Lục Vân Tiên -Nguyễn Đình Chiểu
Câu 600 -799
Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau
Thấy nhau khó nỗi giúp nhau
Một vừng mây bạc, dàu dàu khá thương
Vân Tiên cất gánh lên đường
Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng lụy sa\.
Đi vừa một dặm xa xa
Phút đâu ông quán bôn ba theo cùng
Quán rằng: Thương đấng anh hùng
Đưa ba hườn thuốc để phòng hộ thân
Chẳng may gặp lúc gian truân
Đương đi quá đói thuốc thần cũng no
Tiên rằng: Cúi đợi ơn trên
Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần
Ta \? \? cũng bâng khuâng
Thấy vầy nên mới tị trần đến đây
Non xanh nước bích vui vầy
Khi đêm rượu cúc, khi ngày trà lan
Dấn thân vào chốn an nhàn
Thoát vòng danh lợi, lánh đàng thị phi
Nói rồi quày quả ra đi
Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng
Trông chừng dặm cũ thẳng xông
Nghĩ đòi cơn lại não nùng đòi cơn
Nên hư chút phận chi sờn
Nhớ câu dưỡng dục, lo ơn sinh thành
Mang câu bất hiếu đã đành
Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con
Trọn đời một tấm lòng son
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi
Nào hay nước chảy hoa trôi
Nào hay phận bạc như vôi thế này
Một mình ngơ ngẩn đường mây
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương
Đến nay lâm việc mới tường
Hèn chi thày dạy khoa trường còn xa
Tiểu đồng thấy vậy thưa qua
Gẫm đây chi đến quê nhà còn lâu
Thầy sao chẳng ngớt cơn sầu
Mình đã đi mỏi, dòng châu thêm nhuần
E khi mang bệnh nửa chừng
Trong non khó liệu, giữa rừng khôn toan.
Tiên rằng: Khô héo lá gan
Ôi thôi con mắt đã mang lấy sầu
Mịt mù nào thấy chi đâu
Chân đi đã mỏi, mình đau như dần
Có thân phải khổ vì thân
Than ôi! Thân biết mấy lần chẳng maỵ
Đồng rằng: Trời đất có hay
Ra đi chưa đặng mấy ngày lại đau
Một mình nhắm trước xem sau
650.Xanh xanh bờ cõi, dàu dàu cỏ cây
Vốn không làng xóm chi đây
Xin lần tới đó tìm thấy thuốc thang.
Vừa may gặp khách qua đàng
Người người đều chỉ vào làng Đồng Văn
Dắt nhau khi ấy hỏi phăng
Gặp thầy làm thuốc hiệu rằng Thầy Ngang
Ngang rằng: Khá tạm nghỉ an
Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành
Gặp ta bệnh ấy ắt lành
Bạc tiền trong gói sẵn dàng bao nhiêủ
Đồng rằng: Tiền bạc chẳng nhiều:
Xin thầy nghĩ lượng đặng điều thuốc thang,
May mà bệnh ấy đặng an
Bạc còn hai lượng trao sang cho thày
Ngang rằng: Ta ở chốn này
Ba đời nối nghiệp làm thày vừa ba
Sách chi cũng đũ trong nhà
Nội kinh đã sẵn, ngoại khoa thêm mầu
Trước xem Y học làm đầu
Sau coi Thọ thế, thứ cầu Đông y
Gẫm trong Ngân hải tinh vi
Cùng là Cang Mục, thua gì Thanh Nang
Gẫm trong Tập nghiệm lương phang
Cùng là Ngư. toản trải đàng Hồi xuân
Vị chi sẵn đặt quân thân
Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan
Mạch thời đọc phú Lư san
Đặt vào tay bệnh đàng tử sinh.
Lục quân, tứ vật thanh danh
Thập toàn, bát vị, sẵn dành nội thương
Lại thông bát trận tân phương
Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang ngũ sài
Đồng rằng: Thầy thiệt có tài
Xin vào coi mạch luật bài thuốc chi\.
Ngang rằng: Lục bộ đều suy
Bộ quan bên tả, mạch đi phù hồng
Cứ trong Kinh lạc mà thông
Mạng môn tướng hỏa đã xông lên đầu
Tam tiêu, tích nguyệt đã lâu
Muốn cho giáng hỏa phải đầu tư âm
Huỳnh liên, Huỳnh bá, Huỳnh cầm
Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình
Ngoài thời cho điểm vạn linh
Trong thời cho uống hoàn tình mới xong
Khá trao hai lượng vàng ròng
Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang
Chẳng qua làm phúc cho chàng
Nào ai đòi cuộc, đòi đàn chi ai
Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài
Vội vàng mở gói, chẳng nài tiền trao
Mười ngày chẳng bớt chút nào
Thêm đau trong dạ như bào như xoi
Đồng rằng: Vào đó thầy coi
Bệnh thời không giảm thầy đòi tiền thêm\.
Ngang rằng: Nằm thấy khi đêm
Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao
Quỉ thần người ở trên cao
E khi đường sá lẽ nào biết đâu
Tiểu đồng ngươi khá qua cầu
Cùng ông thày bói ở đầu Tây Viên
Tiạu đồng nghe nói đi liền
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi
Bói rằng: Ta bói hẳn hoi
Bói hay đã dậy, ngươi coi đã đầy
Ta đây nào phải các thày
Bá vơ, bá vất, nói nhây không nhằm
Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm
Sáu mươi bốn quẻ, ba trăm dư hào
Huỳnh kim, Dã hạc sách cao
Lục nhâm, Lục giáp chỗ nào chẳng hay
Can chi đều ở trong tay
Đã thông trời đất, lại hay việc người
Đặt tiền quan mốt bốn mươi
Khay trầu, chén rượu cho tươi mới thành
Thày bèn gieo quẻ đặng linh
Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi
U+'ng vào rùa với cỏ thi
Rồi thày coi quẻ một khi mới tường
Đồng rằng: Người ở Đông phương
Nhân đi buôn bán giữa đường chẳng an.
Con nhà họ Lục là chàng
Tuổi vừa hai tám, còn đàng thơ ngâỵ
Bói rằng: Đinh Mão năm nay
Hàn chi Giáp tí ngày rầy chẳng an
Mạng kim lại ở cung càn
Tuổi này là tuổi giàu sang trên đời
Cầu tài quẻ ấy xa vời
Khen người khéo nói những lời phỉnh ta
Cầm tiền gieo xuống xem qua
Một giao, hai sách, lại ba Hào trùng
Trang thành là quẻ lục xung
Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn
Hóa ra làm kẻ du hồn
Lại thêm thế động khắc dồn hào quan
Cứ trông quẻ ấy mà bàn
Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình
Xui nên phát bịnh thình lình
Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng
Muốn cho bệnh ấy đặng yên
Phải tìm thày Pháp chữa chuyên ít ngày
Đồng rằng: Pháp ở đâu đây
Bói rằng: Cũng ở chốn này bước rạ
Pháp hay dậy tiếng đồn xa
Tên là Đạo sĩ ở Trà Hương thôn
Tiểu đồng mới chạy bôn bôn
Hỏi thăm đạo sĩ Hương thôn chốn nào
Chợ đông buôn bán lao xao
Người ta chỉ vào nhà ở chẳng xa,
Đồng đi một buổi tới nhà
Đạo sĩ xem thấy, lòng mà mừng thay
Đồng rằng: Nghe tiếng thày đây
Trừ ma, ếm quỉ, phép thày rất hay
Pháp rằng: ấn đã cao tay
Lại thêm phù chú xưa nay ai bì
Qua sông cá thấy xếp vi
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa
Pháp hay gió hú kêu mưa
Sai chim, khiến vượn, đuổi lừa, vật trâu
Pháp hay miệng niệm một câu
Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh
Phép hay sái đậu thành binh
Bện hình làm tướng phá thành Diêm Vương
Phép hay đạo hỏa phó thang
Ngồi gươm , đứng giáo khai đàng thiên hoang
Có ba lượng bạc trao sang
Đặng thày sắm sửa lập chữa cho
Đồng rằng: Tôi chẳng so đo
Khuyên thày ra sức chớ lo kho giàu
Bấy lâu thày tớ theo nhau
Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng
Chữa chuyên bệnh ấy đặng an
Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy
Pháp rằng: Về lấy sang đây
Cho thầy toan liệu lập đàn bày ra
Đồng rằng: Tôi đã lo xa
Cư.c vì người bệnh ở nhà chẳng yên
Xin thày gắng sức chịu phiền
Ra công bùa chú chữa chuyên cách nào,
Pháp rằng: Có khó chi sao
Người nằm ta chữa rồi trao phù về
Đồng rằng: Tôi vốn thằng hề
Bệnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?
Pháp rằng: Ta biết kinh quyền
Đau Nam chữa Bắc mà thuyên mới tài
Tiểu đồng nghe lọt vào tai
Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên
Pháp bàn cất tiếng hét lên
Mời ông Bàn cổ tọa tiền chứng miêng
Thỉnh ông Đại thánh Tề thiên

Chú thích:
1.Mây bạc: Định Nhân Kiệt đời Đường, khi đi làm quan xa,
thường hay nhớ cha mẹ, một hôm lên núi Thái-Hàng trông
về quê hương, thấy đám mây trắng bay lững lờ, ông bùi ngùi nói: "Nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây kia"\. Do đó, danh từ "mây bạc"\. Do đó,
danh từ "mây bạc" (mây trắng) được dùng để chỉ sư. mong nhớ cha mẹ.
3.Bôn ba: nghĩa chính: làn sóng chảy mạnh (chảy xiết); nghĩa bóng:
chạy đuổi theo vất vả làm một việc gì hoặc có cầu cạnh điều gì
4.Câu này: nói lòng này còn lo ngại, chưa biết việc biến đổi như thế nào .
5.Tị trần: tránh bụi, tức tránh cuộc đời huyên náo, xấu xạ
6.Thị phi: phải trái, lời khen chệ
7.Quầy quả: vội vã.
8.Dưỡng dục sinh thành: công cha mẹ sinh ra, nuôi lớn, dạy dỗ nên ngườị
9.Phận bạc: Phận mỏng\. Tiếng bạc ở đây không phải là trắng nhưng khi dùng
tiếng này thì liên tưởng đến bạc là trắng nên đem ví với vôi\.
Truyện Kiều: "Phận sao bạc như vôi".
10.Đường mây: con đường ở trên mây, tức đường công danh
(được lên địa vị cao, nên gọi là mây).
11.Lâm việc: tới khi vó việc (lâm là tới)
12.Thêm nhuần: ướt thêm\. Nói mình đã mỏi mệt mà lại thêm khóc mãị
13.Đã lấy mang sầu: nói mắt đã bị bệnh.
14.Đồng Văn: ở tỉnh Biên-Hòa, huyện Phước-Chánh xưa có cái chợ Đồng-Văn.
15.Đầu thang: cho uống thuốc.
16.Điều:
1)điều hòa: dùng thuốc thang được đúng mức đúng phép.
2) điều trị: dùng thuốc thang để chữa trị bệnh (điều trị bằng thuốc thang)\.
Hai nghĩa cùng được cả.
17.Nội kinh: một pho sách thuốc cổ nhất, dạy về nguyên lý căn
bản và phép châm cứu của Đông y .
18.Ngoại khoa: những sách thuốc dạy chữa các bệnh ở thân
thể bên ngoàị
19.Y học: tức Y học nhập môn, sách thuốc của Ly Duyên đời Minh, những người làm thuốc nước ta trước đây, thường bắt đầu đọc sách này trước.
20.Thọ Thế: Thọ Thế Bảo Nguyên, sách thuốc của Cung Đình
Hiển đời Minh.
21.Đông y: Đông y bảo giám, do Hứa Tuấn nước Triều Tiên thâu thái
những lý luận và phương pháp của các sách thuốc Trung quốc mà soạn ra .
22.Ngân hải tinh vi: tên một sách thuốc nói về chữa bệnh đau mắt của Tôn Tử Mạc đời Đường\. Ngân hải:
bể bạc, tức là con mắt.
23.Cang mục: tức Bản thảo cương mục của Lý Thì Trân đời Minh,
sách nói về tính chất các vị thuốc (dược tính) .
24.Thanh nang: túi xanh\. Hoa Đà đời Hán, có pho sách ghi chép những bí
quyết chữa bệnh, thường đư.ng trong túi xanh, nên gọi là Thanh nang,
nhưng sách này khi Hoa Đà bị Tào Tháo
giết, vợ Đà ở nhà tức giận, đã đem đốt đi mất.
25.Tập nghiệm lương phan: sách tập hợp lại những phương thuốc hay đã kinh nghiệm
26.Ngư. toản, Hồi xuân:
- Ngư. toản: tức sách Ngư. toản y tông kim giám đời Kiển long nhà Thanh,
do tòa Thái y viện phụng mệnh vua thâu thái các sách thuốc cổ kim
và sưu tầm các sách cùng phương thuốc bí
truyền của dân gian mà soạn nên (Ngư. toản: vua làm, sách này không phải vua làm, nhưng theo lối phong
kiến, để tên sách như thế, để tôn sùng và qui công cho vua).
- Hồi xuân: Vạn bệnh hồi xuân, sách thuốc của Cung Đình
Hiển đời Minh, cũng như Thọ thế bảo nguyên.
27.Vị: vị thuốc.
28.Quân thần: vua tôi\. Các vị thuốc theo tính chất và công dụng của nó, chia ra vị và vua, vị là tôi, vị là người giúp việc, vị là người liên lạc (quân,thần, tá, sứ),
một đơn thuốc cũng như một tập
thể, phải đủ thành phần mới có công dụng.
29.Nỏ nan (nang): nói thuốc khô, không ẩm ướt.
30.Lư san: bài phú Lư san nói về phép xem mạch (Lư san mạch phú).
31.Lục quân, tứ vật: hai bài thuốc căn bản để chữa khí và
huyết\. Thanh danh: tên bài thuốc.
32.Thập toàn, bát vị: hai bài thuốc bổ căn bản để chữa bệnh nội thương,
nghĩa là bổ tạng phủ suy yếụ
33.Bát trận tân phương: Trương Giới Tân hiệu Cảnh Nhạc, một danh y đời Minh,
có lập ra các phương thuốc mới, chia là tám loại đội ngũ, gọi là
"Tân phương bát trận" (tám trận phương mới)\. Chữ bát trận này có
nhắc lại "Bát trận đồ" của Khổng Minh\. Tác giả cho
việc dùng thuốc chữa bệnh cũng như dùng binh đánh giặc .
34.Ngoại cảm: mắc bệnh vì khí hậu thời tiết ở ngoài, như gió, mưa, nóng, lạnh,
ẩm thấp\. Lúc mới lâm bệnh, nên cho uống thang "ngũ sài" một thang thuốc
trong Tân phương bát trận có vị 'sát hồ" giải cảm.
35.Lục bộ: sáu bộ mạch\. Đông y nghe mạch ở chỗ cổ tay, chia bên trái và bên phải, mỗi bên có ba bộ "thốn", "quan", "xích", hai bên thành sáu bộ.
36.Bộ quan bên tả: có mạch gan, mật.
37.Phù hồng: mạch đi nổi và bốc lên.
38.Kinh lạc: các đường truyền dẫn khí huyết trong thân người,
đường dọc là kinh, đường ngang là lạc.
39.Mạng môn tướng hỏa: theo thuyết Đông y thời trước,
mạng môn là một điểm ở giữa hai quả thận, cấp dương khi (ôn độ) cho người cả.
40.Tam tiêu: thượng tiêu ở khoảng bụng trên, chủ về phổi, tim;
trung tiêu ở khoảng bụng giữa, chủ
về tì, vị; hạ tiêu ở khoảng bụng dưới, chủ về gan, thận\.
Thích nhiệt: chứa chất khí nóng.
41.Giáng hỏa: dẹp hỏa (khí nóng) xuống\. Tư âm: làm cho âm (như các chất nước,
huyết, tân dịch...) sinh ra nhiều\. Cổ phương có bài "tư âm giang hóa"
làm cho âm sinh nhiều để dẹp hỏa xuống.
42.Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm: ba vị thuốc mát để chữa nóng\.
Nói phải dùng gấp bội ba vị này để chữa nóng.
43.Vạn linh, hoàn tinh: hai phương thuốc chữa đau mắt: vạn linh để điểm vào mắt, hoàn tình để uống cho sáng mắt.
44.Đàn: đặt đàn cho thầy thuốc: chủ bệnh đưa trước một số
tiền, thầy thuốc cam đoan sẽ hoàn lại nếu không chữa lành\.
Đòi cuộc đòi đàn: đòi chủ bệnh phải đặt cuộc đàn với thầỵ
45.Thật tài: gốc chữ Hán, có nghĩa là thư.c tài, có tài thư.c sư..
46.Cầu: nhờ làm một việc gì đó\. Qua cầu: đến nhờ giúp việc.
47.Bói hay đã dậy: dậy là nổi tiếng.
48.Nói nhây: nói dai dẳng, nói dai như đỉa, như rẻ rách.
49.Ôn nhuần: xem đi xem lại cho thấm\. Châu Diệc: Chu Dịch đọc chệnh\.
Kinh dịch đời nhà Chu, sách
triết học rất cổ của Trung Quốc\. Sách có tám quẻ chính (bát quái), mỗi quẻ nguyên có ba hào (ba vạch), sau chồng lên thành sáu hào\. Tám quẻ có sáu hào này,
lại giao đổi với nhau, thành 64 quẻ, 384 hào\.
Thể hiện sư. biến chuyển của vũ trụ và xã hội loài ngườị
50.Huỳnh kim, Dã hạc: hai sách nói về thuật bói toán.
51.Lục nhâm, Lục giáp: hai môn thuật số bói toán\.
Lục nhâm có sách "Lục nhâm đại toàn" nói
về cách xem "nhâm"\. Lục giáp có sách "Kỳ môn độn giáp" nói về cách xem "độn".
52.Can, chi: can là thập can (mười can), tức: giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quí; chi là thập nhị chi (mười hai chi), tức: tí, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ,
mùi, thân, dậu, tuất, hợi\. Thập can là mười dấu hiệu thuộc về trời (thiên can) hợp với
thập nhị chi là mười dấu hiệu thuộc về đất (địa chi) để chỉ ngày giờ tháng năm\.
Ví dụ năm giáp tí, năm đầu tiên của can chi, rồi lại đến ất sửu\... cứ như
thế luân chuyển trong 60 năm lại quay trở lại\. Can chi còn phối hợp với "ngũ hành": thủy, hỏa, thổ, mộc, kim, theo tính chất của nó\. Đây nói: trong tay nắm vững qui luật can chi, tính toán được ngày giờ và ngũ hành sinh khắc, nên việc trời đất,
việc người đều tỏ cả.
53.Chiêm: bói xem.
54.Lộ trình: khoảng đường đi; trong lúc đi đường.
55.Rùa, thi: mai rùa và cỏ thi, hai thứ dùng để bói toán.
56.Đinh Mão: năm vận hạn của Vân Tiên, gặp ngày Giáp tý là ngày
xung nên mắc bệnh (nguyên tắc về bói toán ) .
57.Mạng kim: bản mệnh thuộc kim (vàng), một trong ngũ hành\. Cung càn
(kiền, cung thuộc quẻ (kiền, khảm, cấn, chấn, tốn, li, khôn, đoái), thuộc
về kim\. Mệnh kim ở cung là đắc địa (ở được chỗ hay), nên số sẽ giàu sang.
58.Cầu tài quẻ ấy xa vời: nói quẻ này không phải ứng vào người đi buôn bán
(cầu tài).
59.Phỉnh : lừa dối\. (theo nghĩa miền Nam)
60.Giao, sách, trùng: cách bói Dã-bạc (bói Dịch), cầm ba đồng
tiền gieo xuống cái đĩa, một đồng sấp là "sách", ba đồng sấp là "trùng", ba đồng cùng ngửa là "giao"\. Mỗi lần gieo
tiền sấp ngửa như thế, ghi làm một hào, gieo đủ sáu lần là sáu hào thành một quẻ, sẽ theo tính chất mỗi hào trong một quẻ mà đoán sư. việc\. Quẻ bói ở đây, lần thứ nhất gieo được hào giao (ba ngửa), lần thứ hai hào sách, lần thứ ba hào trùng...
61.Trang: sắp đặt ra, trình bày ra\. "Trang quẻ, trang lá số": trình bày nội dung cái quẻ, lá số.
62.Lục xung: sáu hào trong quẻ bói đều xung khắc với nhaụ
63.Phụ mẫu, tử tôn: theo sách bói Dã-hạc: sáu hào trong quẻ bói, mỗi hào chủ
về một sư. việc, nên có nhưng tên hào: phụ mẫu (cha mẹ),
huynh đệ (anh em), thê tài (vợ và
tiền của-gọi tắt là hào "tài"), tử tôn (con cái), quan quỉ (quan sư. và quỉ thần-gọi tắt là hào "quan"), trong đó lại có một hào đại
biểu cho bản thân gọi là "thế", một hào đại biểu cho người hay việc bên ngoài trư.c
tiếp quan hệ đến bản thân gọi là "ứng"\. Những hào này, theo ngũ hành, có tính chất tương sinh hay tương khắc nhau\. ở đây, hào phụ mẫu khắc hào tử tôn,
ứng vào việc cha mẹ gặp nạn mà con cháu đau thương.
64.Du hồn: tên quẻ bói (hồn đi chơi vẩn vơ).
Quẻ bói hóa ra quẻ du hồn,
chỉ việc Vân Tiên bị long đong bệnh hoạn nơi đường xa đất khách.
65.Thế động: hào"thế" tức hào bản thân bị xung động\. Hào quan: tức hào "quan quỉ" gọi tắt, quan chỉ chung những sư. việc: thi cử, công danh, văn thư, kiện tụng\.
Thế động khắc hào quan, chỉ cuộc đời của mình bị biến chuyển mà công danh trắc trở.
66.Mẫu tang: tang mẹ.
67.Thày pháp: pháp sư, thày phù thủỵ
68.Bôn bôn: bon bon.
69.ấn: phù phép của thày pháp để bắt ma, trừ tà.
70.Phù chú: lá bùa và câu chú.
71.Hồ linh: bầu thiêng liêng.
72.Sái đậu thành binh: rảy hạt đậu thành binh lính đi đánh trận được
73.Diêm vương: vua ở âm phủ\. Hai câu này nói: sai được âm binh bằng đậu,
bằng rơm xuống phá thành vua âm phủ.
74.Đạo hỏa phó thang: Dẫm chân lên lửa cháy, dấn mình vào nước sôị
75.Ngồi gươm, đứng giáo: ngồi trên gươm, đứng trên giáo\.
Khai đàng thiên hoang: mở lối đi ở cõi trời xa vắng chưa có ai tớị
76.So đo: có nghĩa là suy hơn tính thiệt.
77.Hề: người theo hầu, như nói "hề đồng": chú bé theo hầụ
78.Kinh quyền: hành sư. theo lẽ thường là kính, theo lẽ biến là
quyền\. Hai chữ này thường dùng chung là một danh từ để chỉ sư. hành động
biết tùy thời, không cố chấp câu nệ.
79.Thuyên: bớt đau, khỏi bệnh.
81.Bàn cổ: theo truyền thuyết Trung-quốc\.
Tọa niền chứng miêng (minh): chứng tỏ trước bàn thờ
82.Đại thánh Tề thiên: tức Tôn Ngộ Không, một nhân vật chính trong chuyện Tây
Du Ký\. Ngộ Không nguyên là một con khỉ đá tinh quái, đi cầu tiên
học đạo, có nhiều phép lạ, từng xuống thủy cung yêu sách
Long vương, và xuống âm cung xóa sổ Diêm vương, Trời vời lên làm
Bật Mã Ôn (chức coi ngư.a nhà Trời), Ngộ Không bất mãn, làm náo
động thiên cung rồi bỏ về, mấy tướng nhà Trời xuống bắt,
đều bị Ngộ Không đánh bại, Trời phải phong y là Tề thiên đại
thánh (thánh to bằng trời)\. Sau Ngộ Không qui Phật, theo Đường
Tam Tạng sang Tây trúc lấy kinh\. Nhân vật Tề thiên đại thánh ngày
này được coi tượng trưng cho sức mạnh vô địch của nhân dân.

Trở lại trang Thơ Lục Vân Tiên

free web counter

Thư Viện 1      4   5