Di Đà Diệu Pháp 

       CHƯƠNG VI
       GỒM NHÂM THỦY AN NƠI THẬN.

       Con người ai cũng vậy đến tuổi trưởng thành tế bào sinh dục phát triển, sanh sanh hóa hóa, nặng nề trọng trược, chất nước sinh dục được tạo ra nơi hạ bộ gọi là “Tinh” càng có nhiều càng dồi dào sức sống, kích thích dục tình, đòi hỏi dục lạc, thú tính hoành hành mạnh bạo, ham muốn “Nam nữ “ ái ân giao hợp, ăn uống phải chén của ma quỷ, thỏa mãn sự thèm khát. Nhưng lại càng khát khao thêm nữa. Thế nên bao nhiêu chất nước quý báu ấy, họ đều đem ra phung phí vui say dục lạc. Hạt giống chúng sanh của cha gieo vào lòng đất mẹ kết tụ phàm thai đúng ngày sinh ra phàm tử.
       Cái nhân quả nầy cứ lưu truyền mãi nơi thế gian do si mê nhân dục.
       Ngoài ra phàm nhân hay tục tăng dù không ân ái, chẳng giao hợp nam nữ, cứ để như thế chất nước từ trên nguồn tuôn xuống dư thừa, bị tức nước vỡ bờ, tràn trề đổ tháo, mặc dầu không tiêu xài, rồi cũng mất hết khác nào như công dã tràng, bởi vì họ không có một phương cách nào giữ gìn nó được.
       Từ chỗ “Tư lự chi thần” tâm thần xao xuyến thấy bóng sắc mến ưa - giữa nam nữ gần gũi với nhau, lòng dục phát khởi, tâm khí dấy động, lại bị hô hấp chi khí âm phong thổi tới, mây mù bao phủ, mây biến thành mưa. Chất nước sinh dục tạo ra là “Giao cảm chi tinh” hay Tà tinh giao cảm, kích thích dữ dội, thú tánh biểu lộ. Hành động ái ân, nam nữ giao hợp, kết quả sinh ra con đời. Chúa gọi họ mắc phải tội tà dâm, càng ngày càng làm đổ “huyết báu” trên cây thập tự. Âm dương hòa hiệp theo phàm pháp - ánh sáng tiêu tan. Tự giết Chúa mình hủy hoại Phật thân, lại không hay biết, ... thế mà nhân sinh lại vui thích, say sưa với dục tình đến nỗi không bao giờ thỏa mãn sự đòi hỏi đó, nên họ đau khổ triền miên, trầm mình trong ao tù nhân dục. Họ thích như thế, và luôn miệng chúc nhau đắc thành sở nguyện, hưởng lạc thú “hạnh phúc ở đời”.
       Người chân tu hiểu rõ nguồn gốc nguyên nhân tác động do tâm, nhờ vào bí pháp, thực hành công phu, dứt ái ân nam nữ, giữ đại giới “tuyệt dục” để dành dầu đốt đèn, tâm đăng của chính mình, trở nên sáng tỏ, rạng rỡ, khi đó tinh không còn đổ tháo hao hớt nữa. Chất nước ấy được đun nóng đúng cách đủ độ bốc hơi nghịch chuyển về nguồn. “Nước ngược” gọi là Cất rượu tiên, tạo ra rượu thánh “huỳnh tương tiên tửu” uống vào sẽ đoạn dứt dâm căn, không còn khát khao nhơn dục, nhờ cái nguồn mạch, dòng nước này dẫn đền sự sống đời đời. “Tinh quy thần” đời sống Tinh Thần minh bạch thiện lành, bởi họ biết chỗ dụng đúng, trúng chơn cơ. Hữu hườn vô, đọa thành siêu, càng hành càng dồi dào sung thiệm, thần quang tỏ rạng, tâm đăng chiếu diệu. Cũng như tượng thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, tay cầm Tịnh bình đựng nước Nam Hải, đây là chất nước hồi sinh đem đến sự sống, Nam thuộc hỏa, nước có sức nóng “Dương liễu thủy” người tu phải luyện có nước “cam lồ” nầy.
       Giờ đây ta đã rõ “Tam bửu” “Tinh khí thần” nơi mình vô cùng quý báu và phải có bổn phận giữ gìn cái gia sản đó, không để cho hao hụt mất mát, càng ngày càng phát triển khang kiện thêm lên. Nếu trước vì mê muội không biết bảo trì phung phí tiêu hao, nay tỉnh ngộ, lo gầy dựng tích trữ phục hoàn đầy đủ trở lại, hành động nầy là “Tu” tô bồi chỗ khuyết, sửa chữa chỗ hư, tạo Phật tác Tiên không ngoài “Cái sẵn có nơi mình - tiểu vũ trụ của ta”.
       Đó là ta biết phục đạo và bảo Đạo cho mình, cố sức thực hành công phu chính chắn, gieo nhân rồi đến hồi gặt quả là chơn công quả. Nhiệm vụ cung phụng Phật thân, dựng gầy đạo quả. Đường hướng tu thân đích thực lo cho đời sống trường tồn của mình đúng theo yêu cầu đắc thành sở nguyện, tất cả đều do ta đảm nhiệm và thực hiện.

Trở lại trang chánh

 Thư Viện 1      4   5