THẤT-CHƠN NHƠN-QUẢ

HỒI THỨ HAI MƯƠI LĂM

Chơn dương túc, quần âm thối tán,

Ác oán dinh, hiệp gia trầm-luân.

Nghĩa là:

Chơn dương đủ, quần âm lui tán,

Ác dẫy đầy, cả nhà bị trầm luân.

Có bài kệ rằng:

Dưới gò núi hắc mã quan dinh,

Cỏ rậm rừng mê quái điểu minh,

Lụy chỗ tuyền đài người chẳng tỉnh,

Ðào tàn Lý rụi hoa thanh linh.

Lại nói Khưu-Trường-Xuân ngồi trong miễu Bàn-Khê công phu, đương lúc tịnh xảy thấy 2 đồng tử dẫn bạch-hạc đứng trước mặt nói rằng: Vâng lời Ngọc-Ðế sắc lịnh, thỉnh Chơn-Nhơn cỡi hạc phi thăng. Trường-Xuân liền nhớ lời Tam-Quan Ðại-Ðế nói 7 năm thành chơn, có lẽ nào bữa nay đặng thành! Hay là âm ma trong mình nó hiện ra mấy thứ huyễn cảnh mà phá công-phu của ta? Ông tỉnh ngộ đặng rồi, 2 người đồng-tử cùng bạch-hạc cũng đâu mất, một mình ngồi trên bồ-đoàn, muôn việc đều không. Ông nghĩ tại mình ỷ giỏi, muốn đi thử Ma-Y, nên sanh việc âm ma nhiều thứ quái lạ mà khảo mình. Phải mình không tỉnh chắc nó đoạt cái linh tánh. Nghĩ rồi ông liền tự hối rằng: Nếu như chẳng luyện dứt cái âm-khí sao đặng thuần dương? Vậy phải dùng một phép mà trừ cho đặng ma-chướng tiêu sạch, mới là phép chơn tịnh.
Rồi đó ông bỏ chỗ Bàn-Khê đi kiếm đặng cái núi đất, thấy dưới núi có cục đá tròn, nặng hơn trăm cân, cũng là chỗ thanh tịnh vắng vẻ. Ông cất cái am tranh mà ở tu luyện, hễ chừng có âm-ma phát ra, ông đi ôm cục đá lên nửa núi lăn xuống, rồi ngồi tịnh. Như có sanh nữa thì ông đi ôm đá lăn nữa, làm như vậy 3 năm âm-ma mới trừ sạch, mới đặng thuần dương, mấy thứ huyễn cảnh đều dứt, linh hiển đặng thông thiên-cơ liền ứng, thấy rõ biết chỗ Vương-Ðại-Môn có việc mà thiên-cơ chẳng dám tiết lậu. Ông định đi lại đó khuyến hóa đôi lần, bằng đặng tỉnh ngộ khá khỏi chỗ trầm luân tai ách, chẳng mất lòng Thượng-Ðế hóa sanh chi đức, đặng mở chỗ cứu đời. Tưởng rồi, ông liền bỏ núi đất đi qua xứ đó. Xứ đó có một người họ Vương, tên Vân, nhà giàu lớn, người người đều gọi là Vương-Ðại-Môn.
Chỗ ấy trên núi dưới nước, sơn-thủy rất tốt. Vương-Vân tuy giàu sang mà lòng khắc bạc, hay dùng giạ già cân non, ra ít thâu nhiều, thường hay khi nghèo hiếp yếu, chiếm đoạt ruộng đất của người, trong nhà tôi tớ đều mượn oai hổ, húng hiếp xóm giềng, gian-dâm phụ nữ, không chút lòng nhơn, ỷ theo chủ mà nương cậy,
gây tội ác vô cùng.
Trước nhà có cục đá dài hơn một trượng mấy thước, đầu lớn đuôi nhỏ giống như con sư-tử. Nên ai cũng kêu là "Thạch sư-tử".
Trong nhà người làm công nhiều lắm, hễ đến bữa cơm, người coi cửa nhảy lên lưng sư-tử lấy đá đánh một tiếng, bốn phía đều nghe liền về ăn cơm, ngày ngày như vậy.
Cách nhà chẳng bao xa có cái núi thấp, trên núi có một cái miễu bà Quan-Âm. Khi trước ông nội của Vương-Vân tạo làm có cúng ruộng đất, có người chủ trì. Qua đến Vương-Vân làm chủ đuổi người đó đi, ruộng đất lấy lại, miễu chưa hư, thần tượng còn mà không ai phụng sự, duy còn cái miễu hoang.
Khưu-Trường-Xuân vào ở trong miễu, mỗi ngày nghe cục đá kêu thì biết tới bữa ăn, đến xin mười mấy bữa không ai thèm hỏi tới ông, huống hồ chén cơm bát nước tài nào mà xin đặng! Trong nhà có một đứa tớ gái tên Xuân-Huê, thấy ông đến xin mấy lần không ai cho, trong lòng bất nhẫn, lén lấy bánh giấu đem cho ông, rồi biểu thầy phải đi cho mau, chỗ nầy chẳng phải chỗ lành. Qua bữa sau ông đến xin gặp Vương-Vân đứng trước cửa. Ông Khưu muốn độ Vương-Vân, biết người nhà giàu là do kiếp trước có tu, mà nay lòng hay khắc bạc không biết tự hối. Nên thấy Vương-Vân đứng đó, ông liền đọc bốn câu kệ đặng cảm động lòng Vương-Vân.

Kệ rằng:

Vì lợi tham danh chẳng trở đầu,

Có bữa vô-thường việc chẳng lâu,

Ruộng đất bạc tiền đem chẳng đặng,

Không dè kiếp đến phải lo sầu!

Khưu-Trường-Xuân đọc rồi, Vương-Vân nổi giận mắng rằng: Mấy thằng giả đạo, đừng ở đây nói bậy, bình sinh tao không tin phép Phật, mầy phải đi mau mới khỏi chịu nhục.
Ông Khưu rằng: Bần-Ðạo đến quí phủ xin bữa cơm, cầu ông cho ít nhiều.
Vương-Vân thấy ngoài cửa có cái thùng hốt cứt ngựa, sẵn có cái vá một bên, vói tay lấy xúc một vá cứt đem lại nói rằng: Mầy cầu tao thí giúp,
nay tao cho mầy cái nầy lấy không?
Trường-Xuân đương muốn khuyên Vương-Vân, tưởng là y nói chơi nên lấy bầu đưa ra, Vương-Vân đổ cứt vô trong bầu!
Trường-Xuân nói: Cứt ngựa nầy ông cho tôi có chỗ chi dùng chăng?
Vương-Vân nói: Cứt đó tao cũng mướn người đi hốt, nay đem cho mầy cũng là thi ân.
Ông Khưu nghe nói than rằng: Thiện-tai! Thiện-tai!
Vương-Vân và nội nhà tôi tớ đều cười lớn, duy có con Xuân Huê trong lòng bất nhẫn. Bữa sau Xuân-Huê thấy mấy người ăn rồi đi làm hết, lén lấy bánh bỏ trong túi, ra coi có ông lại xin hay không. May gặp Trường-Xuân đứng trước cửa liền đưa bánh cho ông. Ông nói: Ta chẳng phải tới xin bánh, vì có một việc kín muốn nói cho cháu hay: phải thường nhớ trong lòng, chừng nào mắt con sư-tử đỏ, cháu phải mau lên trên miễu Quan-Âm đặng lánh nạn! Trốn qua một giờ ba khắc thì khỏi chết. Nói rồi liền đi mất.
Xuân-Huê thường nhớ trong lòng, mỗi ngày coi chừng thạch sư-tử mấy lần, thường bữa như vậy. Có thằng nhỏ giữ trâu thấy Xuân-Huê làm như vậy hỏi rằng:
Chị làm gì mỗi ngày ra coi con sư-tử chi vậy?
Xuân-Huê rằng: Hôm trước ông thầy xin ăn nói với tôi biểu coi chừng con mắt thạch sư-tử đỏ, thì mau chạy lên trên miễu Quan-Âm trốn một giờ thì khỏi nạn lớn. Thằng coi trâu nghe nói việc lạ muốn phá chơi, lén lấy cục đá đỏ, chiều cột trâu sớm, chạy lên thạch sư-tử lấy miếng đá vẽ trong con mắt sư-tử rồi núp phía sau coi Xuân-Huê làm sao? Gần tối thấy Xuân-Huê trong nhà ngồi đứng không yên, thầm tưởng trong lòng: Hay là sư-tử mắt đỏ rồi chăng? Lật đật chạy coi, chẳng sợ chủ nhà nghi. Xảy thấy hai con mắt của sư-tử đỏ hết, lấy làm sợ hải liền chạy lên miễu Quan-Âm. Thằng coi trâu thấy vậy cũng chạy theo tới miễu,
liền nghe nổ một tiếng vang trời động đất, bốn phía nổi mây đen tối mịt,
gió thổi ầm ầm đến nữa đêm mới dứt.
Xuân-Huê với thằng nhỏ trốn dưới bàn Quan-Âm nghe tiếng nói ào ào như ngàn người đánh trống. Ðến sáng mới dám ra coi ai nấy kinh hồn khiếp vía đều nói: Biết Vương-Vân là người khắc bạc, ỷ chúng hiếp cô, khi dể ông bà cha mẹ, lấn lướt xóm giềng, miệng độc như rắn, chúng bạn đều ghê, tôi tớ có lỡ thì miệng chửi tay đánh, guốc roi liền bữa, chẳng có lòng thương, như vậy cũng đành. Có kẻ nói: Chết một con sâu độc các giống xuân hòa; nhổ một gai hùm khỏi ăn thâm luồn cẳng. Người khác nói: Hễ khắc bạc người tức là làm hại mình, dung người thương người tức là dung, thương mình đó! Nên có câu:
Trời Ðất không tư, lành thì đặng phước, dữ thì mắc họa, không sai.
Lại thấy con sư-tử chẳng trôi, ngã nằm tại giữa sông. Xuân-Huê thấy nội nhà chủ bị trôi hết khóc lên một hồi kinh động trong xóm. Người người chạy ra coi đều nói: Trời có mắt báo ứng không sai. Rồi hỏi Xuân-Huê sao mà nội nhà chủ nó chết chìm hết nó trốn đâu mà khỏi. Nó bèn đem việc ông đạo-trưởng đi xin thuật mọi việc cho mấy người nghe, ai nấy đều nói: Vương-Vân hung ác, số định đến rồi nên Trời giáng thủy tai thâu kẻ bạo tàn, còn ông đạo đó chắc là Thần Tiên đến khuyến hóa cho y mà y đã chẳng chịu hồi tâm lại thêm khi dể kẻ nghèo, lấy cứt ngựa cho người ta ăn, thật là tán-tận lương tâm nên phải bị tai kiếp. Còn Xuân-Huê tuy là tôi tớ mà có thiện căn nên được cứu khỏi nạn. Thằng coi trâu cũng nhờ theo Xuân-Huê mà khỏi chết. Ấy vậy người ở đời phải làm việc lành thể lòng Trời Ðất, thương người thương vật phải tin nhơn quả, phải sợ nhà tối có Thánh Thần soi xét nên chẳng dám làm điều quấy, đến chừng gặp đại nạn mới có Thần Thánh cứu hộ chẳng sai.
Rồi hỏi Xuân-Huê bao giờ cháu tính làm sao?
Xuân-Huê đáp rằng: Cái miễu nầy nguyên ông nội của chủ tôi lập ra, chung quanh ruộng đất có để cúng trong miễu, thôi tôi tính ở tại miễu nầy tu hành, cũng không ham việc trần chi nữa. Tôi nghĩ của tiền như bọt nước, đời người như giấc chiêm bao. Như chủ tôi mới thấy buổi chiều, sáng ra biệt xác. Hỡi ơi! Dường ấy còn lo làm chi! Kiếm một bữa vui qua một bữa, tầm đường ngay mà thoát lưới trần. Vậy cháu xin cô bác thương, dầu có nắng mưa,
cúi nhờ ơn cô bác, thế nào cháu cũng nguyện tu thân.
Mấy người nghe nói mừng lắm, tiếp rằng: Ðể bà con ta giúp đỡ tiền ăn cho qua ngày. Nói rồi Xuân-Huê kiếm một bà già ở với nó làm bạn, nhứt tâm khổ chí tu hành. Ðặng mấy năm sau Khưu chơn-nhơn ở tại Long-Môn động tịnh dưỡng biết Xuân-Huê có lòng chơn-tu,
ông đi đến độ Xuân-Huê, sau nó cũng đặng thành chánh quả. Việc nầy là việc sau.
Ðây nhắc lại khi ông Trường-Xuân bảo Xuân-Huê đi tỵ nạn rồi ông liền đến chỗ Long-Châu tại vách đá, trên vách có cái động, là khi đời nhà Tần mạt Hớn hưng có ông Lâu-Cảnh tiên-sanh ở đó mà định nhựt nguyệt, dưới có con sông, vách đá dựa khe nước, nước thường chảy vòng theo vách, đứng xa ngó lại thấy như ở giữa khe nước. Cái động ấy có cửa, nên người ở xứ đó lâu năm thấy động hình như vậy nên đặt tên Long-Môn, lấy tích Lý-Ngư khiêu Long-môn (Lý-Ngư khiêu long-môn tục kêu là võ-môn tam-cấp. Con cá nào nhảy khỏi thì thành rồng, không khỏi thì té chết, nên lấy xương kêu là long cốt).
Khưu-Trường-Xuân tới đó nhớ câu "Môn-thượng long-phi" chắc ứng tại đây. Rồi ở tại động tu chơn dưỡng tánh 2 năm. Khi đó chỗ Long-Châu trời hạn, quan Thái-Thú biểu dân trong ấp cầu đảo mà không mưa, lúa cây đều khô hết, muôn dân thọ khổ. Khưu-Trường-Xuân liền đến quận nói để định ngày cầu đảo ba ngày có mưa, phổ cứu nhơn dân. Quan quận nghe nói mừng tiếp rồi sắm lễ vật bái thỉnh cầu đăng đàn.
Khưu-Trường-Xuân sửa soạn áo mão, phủ-phục đốt hương lên đàn. Một lòng thành kính niệm cảm Thượng-Ðế, quả thiệt mưa lớn 3 ngày 3 đêm, ruộng rẫy đặng mùa, muôn dân an-ổn.
Qua năm sau, mấy tỉnh ở Bắc-Kinh cũng bị trời hạn, không mưa, trên vua khẩn đảo cùng bá quan cầu mưa không đặng. Ngươn-Thuận-Ðế truyền chỉ treo bảng cầu mưa, thỉnh mấy vị tu hành có đạo, ai cầu đặng mưa gia quan trọng thưởng.
Khi đó bảng vua treo rồi, các tỉnh đều nghe, có quan Thái-Thú ở Long-Châu bảo cử một người cầu mưa.

Ngày xưa bị đói khát,
Mà nay động Ðế-Vương.

HỒI THỨ HAI MƯƠI SÁU

Kỳ vô trạch, hồi thiên chuyển nhựt,

Thi diệu thuật hoán phụng du long.

Nghĩa là:

Cầu mưa thuần trở trời che nhựt,

Ra phép diệu đổi phụng thay rồng.

Có bài kệ rằng:

Một tấm lòng thành cảm đến Thiên,

Lại thêm mùa nắng trở phong niên,

Chớ lời Ngươn-Chúa thương dân thiết,

Tại thiệt chơn-nhơn phép diệu huyền.

Lại nói Ngươn-Thuận-Ðế ra bảng chiêu cầu người có đạo-đức đặng cầu mưa cứu dân, quan Thái-Thú ở Long-Châu dâng sớ tâu đến trên kinh bẩm rằng:
"Tại Long-Châu, động Long-Môn, có người cao-sĩ là Khưu-Trường-Xuân, đạo đức thanh cao. Năm đó Long-quận khô hạn, nhờ ông ra sức cầu, đặng mưa lớn 3 ngày, phổ cứu muôn dân. Nay hoàng-thượng muốn cầu võ cứu dân, chẳng có người đó chẳng đặng. Thần nay có lòng cứu dân làm phước, nên dám phụng tấu."
Ngươn-Thuận-Ðế nghe rồi rất mừng, liền mạng Hiệp-Lý Thát-Thát đại-phu đến sính cầu Trường-Xuân. Ði mấy bữa mới tới động, trình dâng ngọc-chỉ,
 tỏ lời Ngươn-Chúa thỉnh cầu đảo võ v.v...
Trường-Xuân nghe đặng vui mừng ưng chịu, cùng quan đại-phu đồng tới Bắc-Kinh, bữa sau vô chầu Thượng-hoàng vạn tuế. Ngươn-Thuận-Ðế tôn lấy sư lễ, từ tạ cửu khanh chi thượng. Nói việc cầu võ, Trường-Xuân tâu rằng: Hoàng-Thượng hết lòng thương dân tai kiếp, thần cam vâng mạng, nào dám chẳng ra công; mà phải lập một cái đài cao đặng làm lễ cầu đảo. Hoàng-Thượng ra niệm hương bái lễ chứng minh, rồi thần quì cầu đảo, tấu một lá sớ lên Thượng-Ðế, xin kỳ 3 ngày có mưa. Ngươn-Chúa nghe vậy, có sắc mừng ưng chịu liền mạng quan Hữu-Tư đi làm võ đàn, rồi biểu quan Thái-giám đưa Trường-Xuân tới
Tập-Hiền-Quán an nghỉ.
Bữa sau, quan Hữu-Tư vô tấu, nói võ đàn làm rồi, xin dời pháp-sư lên đàn. Ngươn-Thuận-Ðế liền mời Trường-Xuân đi. Thiên-Tử cung kỉnh, nhang đèn lễ bái rồi ngự giá về cung, còn Trường-Xuân phủ-phục tại võ-đàn, cùng bá quan văn võ, chay giới phân ban,
 khẩn cầu tâu thiết.
Qua ngày thứ ba, giờ ngọ mặt nhựt thinh không chuyển đỏ như son, nắng thôi cùng xứ, người người đều đổ mồ hôi. Trường Xuân lấy nhành dương nhúng nước rảy một cái, ngồi mật niệm trong mình vận chuyển rần rần. Rồi thấy trên mặt nhựt có sanh một đám mây đen che áng, một lát thiên-hôn địa-ám mưa xuống liền liền, luôn hết mấy ngày, cây trái đương khô đặng phát biến sắc phục sanh, nhơn-dân vui mừng.
Cả thảy vạn-vật sanh linh đều cảm!
Ngươn-Thuận-Ðế trong tâm mừng rỡ, phong Trường-Xuân làm chức Hoàng-Ðạo Chơn-Nhơn, để ở tại kinh sư, đãi làm thượng khách.
Bữa nọ Ngươn-Chúa mời Chơn-nhơn vào trong cung, đi dạo ngự huê-viên. Trong đó có cỏ trường-sanh, bông không tàn, cảnh vật xinh tốt, nói thôi chẳng xiết. Ngươn-Chúa đồng ngồi với Trường-Xuân trên ghế giảng đạo luận chuyện, có ngũ-sắc tường-vân phủ che nửa lừng trời. Hễ nói đến chỗ huyền-diệu thì Ngươn-Chúa than rằng: Trẫm như không lãnh việc nước, nguyện theo Chơn-nhơn du lịch, để trẫm có hậu rồi sẽ bái Chơn nhơn làm thầy,
 nhập sơn tu luyện.
Chơn-nhơn tâu rằng: Hoàng-Thượng chớ lo, Hoàng-hậu đã hoài long thai,
chẳng bao lâu sanh đặng Thái-Tử.
Ngươn-Chúa thầm tưởng: Chơn-nhơn quả thiệt Thần Tiên lại biết Hoàng-hậu có thai. Bèn hỏi rằng: Hoàng-hậu quả thiệt có thai, mà chẳng biết sản long hay phụng?
Khưu-chơn-nhơn rằng: Thần đã toán chắc rồi, thiệt là long chớ không sai chạy.
Ngươn-Chúa nói: Quả như lời Chơn-nhơn trẫm đặng may lắm! Nói rồi Khưu-chơn-nhơn kỉnh lễ ra về. Ngươn-Chúa hồi cung nói với Hoàng-hậu rằng: Trường-Xuân chơn-nhơn toán chắc ngự thê nghén dựng long thai,
chẳng biết thiệt không?
Hoàng-hậu tâu rằng: Sao bệ-hạ dám chắc vậy? Thôi để mời Quốc-sư lên điện cùng Chơn-nhơn đồng toán. Hai đàng đồng nói tương-phù ý hiệp mới biết chắc. Ngươn-Chúa đại hỷ, bữa sau cho mời Bạch-Vân Thiền-Sư với Khưu Chơn-nhơn lên điện,
đồng toán Hoàng-hậu thân dựng sản long hay phụng? Bạch-Vân Thiền-Sư
 đánh tay toán rồi tâu rằng:
Ý thần thử toán nương-nương thân hoài phụng thai, định sanh Công-chúa. Ngươn-Chúa lại hỏi: Khưu Chơn-nhơn ý hạ như hà?
Chơn-nhơn tâu rằng: Thần bữa trước cùng Hoàng-Thượng có nói rõ ràng, Hoàng-hậu thân hoài long thai ắt sanh Thái-tử, nào có sai.
Bạch-Vân Thiền-Sư cười rằng: Thầy có ở tại ngộ huyền ắt biết tinh vi lý số,
phải toán lại coi.
Khưu-Trường-Xuân định thần chiếu thấu thai bào đáp rằng: Toán chắc không sai!
 Thế nào cũng sanh Thái-tử.
Thiền-Sư nổi giận nói rằng: Lý số của tôi toán mấy lần cũng không sai chạy, e thầy nói vọng ngôn làm cho rối loạn lòng vua.
Khưu chơn-nhơn rằng: Số lý chẳng bằng thiên-lý, âm đức có sức đổi trở đặng trời, làm lành có công cải số cũng đặng. Nay Thánh-Thượng ra lòng cầu võ, phổ cứu muôn dân, côn-trùng thảo-mộc cũng đặng nhờ đức, đó là ơn đức rộng lớn mà cảm động đến Tam-Thiên, chuyển nữ thành nam, hóa phụng thành long, cũng chưa khá biết!
Bạch-Vân Thiền-Sư nói: Ta tưởng nhà ngươi có đạo, hóa ra cũng chỉ tầm thường, hoài thai đã trước, cầu võ lúc sau, nào có thai đã sanh thành rồi mà lại cải biến đặng?
Chơn-nhơn đáp: Tôi đã định chắc, nào có cương biện.
Bạch-Vân Thiền-Sư rằng: Thầy dám cá với tôi chăng?
Chơn-nhơn đáp: Cá thì cá sao chẳng dám!
Bạch-Vân Thiền-Sư nói: Bằng thiệt long thai tôi đem chùa Bạch-Vân dâng cho thầy.
Khưu-chơn-nhơn cũng nói: Bằng như phụng thai tôi nguyện dâng thủ cấp cho ông!
Thiền-Sư cười nói: Ðừng có thối hối.
Chơn-nhơn rằng: Một lời nói chắc nào có thối hối.
Thiền-Sư nói: Miệng nói không bằng phải lập tờ làm chắc.
Khưu-chơn-nhơn nghe nói liền xin giấy mực, tại long-án làm tờ rằng:
TỜ CAM ÐOAN:
"Tôi người lập tờ cá thủ cấp là Khưu-Trường-Xuân. Nay cùng Bạch-Vân Thiền-Sư hơn thua. Bằng sau trong cung Chúa-mẫu sản sanh Phụng-nữ, Khưu-Trường-Xuân cá thua, nguyện dâng thủ cấp, không đặng trở lời."
Bạch-Vân Thiền-Sư cũng tại trước ngự-án biên rằng:
TỜ CAM ÐOAN:
"Tôi người lập tờ cá Bạch-Vân-Tự là Bạch-Vân-Tăng. Nay cùng Khưu-Trường-Xuân đấu thắng. Như sau trong cung Chúa-mẫu sanh Hoàng-tử thì Bạch-Vân-Tăng phải thua, nguyện đem Bạch-Vân-Tự giao cho Khưu-Trường-Xuân, không đặng đổi lời."
Biên rồi hai đàng ký tên, giao tờ coi đọc xong rồi,
 có bá quan vi chứng, dâng lên ngự-án.
Ngươn-Thuận-Ðế long mục xem qua rồi thâu để đó chờ Hoàng-hậu sanh sẽ hay,
 rồi bãi chầu đều về hết.
Lại nói Bạch-Vân Thiền-Sư về Bạch-Vân-Tự tưởng việc Khưu-Trường-Xuân đoán quyết như vậy hay là Hoàng-hậu long thai, mình toán sai chăng? Trong lòng chẳng an, toán lại số lý thật không sai, rồi mừng thầm nói: Khưu-Trường-Xuân! Nhà ngươi đừng trách ta, việc nầy tại mình làm ra tai họa mà hại tánh mạng, uổng cho người tu hành một đời,
 vì một việc mà ô danh ngàn thuở.
Lại nói Khưu-Trường-Xuân về tới Tập-Hiền-Quán, toán chắc định ngày Hoàng-hậu sanh thai, rồi đốt một lá thần phù lên trên cung Cửu-Thiên Huyền-Nữ, mượn một vị Tiên tên là Ngọc-Trịnh Tiên-Nữ biến hóa vô cùng, thần thông chí diệu. Tiên-Nữ vâng lịnh Cửu-Thiên đến nghe Khưu-chơn-nhơn sai khiến. Khưu-chơn-nhơn nói cùng Tiên-Nữ rằng: Ðêm nay đầu canh 5, trong Ninh-Vương-Phủ, bà Vương-phi sanh một đứa con trai. Tiên-Nữ đem cái hồ-lô biến ra một đứa con gái đi đổi đứa con trai, ẵm đến tại cung Kim-Lang điện, đợi tôi đổi phụng rồi Tiên-Nữ sẽ đem con gái nầy đổi lấy cái hồ-lô lại. Tiên-Nữ vâng lịnh đi liền, y như lời dặn.
Lại nói đêm đó giờ tý, Hoàng-hậu sản sanh Công-chúa, y lời Bạch-Vân Thiền-Sư nói sanh phụng-thai. Rồi mấy người cung phi báo cho Ngươn-Chúa hay. Thuận-Ðế nghe báo sản phụng thai, trong lòng phục Thiền-Sư toán giỏi, rồi lại lo Khưu chơn-nhơn tánh mạng chẳng còn! Vậy phải lo phương chi cứu khỏi mới phải đạo vua tôi.
Buổi chầu mai, bá quan đều biết Hoàng-hậu sanh công chúa, liền lên chầu giá. Bạch-Vân Thiền-Sư cũng đến chầu mừng tâu rằng: Thần nghe Hoàng-hậu sản sanh Công-chúa, tiếp nối thạnh triều, thần thiệt vui mừng, nguyện Ngô-Hoàng vạn tuế, Công-chúa thiên-thu!
Ngươn-Thuận-Ðế than rằng: Trẫm mạng không hậu cũng chẳng than phiền, vì Khưu chơn-nhơn toán sai âm dương, ắt phải chịu thua. Trẫm niệm y có công cầu võ,
muốn cứu cho khỏi, nguyện đem tiền kho 10 muôn, bồi bổ Bạch-Vân-Tự,
đặng chuộc cái thủ cấp của Khưu chơn-nhơn.
Ngươn-Chúa nói rồi, Bạch-Vân thiền-sư còn đang suy nghĩ, Hoàng-môn-quan báo có Khưu chơn-nhơn đến chầu. Ngươn-Chúa liền mạng cho vô. Khưu chơn-nhơn chầu bái rồi cung hạ: Hoàng-Chúa, nay Hoàng-hậu sanh Thái-tử nối nghiệp thiên thu.
Ngươn-Chúa rằng: Chơn-nhơn lầm rồi, trẫm hay Hoàng-hậu sản sanh Công-chúa.
Khưu chơn-nhơn tâu: Thần toán vạn vô nhứt thất, như quả thiệt công-chúa thì xin ẵm ra cho coi, có thác thần cũng cam tâm.
Ngươn-Chúa ý muốn cứu hộ mà nghe lời Khưu-Trường-Xuân khẳng khái thì không vui, bèn kêu cung-nữ ẵm ra coi. Khi đó đến giờ mẹo, Tiên-Nữ đem hồ-lô hóa làm một đứa con gái đổi đứa con trai của bà Vương-phi, rồi bồng lại che khuất các thần quan, đứng lên Kim-Lang điện đợi hầu. Kế thấy cung nữ bồng công-chúa dâng cho Ngươn-Thuận-Ðế. Vua biểu cung nữ đưa cho Khưu chơn-nhơn coi. Chơn-nhơn hai tay tiếp bồng, lấy tay áo che qua. Tiên-Nữ đem long đổi phụng, đem vào Vương-phủ trả lại lấy hồ-lô về. Bá quan nhục-nhãn phàm-thân làm sao mà thấy đặng! Còn Bạch-Vân thiền-sư chẳng qua là có trí-huệ chớ không có thần quang thì cũng không hiểu thấu.
Khưu chơn-nhơn sau việc du Long hoán Phụng, hai tay bồng Thái-tử đưa cho bá quan coi phải trai hay gái. Bá quan coi rồi liền hô: Thái-Tử thiên-thu! Làm Bạch-Vân thiền-sư thất sắc, chạy lại ẵm coi, thật rõ-ràng Thái-Tử. Bạch-Vân thiền-sư đỏ mặt rồi cũng xưng hạ rằng: Quả thiệt Hậu-triều Thự-quân (là có Thái Tử nối nghiệp). Nói rồi liền đem dâng cho Ngươn-Chúa. Ngươn Chúa thấy việc lạ cũng tùy miệng cãi rằng: Trẫm nghe cung nữ truyền báo chớ chưa thấy, tưởng công-chúa, đó là trong cung nói lầm. Liền sai quan Lộc-Tự đãi tiệc ba ngày, đại xá thiên hạ, rồi Ngươn-Chúa lui chầu văn võ tán ban.
Khưu chơn-nhơn hỏi Bạch-Vân thiền-sư rằng: Nay sự thể đã rõ-ràng,
thầy tính làm sao?
Bạch-Vân thiền-sư đáp: Nhứt ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Nói sau làm vậy. Ngày mai tôi giao chùa cho ông y theo lời giao kết, có chi phân hỏi! Nói rồi hai đàng đi về. Còn Khưu chơn-nhơn ở trong quán sai Tiên-Nữ đem trả hồ-lô cho Cửu-Thiên Huyền-Nữ,
 việc đó xong rồi.
Lại nói qua Bạch-Vân thiền-sư về đến Bạch-Vân-Tự, trong lòng chẳng phục, lại toán số nữa, cũng tính không ra, thiệt là cờ cao một nước khó hơn qua, nghề yếu 3 phân cũng thấy thua,
rồi mắt trân trân than thở!
Người phục thị đứng một bên nói rằng: Khưu-Trường-Xuân có một mình làm sao giành hết chùa lớn? Thôi bây giờ biểu một người đổi một người, bằng đổi không hết, bạn ta cũng ở lại đây, sẽ toan liệu. Thiền-sư nghe nói rất mừng. Bữa sau Khưu chơn-nhơn đến, Bạch-Vân thiền-sư nói: Tăng nhiều chùa rộng, chùa lớn người ít. Nay thầy tới một người đạo, tôi đi một người tăng, một người đổi một người, bằng đổi không hết thời đi cũng không hết, tăng ở cũng đặng, đạo ở cũng đặng.
Khưu chơn-nhơn đáp: Như vậy cũng đặng, để tôi đi kêu chúng nó tới. Khưu chơn-nhơn nói rồi đi ra ngoài chùa lấy cái phất trần trong tay áo bứt một nắm chỉ thổi một hơi chơn khí, quăng lên trên không-trung.

Ðừng khi ta nay người sức ít,
Phải biết bên mình phép diệu hay.

Trở lại trang mc lc

Thư Viện 1      4   5