Lục Vân Tiên -Nguyễn Đình Chiểu
Câu 1200 - 1399
Dứt tình họ Lục, mến tình họ Vương.
Kể từ định chước hại chàng
Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui
Ngày ngày trang điểm phấn giồi
Phòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê
Xẩy đâu Tử Trư.c vừa về
Vào nhà họ Võ thăm bề Vân Tiên
Công rằng: Chớ hỏi thêm phiền
Trước đà lâm bệnh huỳnh tuyền xa chơi
Thương chàng phận bạc ở đời
Cũng vì Nguyệt Lão xe lơi mối hồng
Nghe qua Tử Trư.c chạnh lòng
Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa
Than rằng: Chạnh nhớ linh xưa
Nghĩa đà kết nghĩa, tình chưa phỉ tình
Trời sao nỡ phụ tài lành
Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn
Cùng nhau chưa đặng vuông tròn
Người đà sớm thác ta còn làm chi
Trong đời mấy bậc cố tri
Mấy trang đồng đạo, mấy người đồng tâm
Công rằng: Lão cũng thương thầm
Tủi duyên con trẻ sắt cầm dở dang
Thôi thôi khuyên chớ thở than
Lão đà tính đặng một đàng rất hay
Tới đây thì ở lại đây
Cùng con gái lão sum vầy thất gia
Phòng khi hôm sớm vào ra
Thấy Vương Tử Trư.c cũng là thấy Tiên
Trư.c rằng: Ngòi viết đĩa nghiên
Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau
Vợ Tiên là Trư.c chị dâu
Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì
Chẳng hay người học sách chi
Nói sao những tiếng dị kỳ khó nghe
Hay là học thói nước Tề
Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công
Hay là học thói Đường cung
Vợ người Tiểu Lạc sánh cùng Thế Dân
Người nay nào phải người Tần
Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm
Nói sao chẳng biết hổ thầm
Người ta há phải là cầm thú sao
Võ công hổ thẹn biết bao
Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua
Thể Loan trong trướng bước ra
Miệng cháo: Thày Cử tân khoa mới về
Thiếp đà chẳng trọn lời thề
Lỡ bề sửa tráp lỗi bề nâng khăn
Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng
Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy
Chẳng ưng thì cũng làm khuây
Nỡ buông lời nói chẳng vì, chẳng kiêng
Trư.c rằng: Ai Lữ Phụng Tiên
Hòng toan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi
Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi
Lòng nào mà lỡ buông lời nguyệt hoa
Hổ hang vậy cũng người ta
So loài cầm thú vậy mà khác chi
Vân Tiên anh hỡi cố tri
Suối vàng có biết sư. ni chăng là
Tay lau nước mắt trở ra
Về nhà sắm sửa tìm qua Đông thành
Võ công hổ thẹn trong mình
Năm ngày nhuốm bệnh thất tình chết oan
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang
Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà
Đoạn này đến thứ Nguyệt Nga
Hà khê phủ ấy theo cha học hành
Kiều công lên chức Thái khanh
Chỉ sai ra quận Đông thành chăn dân
Ra tờ khắp hết xa gần
Hỏi thăm họ Lục tìm lần đến nơi
Khiến quân đem bức thư mời
Lục ông vâng lệnh tới nơi dinh tiền
Kiều công hỏi truyện Vân Tiên
Lục ông nhớ đến bỗng liền khóc than
Thưa rằng: Nghe tiếng đồn vang
Con tôi nhuốm bệnh giữa đàng bỏ thây
Biệt tin từ ấy nhẫn nay
Phút nghe người hỏi dạ này xốn xang
Kiều công trong dạ bàng hoàng
Trở vào thuật lại cùng nàng Nguyệt Nga
Lục ông người nói cùng cha
Duyên con rày đã trôi hoa dạt bào
Riêng than chút phận tơ điều
Hán giang chưa gặp, Ô kiều lại rơi
Nàng rằng quả thiệt như lời
Xin cha sai kẻ mời người vào trong
Nguyệt Nga đứng dư.a bên phòng
Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa
Công rằng: Nào bức tượng xưa
Nguyệt Nga con khá đem đưa người nhìn
Lục ông một buổi ngồi nhìn
Tay chân mặt mũi giống y con mình
Nguyệt Nga lạy gửi phân minh
Lục ông khi ấy sư. tình mới hay
Thương con phận bạc lắm thay
Nguyền xưa còn đó, con rày đi đâu
Nguyệt Nga chi xiết nỗi sầu
Lục ông thấy vậy càng đau gan vàng
Kiếm lời khuyên giải với nàng
Giải cơn phiền não kẻo mang lấy sầu
Người đời như bóng phù du
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng
Cũng như đống tịch đồng sàng
Cũng chưa nên nghĩa tào khang đâu mà
Cũng như cửa sổ ngư.a qua
Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền
Nàng rằng: Trước đã trọn nguyền
Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ
Công rằng: O+n trước ngãi xưa
Liền đem vàng bạc tạ đưa cho người
Lục ông cáo tạ xin lui
Tôi đâu dám chịu của người làm chi
Ngỡ là con trẻ mất đi
Hay đâu cốt cách còn ghi tượng này
Bây giờ con lại thấy đây
Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nàỏ
Ngửa than: Đất rộng trời cao
Tre còn măng mất, lẽ nào cho cân
Lục ông tạ từ lui chân
Kiều công sai kẻ gia thần đưa sang
Nguyệt Nga nhuốm bệnh thở than
Năm canh lụy ngọc, xốn xang lòng vàng
Nhớ khi thề thốt giữa đàng
Chưa nguôi nỗi thảm, lại vương lấy sầu
Công đà chờ đợi bấy lâu
Thà không cho gặp buổi đầu thì thôi
Biết nhau chưa đặng mấy hồi
Kẻ còn người mất trời ơi là trời
Thề xưa tạc dạ ghi lời
Thương người quân tử biết đời nào phai
Tiếc thay một bậc anh tài
Nghề văn, nghệp võ nào ai dám bì
Thương vì đèn sách lòng ghi
Uổng công nào thấy tiếng là gì đâu
Thương vì hai tám trên đầu
Người đời như bóng phù du lỡ làng
Thương vì chưa đặng hiển vang
Nước trôi sư. nghiệp, hoa tàn công danh
Thương vì đôi lứa chẳng thành
Vùa hương, bát nước ai dành ngày sau
Năm canh chẳng ngớt giọt châu
Mặt nhìn bức tượng ruột đau như dần
Dương gian nay chẳng đặng gần
Âm cung biết có thành thân chăng là
Kiều công thức dậy bước ra
Nghe con than khóc, xót xa lòng vàng
Khuyên rằng: Con chớ cưu mang
Gẫm trong còn mất là đường xưa nay
Đàn cầm ai nỡ dứt dây
Chẳng qua con tạo đổi xây không thường
Nàng rằng: Khôn xiết nỗi thương
Khi không gẫy gánh giữa đường chẳng hay
1Nay đà loan phụng rẽ bầy
Nêm nghiêng, gối chính phận này đã cam
Trăm năm thề chẳng lòng phàm
Sông Ngân đưa bạn, cầu Lam rước người
Thân con còn đứng giữa trời
Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi
Kiều công trong dạ chẳng vui:
"Con đành giữ tiết trọn đời hay saỏ"
Có người sang cả, ngôi cao
Thái sư chức trọng trong trào sắc phong
Nghe đồn con gái Kiều công
Tuổi vừa hai tám, tơ hồng chưa xăng
Thái sư dùng lễ vật sang
Mượn người mai chước kết đàng sui gia
Kiều công khôn ép Nguyệt Nga
Lễ nghi đưa lại về nhà Thái sư
Thái sư chẳng biết rộng suy
Đem điều oán giận sớm ghi vào lòng
Xẩy đâu giặc mọi làm hung
Ô-qua quốc hiệu, binh nhung dấy loàn
Đánh vào tới cửa Đồng-Quan
Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần
Sao cho vững nước an dân
Các quan ai biết mưu thần bày ra
Thái sư sẵn có cừu nhà
Vội vàng quỳ gối tâu qua ngai vàng
Thuở xưa giặc mọi dấy loàn
Cũng vì tham sắc phá tàn Trung Hoa
Muốn cho an giặc Ô-qua
Đưa con gái tốt giao hòa thì xong
.Nguyệt Nga là gái Kiều công
Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh
Nàng đã sắc khuynh thành
Lại thêm rất bậc tài tình hào hoa
Đưa nàng về nước Ô-qua
Phiên vương ưng dạ ắt là bãi binh
Sở vương nghe tấu thuận tình
Châu phê khiến sứ ra dinh Đông-thành
Sắc phong Kiều Lão Thái Khanh
Việc trong nhà nước, trẫm đành cậy ngươi
Nguyệt Nga nàng ấy nên người
Lư.a ngày tháng chín, hai mươi cống Hồ
Kiều công vâng lệnh nhà vua
Lẽ nào mà dám nói phô điều nào
Nguyệt Nga trong dạ như bào

Chú thích:
1.Huỳnh tuyền (hoàng tuyền): suối vàng, cõi chết\.
Nói Vân Tiên đã bị bệnh
chết rồi
2.Xe lơi: xe lỡ, xe dở dang.
3.Linh: tiếng dùng để chỉ người đã chết rồị
4.Đồng đạo: cùng theo một đạo lý\. Đồng tâm: cùng chung một lòng
5.Thất gia: nhà cửa (như nói gia đình), tức vợ chồng
6.Ngòi viết, đĩa nghiên: bút nghiên, hình tượng này được dùng để
chỉ tình bằng hữu thân
thiết trong việc học hành.
7.Vợ Tiên là Trư.c chị dâu: Trư.c chị dâu tức là chị dâu Trư.c, tác giả theo cú pháp chữ Hán\. Người Trung-quốc thường coi người bạn thân hơn tuổi như anh ruột,
và coi vợ bạn như chị dâụ
8.Tử Củ: con Hi Công nước Tề\. Hi Công chết anh Tử Củ là Tương Công lên
kế ngôi, chính sư. rối nát, bị bầy tôi là Vô Tri giết chết\.
Khi ấy Tử Củ chạy sang nước Lỗ, em là
Tiểu Bạch chạy sang nước Cử\. Sau Tiểu Bạch về nước trước, lên làm vua (tức là Hoàn công) sai người nói với vua Lỗ giắt Tử Củ và lại lấy vợ Tử Củ.
9.Đường cung: cung nha Đường (618-907)
10.Thế Dân: Lý Thắ Dân, tức Đường Thái Tông\. Thế Dân giết em là
Tiểu Lạc và lấy vợ em\. Tích này trong Đường sử chép lại là
Nguyên Cát, đây nói là Tiểu Lạc, có lẽ sai .
11.Bất Vi: Lã Bất Vi, người nước Tần, một lái buôn giàu có và xảo quyệt\. Khi Bất Vi đến nước Triệu, thấy cháu vua Tần là Dị Nhân đang làm con tin ở đó,
y nói: "Người này là món hàng quí có
thể tích trữ đầu cơ được" (Kỳ hóa khả cư), rồi y mưu mô cho Dị Nhân được
về nước lên kế ngôi làm vua, và y làm Tể Tướng\. Bất Vi còn lấy một người
thiếp rất đẹp, khi có thai, đem gán cho Dị Nhân, ít lâu sau sinh được người con trai, Dị Nhân vẫn tưởng là con mình, nên được
kế ngôi, tức Tần Thủy Hoàng \. Sau Bất Vi vì thông tinh với thái hậu (mẹ Thủy
Hoàng, tức người thiếp của y trước), việc tiết lộ, bị đày vào
Tứ-Xuyên, rồi y uống thuốc độc tư. tử.
12\. Dạ thỏ: lòng con thỏ, Thể Loan ví với lòng mình\. Người xưa bảo cung trăng có con thỏ, -lại bảo con thỏ trông bóng trăng mà chửa\. Hai câu này: giải theo
thuyết trên thì nghĩa là: ôm nặng tấm lòng, như con thỏ ngồi trong bóng trăng mà chờ đợi, hay theo
thuyết dưới, thì\... con thỏ trông lên bóng trăng mà chờ đợi, nhưng theo
thuyết dưới thuận nghĩa hơn\. Thể Loan nói có lòng chờ đợi Tử Trưc .
13.Lữ Phụng Tiên: Lã Phụng Tiên\. Lữ Bố, một võ tướng đời Tam quốc, con nuôi và chân tay của Đổng Trác\. Trác mưu cướp ngôi nhà Hán\. Vương Doãn, một trung thần nhà Hán, có người con gái hát trong nhà (ca cơ) tên là Điêu
Thuyền, sắc đẹp, bàn dùng kế ly gián: trước hứa gả cho Lữ Bố,
sau lại đem hiến cho Đổng Trác.
14.Thất tình: bị việc gì trái mình mà uất ức phiền não trong lòng
15.Cư tang: đạ tang, chịu tang
16.Thái khanh: một chức quan to
17.Chăn dân: do chữ Hán "mục dân": trị dân.
18.Dinh tiền: trước dinh.
19.Xốn xang: xôn xao, thổn thức, (tiắng miền Nam)
20.Hán giang: có bản chép là Hàn giang, xét ra không đúng nghĩa\.
Hàn giang tức là sông Hán (sông Ngân) trên trời; theo chữ Hán, sông này có
nhiều tên: Thiên hà, Thiên hán, Ngân hà, Ngân hán, Vân hán, Hà hán.
21.Ô kiều: cầu Ô\. Theo các sách Hoài Nam và Phong tục ký: Đêm
thất tịnh (đêm mồng bảy tháng bảy âm lịch) chim ô thước
(quạ và vẹt) sắp hàng làm cầu bắc qua sông Ngân cho vợ chồng
Ngâu gặp nhau\. Câu này nói: Nguyệt Nga chưa được gặp Vân Tiên mà
nhân duyên lỡ dở, cũng như vợ chồng Ngâu chưa được gặp nhau
trên sông Ngân, mà nhịp cầu Ô đã long mất, rơi mất rồi \.
22.Phù du: con vờ, một thứ trùng có cánh, hay bay trên mặt nước,
sống một thời gian rất ngắn\. nói đời ngước, sống một đời người ngắn ngủi .
23.Đồng tịch đồng sàng: cùng giường cùng chiếu, chỉ vợ chồng.
24.Cửa sổ ngư.a qua: nói đời người chóng qua như bóng ngư.a chạy qua cửa sổ
25.Dẫu thay mái tóc phải nhìn qua mối tơ: dẫu tóc bạc tuổi già cũng phải giữ lấy mối tợ
26.Cáo tạ: cũng như cáo từ, từ tạ với chủ nhân đạ xin về.
27.Dám chịu: dám nhận
28.Tre còn măng mất: nói cha già thì còn, con trẻ thì đã chết
29.Gia thần: người hầu hạ trong nhà quan.
30.Đèn sách ghi lòng: ký chú việc đèn sách .
31.Vùa hương: bình hương
32.Dương gian: khoảng có mặt trời chiếu tức cõi sống .
33.Âm cung: âm phủ, chỗ toàn bóng tối, tức cõi chết.
34 Thành thân: nên vợ nên chồng, nói: sống không lấy được
nhau, không biết chết xuống cõi âm có được thành vợ thành chồng không ?
35.Cưu mang: ôm ấp, bận bịu, lo ngạị
36.Loan phụng: hai chữ chim thường dùng để tượng trưng cho vợ chồng đôi lứa tốt đẹp
37.Gối chích: gối chếch (lệch)\. Nệm nghiêng gối chích: nói loan phụng phải rẽ nhau, tình cảm đổi xây đột ngột nệm gối như bị xô lộn mà nghiêng lệch đi\. Chữ Hán cũng dùng: khi trầm (gối nghiêng).
38.Sông Ngân: xem chú thích ở câu 245, 246.
39.Cầu Lam: chữ Hán Lam kiều, tức cầu trên ngòi Lam (Lam Khê)
ở huyện Lam-Điền tỉnh
Thiểm-Tây (Trung-quốc)\. Theo sách Thái-Bình
quảng ký\. Bùi Hàng đời Đường gặp bà tiên Vân Kiều cho bài thơ,
trong có chữ Lam Kiều, sau Hàng đến trạm Lam-kiều, khát nước, vào
xin một bà lão gần đấy, được Vân Anh, con gái bà đưa nước
ngọc dịch (thứ nước tiên) cho uống\. Hàng thấy Vân Tiên tuyệt
đẹp, muốn lấy, bà lão bảo: bà cần dùng cối ngọc và chầy
ngọc để gia (luyện) thuốc huyền sương (thứ thuốc tiên) nếu có
những thứ ấy làm sính lễ thì gả cho\. Hàng về tìm được cối
chầy ngọc đưa đến lại ở đấy giã thuốc tiên cho bà một trăm
ngày, rồi Hàng lấy Vân Anh và hai vợ chồng cùng thành tiên
(Truyện Kiều: "Chầy sương chưa nệm cầu Lam", sương
tức thuốc huyền sương .
40.Tiết: xem chú thích ở câu 6 và câu 164
41.Thái sư: chức quan to nhất triều đình
42.Xăng: xe chặt, gắn bó
43.Mai chước (mối chước): người làm mối trong việc lấy vợ, lấy chồng
44.Lễ nghi: các cuộc lễ có nghi thức chương trình, cũng có nghĩa là các lễ vật\. Đây là các lễ vật mà Thái sư đưa đến để
hỏi vợ cho con.
45.Ô-qua: Theo Gia định Thông chí thì ở miền Châu-Đốc Hà-Tiên trước kia thường có giặc Qua Oa ở ngoài
bể vào cướp phá\. Quân Miến-Điện xưa, còn gọi là Ô-đỗ cũng hay đe dọa
miền Hà-Tây, Châu-Đốc. Có thể là Nguyễn Đình Chiểu đã nhớ lại những giặc xâm lược này mà đặt tên nước Ô-qua chăng.
46.Binh nhung: binh sĩ, cũng có nghĩa là khí giới . Đây chỉ binh sĩ. Dấy loàn: làm loạn\. Nói nước Ô-qua đem quân quẫy nhiễu cõi biên.
47.Đồng-Quan: một cửa ải hiểm yếu ở biên giới Hán Hồ.
48.Lưỡng ban: hai ban văn võ\. Quân thần: bầy tôi trong một triều đình
49.Cừu: thù hằn
50.Khuynh thành: nghiêng thành\. Lý Diên Niên đời Hán có câu ca:
"Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc" (có
bản chép là "Nhất tiếu"\... "tái tiếu"...), nghĩa
là một cái nhìn làm nghiêng thành, hai cái nhìn làm nghiêng nước
(hay một cái cười\... hai cái cườị..), nói: cái nhìn (hay cái cười)
của người con gái đẹp khiến vua chúa phải say mê đến nỗi
mất thành mất nước\. Do đó, người ta thường dùng danh từ
"khuynh thành" "khuynh quốc" để chỉ những người
con gái có sắc đẹp .
51.Hào hoa: hào là khí phách khác người, hoa là văn vẻ tỏ dạng.
52.Châu phê: vua hạ bút son phê vào tờ chiếu chỉ (châu: son)
53.Cống Hồ: đem dâng cho nước Hồ (tức nước Hung-nô ở phía
Bắc Trung-quốc, người Trung-quốc thường gọi là nước Hồ)

Trở lại trang Thơ Lục Vân Tiên

free web counter

Thư Viện 1      4   5