống thì có thác, lẽ nào đặng trường sanh hoài? Việc làm có trước thì có sau, nào có việc hoài chẳng dứt?
Huyên-Trinh nói: Tôi thấy sách Ðạo thơ nói: Luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần huờn hư, khiến cái chơn tánh còn hoài, linh-quang chẳng dứt, gọi là đạo trường sanh chẳng chết. Bằng như mình học đặng đạo ấy thì hơn người có con trăm phần.
Mã viên ngoại nói: Nói vậy chớ có lẽ nào tinh mà luyện đặng hóa khí, khí hóa đặng thần, còn thần hóa đặng huờn hư mà chơn tánh còn hoài, linh-quang chẳng dứt?
Huyên-Trinh nói: Ông muốn biết phải cầu minh-sư mới học đặng diệu pháp.
Viên ngoại nói: Thôi tôi cầu bà làm thầy truyền cái công phu cho tôi học.
Huyên-Trinh nói: Tôi là nữ-lưu, chẳng qua biết ít chữ, coi thấy đạo thơ đôi câu nào giải thấu chỗ diệu lý. Nếu ông có lòng chơn tâm học Ðạo, phải cầu tầm người cao hiền chắc thấu đặng.
Viên ngoại rằng: Việc tầm thầy kiếm bạn, thật bình sanh chí tôi ham lắm, hễ người tu hành học phải có căn cơ, như không có căn thành Tiên chẳng đặng, làm Phật chẳng dễ. Nên tôi nghĩ phận căn cơ siển bạc, chẳng nói đến việc tu hành.
Huyên-Trinh nói: Nói như ông thì sai rồi. Hễ sanh đặng làm người đều có căn cơ phước đức sẵn trước, như nói không có căn sao đặng làm người? Có câu: Cỏ nào không gốc, người nào không phước? Chẳng qua là sâu cạn không đồng. Như người căn cạn là sáu căn chẳng trọn: hoặc mắt không sáng, hoặc tai không nghe, hoặc tay gãy chơn cùi, điếc ngây mờ tối, góa bụa không con, nghèo thấp hèn. Ðó là người cái căn siển cạn.
Còn người căn sâu: Sang như Thiên-Tử, giàu có bốn biển, cai quản muôn dân, hoặc làm quan có quyền danh tiếng vui hưởng ruộng vườn, sáu căn đều đủ, tai mắt thông minh, tánh tâm từ thiện, ý khí bình hòa, toàn thân đủ trọn. Ðó là người căn sâu phước lớn.
Trong đời trọng việc giàu sang: người giàu sang thì căn sâu hơn người thường. Như mà biết ăn ở hiền lành, thêm việc giúp người lợi vật: đó là đem cái căn dựng bồi thêm, trường trai giới sát tìm phép vô hình (tức là học Ðạo) thì sau đặng thành Phật thành Tiên, chứng đặng Thánh Hiền đều do nơi đó. Nên nói việc căn phận tại mình, thường ngày bồi bổ, đừng nói kiếp sau mang theo, hiện tại kiếp này cũng hưởng đặng. Như muốn hưởng bền, thường cần bồi bổ, dưỡng từ lời nói, tập từ đức hạnh, lo làm phương tiện, là những việc chi thuận lòng người thì làm, đừng chê việc lành nhỏ mà không làm, không vì việc dữ nhỏ mà làm, thì lo chi kiếp sau không nhờ. Tỷ như cái núi, lâu ngày càng cao lớn lên thêm. Ðừng nói bạn mình không căn mà thối chí. Như nói không căn thì làm sao hưởng gia nghiệp này? Lại đặng sai tớ khiến bạn, nhứt hô bá ứng. Thiệt không dám khoe mình, chớ xét ra cũng là người có căn lớn!
Bởi viên ngoại vốn người mộ Ðạo, chẳng qua là qua một hồi mê muội, nghe bà mở vạch rõ ràng, nghĩa lý đặng thấu như chiêm bao mới tỉnh, đứng dậy tạ ơn rằng: Nay tôi nghe lời bà chỉ dạy, khiến tôi mở thông đường Ðạo; chưa biết minh-sư đâu mà tìm, xin bà chỉ rõ.
Huyên-Trinh nói: Việc đó cũng không khó. Tôi thường thấy một ông già tay cầm gậy tre, vai mang bầu thiếc, tinh thần mạnh mẽ, mắt tỏ chiếu ngời, trên mặt đỏ như son, thường xin ăn tại xóm mình hơn mấy năm, chẳng thấy suy già, chắc là người có Ðạo. Vậy đợi ông đến, mời về nhà nuôi dưỡng, lần lần cầu học diệu lý chắc đặng.
Viên-ngoại rằng: Nay mình nhà cửa rộng lớn, cũng nên làm phương tiện kỉnh già thương khó, chẳng luận là có đạo hay không đạo, một mình ông ăn mặc là bao nhiêu. Ðể mai tôi hỏi ông chịu hay không.
Huyên-Trinh nói: Tu một ngày giải thoát đặng một ngày, việc chẳng khá trễ...
 Lại nói qua Trùng-Dương, từ khi tới huyện Ninh-Hải ở mấy năm, luyện đặng tinh thục, biết đặng quá khứ vị lai, phép quỉ thần thấu hiểu, thần thông đều đủ, trí huệ thông minh, biết đặng việc độ Thất-Chơn thì phải tùng nơi vợ chồng Mã viên-ngoại khởi đầu mới hiệp theo lời của Chung-Tổ nói: Hễ gặp Mã thì hưng. Nên ông thường qua lại trong xóm đó xin ăn mấy năm. Nay gặp Mã viên-ngoại biết người đức lớn, và thấy Tôn-Huyên Trinh mấy lần biết người thông minh trí huệ, muốn chỉ dạy việc tu, nhưng lại nghĩ rằng: Thuốc chẳng kêu cho, Ðạo chẳng khinh truyền, phải đợi y cầu học mới chỉ. Vì ông ở đó xin ăn mấy năm người người đều gọi ông là Côi-lão xứ xa, nghèo khó đến xin ăn, nào hiểu ông là Thần Tiên! Có một mình Tôn-Huyên-Trinh khác người, tâm hiền mắt thánh, nhận đặng người nghèo khó là Thần Tiên đó thôi! Mới nói cùng chồng tiếp ông về nuôi dưỡng đặng cầu học Ðạo; khiến cho bảy vị chơn nhơn nối theo. Luận công bảy vị chơn nhơn tu hành, có bà Huyên-Trinh thứ nhứt!

Có bài kệ rằng:  

Sanh thành trí-huệ thiệt phi thường,

Ðặng biết Thần Tiên biết thử phương,

Chẳng có Huyên-Trinh thần lực giỏi,

Thất-Chơn tông phái khó ra đường.

Khi đó Mã viên-ngoại nghe bà nói liền ra ngoài dặn người coi cửa như thấy ông già xách bầu thiếc tới, mau vô báo cho ông hay. Bữa đó, viên-ngoại ngồi trong nhà thấy người giữ cửa vô báo: Có ông già xách bầu thiếc đến! Viên-ngoại liền ra tiếp rước. (Ðó là Vương-Trùng-Dương đạo vận đến rồi, đúng theo lời của Chung-Tổ nói: Có người đến tầm ngươi!)
Thần Tiên còn phải đợi thời kỳ,

Thời vận chưa gần, đạo khó hành.

Trở lại trang mc lc

Thư Viện 1      4   5