BÚT TÍCH: BÀ MINH HỒNG – NHƯ Ý NƯƠNG NƯƠNG
Ngày 25, tháng 02, năm Canh Tý

Bút đề bia tạc đôi hồi,
Giúp vui hậu tấn rảnh ngồi xem chơi.
Nhắc tích củ, lúc luân vơi,
Con côi, Mẹ góa, thế đời linh đinh.
Trao thân cùng ông Tư Huỳnh,
Cùi thơm, cùi mít đồng tình tạo nên.
Lập hãng, nhà lầu tấn lên,
Tàu, xe, phố, ruộng, tuổi tên đàng hoàng.
Thong thả, vàng cân, hột xoàn,
Món ngon vật lạ bỉ bàng xuê xang.
Trước khổ mới vừa thân an,
Bính Dần Đạo mở Cần Giang nhà Huỳnh.
CAO ĐÀI TAM THANH CHIẾU MINH,
Vợ chồng công quả đồng tình cùng nhau.
Tập rèn thủ phận tương chao,
Bồi công bố thí tốn hao vui đành.
Yù muốn phủi trần tu hành,
Họa mai thoát tục siêu sanh đặng mà.
Xin chồng cắt ái ly gia,
Chàng đành như ý mới là thiện căn.
Mục bất kiến, nhỉ tàng văn,
Cần Thơ tách dậm chỉ băng để vời.
Sài Gòn rày đã đến nơi,
Tầm sư học Đạo, hiện thời ông NGÔ.
Khẩn cầu Đạo pháp nam mô,
Người rằng từ chối đuổi xô cực kỳ.
Muốn tu nên phải chịu lỳ,

Nghỉ mình giàu có phải chi bần cùng.
Nở đành xô đuổi lung tung,
Thôi đành trở lại gia trung hưởng nhàn.
Canh chầy thổn thức nào an,
Tính toan, toan tính lưỡng nan đôi đàng.
Gác tay lên trán luần bàn,
Đạo, Đời lui tới, trí toan đấy chừ.
Rằng câu “ác giả Ngô Sư”,
“Ngã từng chánh giáo vô tư phú hào”
Phước nhờ hối ngộ lẹ mau,
Khẩn cầu đức cả Đạo cho tu hiền.
Tháng tám Đinh Mão lập nguyền,
Minh Hồng thọ giáo khẩu truyền NGÔ SƯ.
Ba năm tám tháng đấy chừ,
Kế qua canh ngũ Mẫu từ qui tây.
Bá Nhựt lạy mẹ ở đây,
Bạch THẦY: “lên núi phước mây tánh hiền”.
Lời THẦY: “chữ hiếu trò phải cần chuyên,
Lo tròn Nhơn Đạo, Đạo Tiên mới mầu.
“Vô nam dụng nữ có câu,
Đạo Dời trọn vẹn mới hầu tu chơn.
Mãn tang tự trò du sơn,
Cất am ở tại, đáp ơn giữ mồ”.
Vưng lời châu ngọc THẦY phô,
Mã mẹ bồi bổ điểm tô trang hoàng.
Hiu hoạnh, liều mạng ở càng,
Phận trò nào dám từ nan lổi niềm.
Nữa đêm ngồi tịnh lặng im,
Chó cò, chó mực, mèo xiêm ngừ ngào.
Mở mắt liếc ngó lẹ mau,
Ngạc nhiên biến mất con nào cũng không.
Đêm khác ái ngại ngó mông,
Đàn bà qua lại rủi dong trước ngoài.
Bận áo túi trắng đi hoài,
Nhìn xem tường tận thiệt loài yêu, ma.
Tay cầm đèn bước lại qua,
Tới trước nghĩa địa sáng lòa pháo bông.

Trước cửa tỏ rạng mênh mông,
Hết sáng rồi tối tấm lòng ngẩn ngơ.
Đêm khác nó cũng vởn vơ,
Đêm nào cũng có lờ mờ lắm khi.
Tin rằng có đấng từ bi,
Mạnh mầy, mầy khảo tao trì dang xa.
Đến thứ THẦY xuống am ta,
Ơû hai tuần lễ đặng mà dưỡng an.
Đòi xe qua bắc Cần Giang,
Hồng, Trình đệ tử hộ đàng liệu toan.
Phút đâu đến CỬU LONG GIANG,
Giữa dòng nước chảy THẦY toan phủi trần.
Mười ba, Tháng ba, Nhâm Thân,
Đò Bắc trở lại bước chân lên bờ.
Thấy hai Ông đang đứng chờ,
Đàn bà tự đắc bơ thờ rủi dong.
“Đam THẦY đi chết giữa sông”
Hồng, Trình xin lổi: “hai ông cảm phiền”.
Nhớ lại rồi THẦY sanh tiền,
Ngày nào bỏ xác qui thiên cởi rồng.
Phải rồi đây Sông Cửu Long,
Đề huề trở lại lập công cho cần.
Phận làm trò, lo đáp ân,
Hộ xác trở lại Am Vân cũng ngồi.
Tiên tri thuở nọ dạy rồi,
Đóng hòm sáu, góc liệm ngồi ở trong.
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG,
Sáu chữ sáu góc phải đồng cắn cưa.
Võng chữ thập vải trắng thưa,
Dể ngồi lên trển đở đưa vô vừa.
Tay chơn diệu nhiểu đỏng đưa,
Ba ngày ngồi đó cũng chưa đổi hình.
Trẻ già đến coi kình kình,
Con mắt tay mặt nhăm in như thường.
Còn con tay trái bên dương,
Mở to tất cả thế thường như ai.
Giống tạc THIÊN NHÃN CAO ĐÀI,

Đến coi rộn rực kẻ ngoài người trong.
Bổn Đạo tề tựu rất đông,
Thọ tang báo đáp sư ông giáo truyền.
Mua vải ngoài chợ liền liền,
Cần Thơ hết sạch kẻ phiền người than.
Ba ngày tẩn liệm táng an,
Đệ tử cầu nguyện thiết đàn cầu cơ.
Hàng chữ tại Tháp bây giờ,
Thiên Đình ân tứ bia thờ oai linh.
“ PHỤNG SẮC CHỈ THIÊN ĐÌNH,
PHỔ KHAI CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO.
NGÔ VĂN CHIÊU”

Lễ mãn hồi gia hoạnh hiu,
Từ đây hết thấy ma yêu hiện hình.
Ngộ ý rằng THẦY thử mình !
Mới cho đệ tử thân hình táng an.
Hiếu của Mẹ chưa mãn tang,
Ơn THẦY đến nữa ruột gan gập ghình.
Phận lịnh dạy lập Tổ Đình,
Kế năm Giáp Tuất ông Huỳnh ốm đau,
Cho mời Đạo Hồng lẹ mau,
Đến nơi tỏ nổi lời trao tận tình.
Rằng: tôi phải bỏ thân hình,
Cậy bạn thay mặt TỔ ĐÌNH giúp anh.
Phận sự của em vưng đành,
Đạo huynh an tịnh dưỡng lành chơn linh.
Lời Huynh dặn đệ giữ in,
Ngày hai mươi bảy 27 hồn HUỲNH qui tây.
Hiếu Mẹ, nghĩa bạn, ơn THẦY,
Chiếu Minh Nghĩa Địa nơi nầy táng an.
Hết đông vừa qua xuân sang,
Bá Nhựt đã đến Thiên Ban giác hồn.
Giáng cơ: ĐẾ QUÂN THIÊN MÔN,
Thuở THẦY hứa trước sanh tồn thế gian.
Rằng Huỳnh chí khí tánh can,
Công cao quả đậm chủ đàn CHIẾU MINH.
Nên cho giữ cửa Thiên Đình,

Sống sao thác vậy cũng in như lời.
Hữu phước phóng xác thảnh thơi,
Vô phần ở trả nợ đời khó khăn.
Nhắc người giúp việc nhà băng,
Nhứt hào vô phạm ở ăn từ hòa.
Hai mươi ngoài tuổi xuất gia,
Họ NGUYỄN THIỆN NIỆM thiệt là tu chơn.
Trường trai, tuyệt dục, luyện đơn,
Hoàn toàn Nhơn Đạo, chánh chơn độ đời.
Phò loan công quả Đạo Trời,
Cẩn ngôn cẩn hạnh từ lời Đạo tâm.
Tu hành ngồi hoài không nằm,
Qua năm Aát Hợi thậm thâm bịnh trầm.
Liễu Đạo mười tám (18) tháng năm,
Thiên đình ân tứ giáng lâm đàn tiền.
Quả vị: GIÁC MINH KIÊM TIÊN,
Giáng trần giáo Đạo nhơn hiền nơi nơi.
Thỏa chí cảnh lạc thảnh thơi,
Đây còn lo nổi Đạo Trời chi - ly,
-----------------
(Tân Mùi 1931, đổi Tam Thanh ra Tam Giáo )
Ông Phán Quí: HỒ VINH QUI,
Cải qua Tam Giáo Chi Ly rẻ bầy.
Quên nguồn bỏ cội đổi thay,
Nghịch THẦY rẻ bạn mới gây hại nhành.
Bại hoại bên phái TAM THANH,
Rủ nhau đi hết chia ranh tan bành.
Thảo Lư của THẦY tanh banh,
Vô phương chống vững tay khoanh chờ thời.
Phú vưng nhờ ơn đất Trời,
HỒNG nương vai gánh trối lời Đạo huynh.
Khi hứa sanh tiền bạn HUỲNH,
Gắn ghi hành sự giữ in phận mình.
Tạo tác THÁNH ĐỨC TỔ ĐÌNH,
Tháng mười Aát Hợi kinh dinh rành rành.
Phượng thờ qui tắc TAM THANH,
Bạch Cân, Bạch Giáp lễ hành oai nghi.

Đạo tán hóa hơn trước khi,
An bề phang mối huyền ky thỏa tình.
Thảnh thơi thảo luận hữu hình,
Phỉ mừng xinh đẹp kinh, dinh Hậu Tiền.
Đội ơn ĐẠI THÁNH TỀ THIÊN,
Chấn chỉnh nền Đạo tu hiền CHIẾU MINH.
Mới có lập ngôi TỔ ĐÌNH,
Thờ THẦY Giáo Chủ CHIẾU MINH - CAO ĐÀI.
Nạn mới khỏi, tưởng bền dai,
Phúc đâu đại khảo nạn tai thình lình.
Đương cầu cơ tại Tổ Đình,
Huấn lịnh; Ông Đẩu, Ông Thìn đi vô.
Hàm hồ lăng xăng đẩy xô,
Cậy quyền ỷ thế hiếp cô ngang tàng.
Đè Đồng Tử trước Thiên Bàn,
Giựt đại Khăn Trắng trồng càn Khăn Đen.
Trò cười gây sự thấp hèn,
Nam nhân đứng bực sách đèn trò Tiên.
Lại là đồng Đạo tu hiền,
Nở đành khuấy rối đảo điên đến đều,
Gây ra đến nổi trớ trêu,
Sao không xét kỷ đến khêu gan Hồng.
Lúc nọ nhờ giữ tâm không,
Nhịn thua nào khác trụ đồng trơ trơ.
Đứng suy nghĩ, bắt ngẩn ngơ,
Tại Trưởng làm việc Cần Thơ trong Tòa.
Can thiệp Thìn, Đẩu hiếp ta,
Chi bằng nhườn nhịn coi ra thế nào.
Tam thập lục kế dĩ đào,
Lạy THẦY phản bộ chùa giao Đẩu Thìn.
Ra di kiếm xét lổi mình,
Trắng, Đen không phải của mình tạo ra.
THẦY ta khẩu truyền cho ta,
Trong bộ Y Bát thêu ra áo tràng.
Tám cung rành rành đàng hoàng,
Đoài, Khãm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Truyền trước Thiên Bàn tạc ghi,

Nội dung: chiếc KHÃM Điền LY thành Càn.
Bạch Cân, Bạch Y Đại Đàn,
Cúng thường tiểu lễ áo tràng khăn đen.
Quỉ vương ố kỵ ghét ghen,
Chờ trưởng đau ốm lấn chen mượn hình.
Phá hoại nghịch lẫn chống kình,
Ba ngày trưởng lại bỏ mình qui tây.
Tháng ba Kỷ Mão nầy đây,
Là ngày nghịch lẫn tràng gây rẻ bầy.
Nếu trưởng còn tại trần đây,
Phải lo tế khốn nhún tay đấp bồi.
Bởi tại khuấy rối bại tồi,
Tồi rồi để lại cho tôi khổ hình.
Vì Đạo khó nổi làm thinh,
Hồng đệ nhắn hỏi trưởng huynh như vầy.
Lánh trần linh hồn chầu THẦY,
Xin Huynh phải nhớ chốn nầy lấn chen.
Rủ nhau lột trắng trồng đen,
Phải chi trường cửu đời khen mới mầu.
Nghịch Thiên không đặng bền lâu,
Mua khen thất bại bỏ sầu lại đây.
Hồng đệ bạch tấu Đức THẦY,
Bắt đền Trưởng phải nơi nầy sửa đang.
Phận hèn lão giả dưỡng an,
Từ đây cậy Trưởng liệu toan điều đình.
Kế nghe Ông Đẩu,Ông Thìn,
Bỏ chùa đi hết Tổ Đình không ai.
Phận làm trò, rất khổ thay,
Biết ai vì Đạo nương vai gánh gồng.
Nhớ lại Trà Mơn có Ông,
Họ NGUYỄN THÀNH TỰU có công tạo chùa.
Cũng tại Đen Trắng tranh đua,
Từ Ông ẩn mặt, nhịn thua dưỡng nhàn.
Cho mời Ông vừa mới sang,
Cậy Ông chia gánh sửa sang TỔ ĐÌNH.
“Lời Hiền Tỷ Đệ xin nhìn,
Sợ còn nghịch nữa chống kình gay go”.

Thưa Hiền hành Đạo đừng lo,
Hể tu ma khảo đắn đo lẻ thường .
“Nhắc lại Hiền thấy tận tường,
Từ bi cho bực chơn thường ám u”
Bởi háo thắng chẳng ôn nhu,
Khăn đen đội đó còn tu hay là?
Hung thần kiểm soát đuổi ra,
Khôn soi chậu úp, đâu qua lưới Trời.
Tại người dẫn lối biến dời,
Hại: Thơm, Thìn, Đẩu, Một, Lời, Nhãn, Cơ.
Lớp chết linh hồn hết mơ,
Sống còn ở lại, tóc tơ bộn bề.
Không còn một người thảm thê,
Tấm gương hiện tại đáng ghê giựt mình.
Phận hiền Truyền Giáo Tổ Đình,
Nương theo tiền tấn Giác Minh cư trần.
Đại Đàn trắng toàn Y Cân,
Khăn Đen tiểu lễ, gải phân noi truyền.
Cạn lời Hiền hữu tâm yên,
Hồng thề trên có Hoàng Thiên Nam Tào.
Trắng Đen con giữ hai màu,
Khẩu truyền Y Bát THẦY trau để đời.
Hồng có tự cao biến dời,
Linh Hồn xa đọa Đất Trời phạt răn.
Bấy lâu khảo đảo lăng xăng,
Cam đành vui chịu khó khăn tai nàn.
Hiền nhớ hỏi thử Tiền Giang,
Phú Lâm Ông Đốc trắng toàn cả thân
THẦY cho Bát Quái Y Cân,
Trên đầu đội thật bạch chữ CÀN.
Bà DƯƠNG làm chứng rỏ ràng,
Rọi hình còn để nơi Đàn Phú Lâm.
Ơ hờ quên để vào tâm,
Trưởng lãnh Bửu Pháp lâu năm hoàn toàn.
Sắc phục đã mặc hầu đàn,
ĐOÀI, KHÃM, CẤN, CHẤN, KHÔN, CÀN, TỐN, LY.
Cũng là Bạch Cân, Bạch Y,

Khẩu truyền chiết Khãm điền Ly cơ huyền.
Giáo Đạo Tiền Giang Nhơn Hiền,
Luyện thành chứng quả đăng tiên kịp kỳ.
Tiếc thay nở đành phế đi,
Chánh lý là phái Bạch Y tu trì.
Mổi người liểu Đạo chôn đi,
Biệt tích phải chịu phá chi TỔ ĐÌNH.
Biết rằng là sự hữu hình,
Phận trò tín ngưỡng THẦY mình phải lo.
Hồng giữ màu trắng bo bo,
Chung thân tang chế phận trò đáp ân.
Một là: mượn màu Bạch Cân,
Hai là: quần áo cả thân trắng toàn.
Đó là lời của THẦY ban,
Rảnh giờ nhắc tích Thiên Bàn hiền ghi.
Con Hồng THẦY truyền sau khi,
Nội dung chiết Khãm điền Ly bí truyền.
Có một điều tâm sự bất yên,
Rằng: “Mặc Bửu Pháp Tiên Thiên hầu đàn”.
Bậm gan Hồng quì bạch càn,
“Không dám địch thể ngan hàng Tôn Sư”.
“Tiên Thiên Chưởng Giáo Đại Từ”,
Bạch đến đó THẦY “Ừ” rằng: thôi.
“Không chịu đưa đây cho tôi”,
Mặc rồi soi kiến, một hồi: nầy đây,
“Đem về thờ trước bàn THẦY”,
Từ lãnh Y Bát của THẦY tay trao.
Nhục nhã đuổi xô xiết bao;
Ba năm tám tháng mẹ đau bỏ hình.
THẦY thì về cỏi Thiên Đình,
Bạn Đạo, Ông Nguyễn Văn Huỳnh qui tây.
Phận Hồng trách nhiệm tại đây,
Xét suy thiểu đức mới gây tai nàn.
Biến ăn, quên ngủ, thầm than,
Vì Đạo nghiên đổ, đa đoan nhộn nhàn.
Aø nhớ LONG ẨN Tiền Giang,
Tháng giêng Aát Hợi THẦY ban tu hiền.

Hữu căn thiên lý ngộ duyên,
Hạnh phúc, đắc Kim Tiên giáo truyền.
Phước đức ngồi tu lặng yên,
Không ai đè lột còn nguyên trắng toàn.
Noi dấu LONG ẨN Tiền Giang,
Chí công chặt chẽ, trang hoàn rặp khuôn.
Chồng nào vợ nấy tu luôn,
Hai mươi ngoài tuổi tròn vuông Đạo Trời.
Nhứt tâm không chịu đổi dời,
Khư khư nắm chặt từ lời Kim Tiên.
Phái Bạch Y còn nối giềng,
Lấp cơn thãm đạm trí yên mừng thầm.
Kế đây: một ngàn chín trăm bốn lăm,
Tháng chín Aát Dậu là năm biếng dời.
Nạn chung khắp cả cùng nơi,
Tán gia bại sản, lụy rơi kình kình.
Rảnh giờ nhớ lại rùng mình,
Từ khi có phái CHIẾU MINH đến chừ.
Tính hai mươi bốn năm dư,
Lo tu ngủ gục khảo nhừ nạn tai.
Mười mấy phái Đạo Cao Đài,
Chiếu Minh hèn thấp, miệt mày lo tu.
Nhắm mắt như thể kẻ mù,
Mặc tình cao thấp võng dù tự ai.
Cao không muốn, khắp không nài,
Cầu ơn trên độ, tu hoài sắc đinh.
Không kể xác, kể chơn linh,
Phút đâu nghe tiếng cỏi inh thình lình.
Ồn ào chạy vô TỔ ĐÌNH,
Mạnh ai nấy giựt làm thinh đứng nhìn.
Tứ hướng súng nổ ầm ình,
Thầy Tăng xe đến nhà binh chở đồ.
Đầy rồi đem về chở vô,
Nhóc xe lượm lặt món mô không từ.
Kế đó tới nạn tản cư,
Tản rồi dỡ rụi Thảo Lư tan tành.
Bảy căn cao chưn đành rành,

Đồ Thờ, Bàn, Tủ, thi hành trống trơn.
Trách bấy: thầy tu, không nhơn,
Đáo đầu phải chịu lăm cơn khổ hình.
Những tưởng còn lại Tổ Đình,
Rủi ro kế đó nhà binh đuổi liền.
Rắc rối lung tung đảo điên,
Bại hoại Khăn Trắng liên miên chưa rồi.
Phần thì nọ chết, nầy thôi,
Không ai còn một đở tôi ngặc nghèo.
Đông, Tây, Nam, Bắc vắng teo,
Quả công bọt nước trôi theo thuở nầy.
Dở Tổ Đình, cốt hết cây,
Xa Bạn, lìa Mẹ, cách THẦY rồi đây.
Nạn chung khổ chịu tràn lây,
Con Hồng bạch tấu trên THẦY, cầu xin.
Sống thêm lập Hậu Tổ Đình,
Thành công con trả thân hình trần gian.
Lời sở nguyện Đại Từ ban,
Hậu tấn có chổ ở an tu hiền.
Đệ tử khẩu bái kiền thiền,
Tháng Hai, Ất Sửu, Hoàng Thiên chứng lời.

mời xem tiếp ; Sơ Lược "Bổn Nguyên Y Pháp

                                                                    Trở Lại Mục Lục