Tại sao sư tăng đều mang họ Thích? Lê Anh Minh
Đạo An 道 安 (312-385) là học giả Phật giáo kiệt xuất đời Đông Tấn (317-420). Ông sinh tại huyện Phù Liễu 扶 柳 thuộc Thường Sơn 常 山 (nay là huyện Ký 冀 , tỉnh Hà Bắc 河 北 ). Bấy giờ chiến tranh loạn lạc, ông còn bé đã sớm mất cha mẹ, nên được một người anh họ nuôi dưỡng. Lên bảy tuổi, ông bắt đầu đọc sách; 15 tuổi đã thông ngũ kinh và chuyển sang học Phật. Năm 18 tuổi, ông xuất gia ( Cao Tăng Truyện nói ông xuất gia năm 20 tuổi). Năm 335, ông theo học cao tăng Phật Đồ Trừng 佛 圖 澄 (232-348) ở Nghiệp Đô 鄴 都 (nay là huyện Lâm Chương 臨 漳 tỉnh Hà Nam 河 南 ). Sau khi Phật Đồ Trừng mất, ông thay Phật Đồ Trừng giảng Phật pháp. Để lánh nạn lửa binh, ông bỏ Hà Nam đến Hộ Trạch 濩 澤 (nay là huyện Lâm Phần 臨 汾) ở Sơn Tây. Không lâu sau đó, năm 355, ông cùng sư Pháp Thải 法 汰 lập chùa trên ngọn Hằng Sơn trong rặng Thái Hàng. Huệ Viễn 慧 遠 (334-416) bấy giờ 21 tuổi, đến đây xuất gia. Do chiến loạn, Đạo An đưa Huệ Viễn cùng với khoảng 400 đệ tử khác đi Tương Dương (bấy giờ còn thuộc Đông Tấn, tương đối yên bình), lập chùa và trú tại đó 15 năm. Thời gian này ông giảng pháp, dịch kinh rất nhiều. Trong thời gian tại Tương Dương (365-380), chính ông đầu tiên chủ trương thống nhất đổi họ của sa môn là Thích 釋 (Śākya). Cao Tăng Truyện (quyển 5) chép: «Sơ Nguỵ Tấn sa môn y sư vi tính cố tính các bất đồng. An dĩ vi đại sư chi bản mạc tôn Thích Ca, nãi dĩ Thích mệnh thị.» 初 魏 晉 沙 門 依 師 為 姓 故 姓 各 不 同 .安 以 為 大 師 之 本 莫 尊 釋 迦 .乃 以 釋 命 氏 (Đầu đời Nguỵ và đời Tấn các sa môn lấy họ theo thầy, nên các họ khác nhau. Đạo An cho rằng các đại sư ai mà chẳng tôn kính Thích Ca, bèn đặt họ Thích [cho sa môn]). Trước đó, các sa môn lấy họ của thầy, như họ An 安 của sư gốc An Tức 安 息 (Parthia), họ Chi 支 của sư gốc Nguyệt Chi 月 支 (Indoscyth), họ Trúc 竺 của sư gốc Ấn Độ, họ Vu 于 của sư gốc Vu Điền 于 闐 (Khotan hay Kustana), họ Khang 康 của sư gốc Khang Cư 康 居 (Soghdiana), họ Bạch 帛 của sư gốc Quy Tư 龜 滋 (Kucha), v.v... thường gọi tắt là An Lục 安 錄 (mục lục của Đạo An). ☸ Tham khảo: Thư Viện 1 2 3 4 5
|