Di Đà Diệu Pháp 

       CHƯƠNG VII
       DI GIỮ CHẶT BỀN BA BÁU LINH

       Người chân tu phải hiểu rõ việc làm chính yếu của mình, giữ gìn tam bửu “Tinh khí thần” không để cho hao hụt mất mát và cố lo tô bồi, gầy dựng thêm cho đủ đầy khang kiện. Công phu thiết thực nầy đạt được mới “Tu hành đúng nghĩa, còn bằng ngược lại tự mình phá hoại giết hại mầm sinh, hao huyết Phật, mất máu Chúa, tiêu tan quý bửu”. Mang tiếng “tu” nhưng thực sự không có tu gì cả, bởi vì gầy dựng cũng không, tô bồi chẳng có. Họ tốn công phí sức cực thân, mất hết thời gian rốt rồi như công dã tràng. Bởi hành pháp đi sai đàng lạc lối, “Tu hành làm mất đạo” tạo dựng vô minh - Thật vô phước và bất hạnh thay!
       Ta phải rõ nguyên nhân gây ra hậu quả để kịp thời ngăn chận, không để mất báu vật Phật ban để làm lẽ sống, tạo dựng “Hạnh phúc chân thật” của mình. Từ đó ta ra công nỗ lực thực hành đời sống trường tồn vĩnh cửu, cố lo tô bồi đắp xây, giữ gìn “tam bửu”, một việc làm chính yếu công phu tu luyện của người giác ngộ biết tự độ và bảo đạo hộ pháp cho mình “Kho báu linh đó” biến chúng nó thành “Pháp bữu hữu hiệu” không tan biến theo thời gian, hằng hữu, hằng thường, trở thành vật bất ly thân, thật một việc làm khó khăn! Vì vậy người tu phải luôn luôn cảnh giác, gìn trong rồi lại giữ ngoài “gầy dựng bảo vệ,” nhiệm vụ thiết yếu làm chủ trọn vẹn kho tàng báu vật không để “Thần hao - khí tán - tinh lậu”.
       Tất cả đều do đâu? Có được sự thành quả ấy cũng là nhờ vào giáp sắt tường đồng, Đạo y kiên cố, bảo vệ cà sa của Phật. Áo lễ của Chúa được khoác vào không còn lo sợ, chẳng e ngại ngoại lực tha nhân xâm nhập và cưỡng đọat của báu.
       Với chân truyền bí pháp có “Bát báu” nuôi thân, “y vô vi” che chở, đủ y, đủ bát, thực hiện việc gầy dựng tô bồi, càng ngày đời sống tâm linh thêm tinh minh rạng rỡ. Điều này khác với y bát hữu hình của kẻ khất thực thế gian, thân xác no lòng, nhưng chân thân hao mòn làm cho Như Lai của mình ốm đói. Bởi họ tu theo “Sắc tướng âm thinh” tướng hão quang minh, hạnh đức bên ngoài chỉ tu áo đắp y, chứ không biết tu tâm dưỡng tánh. Nhưng sinh nhân nào giác ngộ biết rõ lý đạo ẩn tàng ở nơi hình tướng, hồi hướng vô vi mật pháp, áp dụng cho sự hành đạo của mình đem đến lợi ích thiết thực cho việc tu thân.
       Vậy người tu phải có “đạo y” “Pháp y” để che chở giữ gìn phật thân, ngôi tam bảo của mình. Ba báu linh “Tinh khí thần” kết thành vóc Phật.
       Tự ta phải thực hành,
       Quy y phật Thần thành “ngươn thần”,
       Quy y pháp Khí thành “ngươn khí”,
       Quy y tăng Tinh thành “ngươn tinh”,
       Ngươn thần, ngươn khí với ngươn tinh,
       Ráp lại lâu lâu nó tượng hình,
       Phá cửa linh đài vào bái Phật.
       Ngũ hành hiệp nhứt rất mầu linh.
       Người hành pháp công phu gom góp tam bửu trở về nguồn cội ban đầu. Tinh khí thần hiệp nhứt “Quy tam bửu” kết thành thánh thể, tự Ta tạo Phật, tác Tiên, nên Thánh đều do ta thực hành đúng chơn truyền. Y bí pháp không ngoài Tiểu vũ trụ nầy, một kho tàng bảo vật, vạn bửu nang của Phật ban cho. “Vườn nho” của Chúa dành sẵn, đủ đầy phương tiện giúp ta thực hiện đường lối tiến tu, phản hồi cựu vi, trở về nguyên bản.
       Phàm nhân sống theo ngoại cảnh, tâm phan duyên không ổn định, thần trí nương theo các cửa đi ra hồng trần theo ngõ rộng rơi nơi khổ hải, ái hà, trầm mình trong ao tù dâm dục. “Con đường đi ra” là “Sa và đọa” khiến cho thần hao, càng ngày càng kiệt quệ mất sáng “Tự lự chi thần”.
       Mắt thấy sắc cái đẹp cái xinh quyến rũ,
       Tai nghe thinh lời ngon tiếng ngọt mến ưa,
       Mũi ngửi mùi hương, thơm tho kích thích,
       Lưỡi nếm vị đời ham muốn,
       Thân dựa kề da mát thịt mềm.
       Ôi! biết bao nhiều điều hấp dẫn lôi cuốn khiến con người mất hết tự chủ phóng ngoại thế trần, càng ham muốn càng đau khổ, chất chồng thêm mãi. “Hô hấp chi khí” cái thở của phàm phu, ra vô nơi miệng mũi, ngọn gió thổi vào lửa dục bừng cháy, tham, sâm, si nổi dậy nung nấu tâm can. Họ không phương dập tắt hoặc chế ngự được “tà thần”, hỏa diệm sơn thiêu đốt chân thân, mất đi sự sống, người đời phải đầu hàng xuôi tay đón nhận sự diệt vong, cứ lao mình vào biển lửa. Lửa dục, lửa tình vô minh hành sử dâm tình kích động để thỏa mãn sự thèm khát. “Dâm thủy” sinh ra “chất nước phàm phu.” “Giao cảm chi tinh” hạt giống chúng sanh thành hình sẵn sàng để gieo vào mảnh đất tình làm đổ tháo, tiêu hao. Ngọn đèn bị lũng đáy, chảy hết dầu “Tinh khí thần” kiệt quệ. Hành động đó là tự giết mình không hay biết, lại cứ lo tận hưởng dục lạc ái ân. Đóng đinh Chúa trên thập tự giá, âm dương hòa hợp theo tà pháp làm đổ huyết báu mắc tội tà dâm, đồng tình với lũ quỷ ma.
       Vì vậy người tu công phu như thế nào để giữ bền báu linh - không hụt chẳng hao, lại càng tăng trưởng dồi dào, Tinh đầy Khí đủ. Thần quang tỏ rạng, muốn thế phải đổi hướng thay chiều, đối nghịch lại. Không phóng ngoại quay về nội tâm, đi vào ngõ hẹp hữu vi-hữu tướng, hồi tướng vô tướng vô vi, gom về là “Quy và hiệp” các cửa không còn bỏ ngỏ, mở rộng nữa. Cũng chẳng phải đóng kín mà nay lại được khép lại theo chiều hướng về bên trong, đúng “tâm pháp bí truyền” mắt nhìn vào trong, tai nghe vào trong, lưỡi nếm vào trong, thở chơn tức - tứ tổ quy gia. Bốn phương quy hợp một nhà cũng là “Tứ Thiên Vương” dâng bốn bát báu để Phật làm thành một bát duy nhất đựng thức ăn của Như Lai - cung phụng cho Tam bảo “Tinh khí thần của mình”. Đây là tô bồi chân thân, phục hoàn thánh thể.
       Bởi - Đi ra là đọa lạc.
       Trở về là siêu thăng.
       Chơn thần, nương Chơn khí, dẫn đến gặp Chơn tinh. Lửa thiêu đáy chảo. Nước sôi động không còn trạng thái nguội lạnh - Thuần âm. Cái chất nước ấy nay nóng đúng độ, bốc hơi bay bổng biến thành “Chơn khí dương tinh”, dầu được bơm lên “Măng sông” đủ sức gặp lửa cháy bừng.
       Ngọn đèn tâm linh của mình nay được phục hoàn cháy sáng, cái thể vóc tinh anh ấy phải giữ gìn không để cho hao hụt, càng ngày càng sung thiệm tràn đầy sức sống gọi là “Phục đạo” từ chỗ chết trở về cảnh sống. Người tu phải thực hiện cho bằng được cái công phu chính yếu nầy mới khỏi hao công phí sức vô ích và hành đúng nghĩa của chữ tu, thoát cảnh tối tăm mê muội.
       Chính Chúa cũng khẳng định trong khi dạy đạo, tỏ rõ máy linh, công việc phải thực hiện đối với người chân tu giải thoát.
“Quả thật quả thật - Ai ăn thịt Ta và uống huyết Ta mới vào nước thiên đường”
       Đây là chân lý hoàn toàn, vạn cổ bất dịch không thay đổi bởi pháp ý của Ngài chỉ rõ máy linh, điều kiện tất yếu để tạo tác ánh sáng, phục hoàn chân thân không còn bị thối chuyển lu mờ. Ở điểm nầy người nào chấp vào văn tự khó nhận ra diệu ý rồi nghi ngờ chỗ tối mật bí yếu của Đạo pháp, nên họ không lãnh hội được gì cả và lại nặng mang lắm điều nghi vấn trong lòng.
        “Thịt Chúa” đâu mà ăn? “Huyết Chúa” đâu mà uống? Như vậy họ đành cam đọa lạc sống trong cảnh địa ngục tối tăm mãi sao? Nhất là Chúa đã sống cách đây gần 2000 năm làm sao gặp Ngài để chia thịt, lấy huyết. Thật khó hiểu đối với họ!
       Những người hành tâm pháp rõ thấu máy linh nơi mình. Thịt Chúa là lửa. Huyết Chúa là dầu. Ngọn đèn tâm linh, có lửa có dầu bừng cháy sáng, không bao giờ tắt - “Sáng tỏ muôn trùng” có cuộc sống đời đời là như thế ấy! Chính ngọn lửa thiêng đó phá tan đen tối, cảnh giới quang minh hiện ra. “Sáng là thiên đàng, Tối là địa ngục.” Ngọn đèn lòng đủ đầy huệ lực chiếu minh rạng rỡ tinh thần vững mạnh sung thiệm. Lời Chúa ta phải thực hành cho bằng được, mới tham dự Thiên đàng tâm, tận hưởng Cực lạc quốc của chính mình.
       Khi phó truyền “Y-bát” cho Lục-tổ Huệ-năng Ngũ tổ “Huỳnh Mai” kệ rằng:
       Hữu tình lai hạ chủng,
       Nhơn địa quả hườn sanh,
       Vô tình diệt vô chủng,
       Vô tánh diệt vô sanh.
       Đây là đoạn kệ quan trọng nhất đủ đầy lẽ tất yếu. Chỉ vỏn vẹn có bấy nhiêu đó, Huệ Năng hành đúng chơn truyền trở thành vị tổ thứ sáu sau khi thông đạt pháp ý vi diệu ẩn tàng do thầy chỉ dạy, Ngài ra sức hành trau. Tự tu, tự luyện, tự chứng đắc. Biết rõ việc làm đi ngay vào nguồn cội trong tâm nội. Lấy vô vi làm nền tảng căn bản để hiểu đạo và hành đạo. Ngài quả quyết đừng nên phóng ngoại kiếm tìm đạo, khác nào mong cầu lông rùa, sừng thỏ, không bao giờ có. Hãy trở về với ta, tìm đường lối trong ta. Tất cả sẵn có nơi tiểu vũ trụ nầy. Muốn tu đúng đường, hành đúng lối. Ta nên noi gương Lục Tổ. Từ không ra có. Cái có đó mới chân thật, ngu dốt nhưng không ngu dốt gì cả, đúng đạo lý vô vi, không bám trụ ở một vị trí nào. Hữu lẫn vô trên một vòng pháp luân, thiên cơ vận chuyển nên rất linh hoạt.
       Ta hãy tìm đạo nơi lòng, hành cho đúng lẽ vô vi tâm truyền “Bí pháp” Đạo thị hiện.
       Phật tiên thần thánh trong hình phàm phu Từ phàm nên Thánh, chúng sanh thành Phật, biến khổ đau phiền não thành ra an vui phúc huệ, giải thoát trong một kiếp vi nhân này.
       Có tình: Tự ta gầy dựng một cuộc gặp gỡ giữa “âm dương” liên kết chúng nó lại trong ta, cuộc hội ngộ giao hòa nầy gọi là Tình Đạo. Tiên Đồng-Ngọc Nữ yến ẩm với nhau say sưa nồng thắm. Đây cũng là đám cưới của Chúa gọi là âm dương hòa hiệp, theo chánh pháp chơn dương chơn âm hiệp nhứt.
       Chính người hành pháp trau đạo phải thực hiện cho được sự liên kết đó. Bắt nhịp cầu thông hiệp - có gạch nối liền đó là làm nên đại sự, gây giống Thánh, cấy Bồ Đề Chủng, biến hạt giống chúng sinh trở thành hạt giống thánh, gieo vào miếng tâm điền, đất lòng của ta “Thánh thai kết tụ, vóc thánh thành hình, đúng theo chơn cơ tạo hóa sẽ sinh con Trời, đẻ con Tiên, hiện Phật tử”. Rồi ngày qua đêm lại bánh phép chuyển xoay lớn dần theo năm tháng. Người tu phải thường xuyên theo dõi và biết cách dưỡng nuôi Nó.
       Để lý giải chỗ tối mật bí yếu của máy linh “tạo hóa chi cơ”, mượn chỗ dễ thấy biết để tỏ rõ chỗ chưa thấy biết, giúp cho người tầm tu dễ cảm nhận. Nhất là đừng nên thần thánh hóa sự việc rồi đi vào mê tín dị đoan, xa rời trung đạo.
       Ta ra sức thực hành công phu gầy dựng lửa, tạo hỏa công, lửa điện trong ta. Khối chơn dương thần hỏa, chính nó là động lực xây bánh phép, chuyển pháp luân làm máy chạy. Trước thì nước lửa cách xa, âm dương chia lìa, lửa dầu không gặp, một cặp âm dương, đôi ngả đôi đường. Thiên đàng địa ngục cách xa ngàn trùng - Lửa ở trên đầu, Dầu ở dưới bụng, cứ tuôn chảy mãi, bởi lẽ thượng hạ bất thông, chồng vợ chia lìa sống trong cảnh cô đơn.
Trong Tây du truyện, nói mắc phải bịnh “song điểu thất quần” hai chim trống mái lạc bầy âu sầu thảm thiết - Làm sao hòa, thế nào hiệp đây, để vui vầy cộng lạc? Thật là thiên nan vạn nan, đối với phàm nhân không thể thực hiện được.
       Những người hành pháp đúng chơn truyền có được “chìa khóa duy nhất” chiếc cầu thông hiệp - nhứt khí tiên thiên - “Kim-Chảo” làm môi giới giữa nước-lửa, tinh thần, nay biết dùng lửa thiêu đáy chảo, nước nóng sôi động, bay bổng. Nước có độ ấm nóng, nước lửa giao hòa, “Tinh thần giao hợp” - không còn lạnh lẽo cô đơn. Khi đến lúc bốc hơi gặp lửa điện biến thành ánh sáng. “Tinh quy thần” hạt giống chúng sanh nay trở thành hạt giống thánh, bồ đề chơn chủng và được gieo trồng đúng cách, chăm sóc chu đáo phát triển tốt tươi rồi sinh hoa kết quả, khổ cực gieo trồng đến hồi gặt quả “Chơn công quả”. Quả bồ đề của người trau đạo cái sáng được tô bồi trọn vóc nguyên hình - trước sau gì cũng có. Ta không nên làm trái tự nhiên sai máy tạo, không hợp với chơn cơ. Vì muốn mau thành chóng đạt, tất nhiên lãnh lấy thất bại hư hoại gọi là “Sẩy thai” người hành pháp không được thái quá hoặc bất cập chẳng đúng lẽ trung dung của đạo pháp.
Còn đối với người tu không trúng chơn truyền, chẳng có được “y bát” báu, không sao kết hợp âm dương, nào có đạo tình chan chứa “Vô tình đạo” tinh thần riêng rẽ, lửa dầu không gặp, đèn không cháy, máy không chạy, chết nằm một chỗ, dù muôn đời cũng không có kết quả gì. Cô âm bất sanh, độc dương bất trưởng. Ở trường hợp nầy trong tư tưởng “Lão Trang có đề cập tới” lũ gà mái không chịu trống cũng đẻ trứng, cứ ấp ủ mãi, chẳng sanh nở gì cả, chỉ làm mồi cho bợm nhậu chè chén say sưa. Do đó nếu không gây được sự liên kết âm dương của chính mình để tạo ra ánh sáng, việc tu hành sẽ không có kết quả.
        “Không tánh cũng không sanh” càng tu càng hao hụt, mất mát tiêu tan-sự sống chẳng còn, Chúa dạy rõ: “Ai có ta cho thêm, ai không có ta lấy cái có của nó” như thế tu hành mù quáng, đã từ bỏ đời, mến đạo, nhưng rồi tự họ xa đạo và mất đạo, tốn công phí sức, cực thân, nhưng chẳng sanh ánh sáng trí huệ chi cả. Đèn lòng của họ cạn dầu, nhiên liệu hết, leo lét sắp tắt báo hiệu cảnh nguy vong trước mắt. Dù biết rõ như thế nhưng họ đành bó tay, bởi họ không có một phương cách nào phục hoàn, tái sinh lại được phần quang minh ấy “đèn tắt lửa” vô minh ngập tràn.
       Để giải rõ hơn phàm nhơn hoặc người tu không đúng chơn pháp do cơ đọa lạc “thần khí tinh” thuận chiều đi xuống, trút nước đổ tháo, càng sanh càng hao hụt, cái dòng suối ấy lâu ngày khô cạn, lại thêm lửa lò thiêu đốt. Lửa dục, lửa tình nung nấu “tam bửu” trở thành tam độc giết hại mầm sinh, hủy diệt sự sống làm mất đạo.
       Nếu họ đang chới với may duyên gặp chân truyền, ngộ phùng chánh pháp khác nào người sắp chết đuối giữa biển khơi vớ được chiếc phao, nương đó để vào bờ, nhưng phải tận lực, gắng sức lái vượt biển.
       Người tu nhờ có bí pháp chân truyền luyện trau, hiệp âm dương, xây bánh pháp, đúng theo chơn cơ tạo hóa để sanh thành trí huệ. Bộ ba “tinh khí thần” quy kết. Tam huê tụ đảnh ứng dụng đúng phép “Di lư hoán đảnh” thay lò đổi chảo.
       Trước lò thần nước tinh
       Chảo khí nay lò khí
       Nước tinh chảo thần
       Ta đem chơn hỏa “thần” gầy dựng được thiêu đáy “chảo kim” khí. Tinh: nước sôi động mất ngay tánh chất thuần âm lạnh lẽo của tinh giao cảm trở nên đầm ấm độ nóng tăng dần. Nước bốc hơi chơn khí dương tinh nhẹ nhàng bay bổng, siêu thăng thượng giới trên đỉnh đầu. Chỗ non tiên núi thánh gọi là Tu Di, Hy Mã lạp sơn, Si Nai... v.v... sẽ gặp Phật chúa. “Khối lửa điện” hơi dầu lên “Măng sông” có lửa bừng sáng, hào quang rực rỡ, biểu tượng hai con thần long đâu đầu sanh trái châu ở giữa lưỡng long tranh châu - “Long hoa”, hiển hiện pháp thân. “Chúa hóa hình trong kinh thánh”. Hình ảnh Chúa Phật có vầng hào quang trên đầu - ngọn đèn trời chiếu minh rạng rỡ.

Trở lại trang chánh

 Thư Viện 1      4   5