“NGÀY XUÂN VUI MỘT CHỮ HÒA, CÓ HÒA MỚI VỮNG NGHIỆP NHÀ DÀI LÂU”
Trung Hưng Bửu Tòa. Giờ Tý 01- 01- Tân Sửu
15-2-1961. Đại Đạo 36
BÀI: 1 ĐẾN 10

THI:
Trường đường biết sức ngựa
Xuân ý suy bữa bữa
Phật nhựt được tăng huy
Địa bàn kim đã hứa.

Địa chào mừng chư Thiên phong chức sắc, chức việc, toàn bộ nhơn sinh một năm Pháp Quyền thịnh vượng.
Địa được lịnh Giáo Tông Đại Tiên, lâm đàn khai cơ phân bày lý Đạo. Địa báo lệnh trước có Quan Âm Nam Hải đến ban ơn cho toàn đạo.
Vậy chư chức sắc ngồi cùng Địa nghe vài mẩu chuyện ( mời ngồi ).
Vậy xin mời một vị Thiên Ân giải bài thi, để ngày xuân có kẻ xướng người họa, mời một vị giáo sư… GS Hậu bạch… cũng khá… Tại sao lại xuân mà không nói là sanh? GS Bạch… Hay! Nhưng còn ý khác. Đúng ra chính tên là Trường Sanh Phật Địa mà để xuân là ý trường sanh là pháp thân của Địa, trường xuân là ứng thân của Địa. Nếu có kẻ hỏi gặp xuân thì ứng thân gọi bằng Xuân, qua Hạ thì ứng thân là gì? Hạ sao? Phải Trường Hạ Phật Địa cũng được chứ, chuyện này phải coi đoạn văn sau.
Câu 3? Hậu bạch……….tại sao gọi là Tăng? Câu 4?..tín đích
Năm nay Địa lại được đến khai cơ mang cả một Quyền Pháp, không dám nói hài hước bao đồng Địa đi sâu vào đề bài.

BÀI:
Năm Tân Sửu Thần Ngưu xuất hiện
Xuân Lạc Hồng cải thiện đời dân
Lòng người dục giả duy tân
Đêm đời về đạo cho gần cho xinh
Xuân đem lại mối tình hòa ái
Xuân gọi nhau trở lại cùng Thầy
Thung dung nhẹ bước đường mây
Lánh hồi điên đảo đổi thay cuộc cờ
Xuân mong mỏi đợi chờ cải quá
Cảm thông nhau đắp vá lỗi lầm
Linh sơn cùng bạn đồng tâm
Nên hư đóng cửa âm thầm nhủ khuyên
Đừng để đến thất điên bát đảo
Đừng để khi nha trảo tổn thương
Sống còn trong kiếp vô thường
Làm sao thân phận an bường cho vui
Giờ xuân nhủ nên xuôi mọi việc
Để lòng Thầy khỏi biệt lòng ta
Ngày xuân vui một chữ hòa
Có hòa mới vững nghiệp nhà dài lâu
Xuân cậy sức con trâu nhổ cỏ
Phở cồn cao lấy nó lôi cày
Lúa miêu tươi tốt mỗi ngày
Siêng năng ta nó ra tay mới rồi.

Năm nay thiên can số 8, địa chi số 2, tám là nhằm chữ Tân, hai đúng chữ Sửu. Tân Sửu ứng vào quẻ Địa-Trạch-Lâm, Thế Đạo trong hồi mở mặt mà nội bộ chưa thuần nên từ ngày khai cơ giáo pháp đã đổi xuống đổi lên, Quyền Pháp chưa minh định mà Lâm trở thành Tỵ, Tỵ lại làm Lâm, cũng là một điều nên xét.
Theo Thánh ý năm Sửu là trâu, trâu để cày, mà có trâu không đất, lấy đâu bỏ giống đặt mầm, nên Địa cũng ứng thời hỗ tương thành tựu cho đúng với chữ trường sanh Phật Địa. Đã có giống lành gieo trên mặt đất thì cũng theo đó cỏ cũng đầy nương .
Vì vậy trâu có nhiệm vụ phở đất khai nương còn có nhiệm vụ ăn cho sạch cỏ ngày nào còn cỏ thì trâu phải rảo khắp đồng bãi để trừ diệt, nhưng dù ăn không hết dậm không sạch phải phở lật mà chôn giống cỏ lấn át lúa mà hại sự sanh sống của đời thì kẻ nông phu cọng tác cùng trâu để hoa màu không hư hại.
Đây Hội Thánh ta cũng vậy, làm sao hoằng pháp lợi sanh? Làm sao cho thành sự nghiệp? Cả một sự dụng tâm của Địa để đặt Hội Thánh một chương trình. Hội Thánh bình an đón Nam Hải Từ Hàng.
Địa xin chào, xin nhượng bút.
Tiếp điển:

Từ bi lân mẫn mãi không phiền
Hàng pháp độ người phải chí chuyên
Bồ bặt khuyên nhau chung sức lại
Tát thành cho đạo ở chư hiền
Chư hiền thanh tịnh nghĩ mà coi
Đừng để một ai phải thiệt thòi
Mới gọi đàn anh người Hướng Đạo
Chết rồi hậu thế vẫn còn soi
Soi lại lòng mình có trọn chưa?
Chưa thì miễn thứ kẻ không vừa
Vừa lòng bạn tác thân thường tịnh
Ơn Phước từ Trời rỉ rả mưa
Mưa pháp mưa lành xuống thế gian
Xuống cho bốn biển được an toàn
Toàn người Hướng Đạo thân Bồ Tát
Thì chánh giáo ngày được mở mang.

BÀI:
Mở mang xuân đến gặp thời
Chào chư thiên mạng được Trời ủy trao
Mừng quốc nội đồng bào Hồng Lạc
Nương đà xuân tấn đạt duy tân
Mừng chung sanh chúng dưới trần,
Mừng trong Giáo Hội xa gần gội ơn
Ơn xuân phải mau chân đón đợi
Đợi chờ nhau đi tới một đường
Chờ trên ban bố chủ trương
Chờ Thầy xuống thế mười phương một người
Ráng vun bón cho tươi cây Đạo
Gắng sức lo hoài bão nhơn sinh
Ngày mai chánh pháp được thành
Công trò Thầy Mẹ cũng dành thưởng ban
Giờ hiệp lại để toan để tính
Giờ phân ra ban lịnh rao truyền
Một nhà Quyền Pháp linh thiêng
Chờ khi Tứ Giáo qui nguyên mới lành
Nầy Thiên Ân đàn anh đàn chị
Đạo chinh nghiêng phải nghĩ sao đây
Trên ta còn hẳn có Thầy
Ngoài ta tai mắt đông đầy ngóng xem
Phải giữ cho đừng lem mối Đạo
Phải dặn lòng ngay thảo cùng Thầy
Một ngày hoàn cảnh đổi xây
Mới mong chiên sói còn bầy với nhau
Đừng trông lơ ai đau chẳng biết
Đừng bất bình, thân thiết phải xa
Xúm cùng gìn giữ Bửu Tòa
Tảo thanh cho sạch loài ma ẩn tàng
Cầu chư hiền bình an lo đạo
Cầu Pháp Quyền toàn hảo từ đây
Cầu cho đạo hữu vui vầy
Cầu chung các tỉnh thương Thầy thương nhau
Bần đạo nhìn mà đau mà khổ
Thấy nội tình nghiêng đổ lòng thương
Hỏi ai thắng được phi thường
Phất cờ gióng trống dẫn đường nhau ra
Thầy lắm lúc thiết tha căn dặn
Trò đôi phen chẳng đặng khoan hòa
Bây giờ muôn sự xảy ra
Xảy ra vui phải nghe Ta dạy bày:
Bày chỉ cho nhau một chữ lành
Chữ lành hiển hiện ở đàn anh
Anh còn sơ sót sao nên đạo?
Đạo lớn bao trùm cả chúng sanh
Chúng sanh đâu lọt khỏi Ơn Trời
Sống bởi ơn lành một chút hơi
Hơi đã ngẹt ngòi thân khó nhọc
Làm sao đón hưởng trọn Ơn Trời
Ơn Trời đã ủy ở Thiên Ân
Ân ấy làm sao cập đến dân
Dân được cảm thông dân kính trọng
Trọng người Hướng Đạo, Đạo canh tân
Tân Sửu xuân về với nước non
Về cho Giáo Hội để vuông tròn
Tròn người Hướng Đạo nhơn sanh ổn
Ổn định rồi thì xứng phận con.

Con số 10 Tân-Sửu, lấy Đạo pháp mà suy cọng 1 và 0…..hay có 1; 2 x 5 là nghịch số nên giáo quyền bị yếu chánh pháp phải gặp nhiều khó khăn.
Bần đạo mong ở lòng ưu tư của con người có trọng trách, khéo léo làm sao giữ còn nhơn sanh, nhơn sanh khỏi lọt ngoài Quyền Pháp. Mà nội bộ chớ để làm đôi, phần đời khó khăn đứng trong tình thế gay gắt, mỗi ngày nhơn sự còn dằng co căng thẳng, tình hình nếu một lúc nào hết linh, đức tin yếu ớt, làm sao bão an nội bộ, bão vệ tín đồ. Vậy Bần đạo khuyên cùng nhau muốn cho công nghiệp còn, nền tảng vững, xa gần cần giữ một mối yêu thương. Mỗi người, bất cứ ở địa vị nào cũng phải xét mình nghĩ đến Đạo, mà chọn một con đường đi tới làm cho ổn định tình hình đôi bên, không cần phải gặp nhau mà cũng được tốt đẹp.
Đàn nầy Bần đạo cho Phật Địa đến cũng thấy được Thánh ý thì toàn đạo nói chung được ban ơn, được tự mình có một con đường xây dựng đạo. Nếu ai ai cũng sẵn sàng có lòng ưu tư thiết tha vì Thầy vì Đạo thì qua Thu đón Cơ Giáo Hoá.
Bần đạo chúc mừng một năm cố gắng thành tựu. Bần đạo thăng.

BÀI: 2 “TU RỒI MỚI THẤU PHÁP LINH, Ở TRONG MIỆNG SÓI MÀ MÌNH KHÔNG SAO”
Trung Hưng Bửu Tòa. Ngày 11-1- Tân Sửu
25-2-1961. Đại Đạo 36

THI:
Đạo Trời mầu nhiệm gắng công tu
Đức hạnh trò Tiên phải đứng đầu
Chơn thật lòng rồi Ơn Phước thấy
Tiên Thần muốn đạt khó gì đâu

BÀI:
Ngày xuân dạo chốn trần gian
Nương cây thần bút giáng đàn đề thi.
Xuân về một lúc xuân đi
Gởi bao tươi đẹp phương phi cho đời
Muôn dân cùng chịu Ơn Trời
Sống còn vui khổ ta người có nhau
Người đau là tức mình đau
Có gì phân biệt với nhau rầy rà
Lo tu muôn việc bỏ qua
Để lòng thanh tịnh giao hòa đón ân
Có thân đừng nặng vì thân
Quên thân thì được thập phần cao sang
Lo tu Ơn Phước Thầy ban
Lo tu mới thấy Niết Bàn tại tâm
Mưu thâm thì họa cũng thâm
Thâm thâm nhiễm nhiễm, sanh tâm não phiền
Bây giờ cầu học pháp Tiên
Dọn lòng trong sạch Thầy truyền dạy cho
Dọn mình mọi sự thôi lo
Dọn mình thanh tịnh như tro đã vùi
Tu rồi lòng chỉ biết vui
Vui cho khỏe khoắn đẩy lui trần tình
Tu rồi mới thấu pháp linh
Ở trong miệng sói mà mình không sao
Tu rồi sứ mạng lại trao
Trao cho Hội Thánh ban rao Pháp Quyền
Bây giờ ta để lời khuyên
Sóng to gió dữ vững thuyền vượt qua
Bên kia Bờ Giác không xa
Lái lèo Thầy đã cho ta độ thuyền
Từ đây qua khỏi giang biên
Cũng năm ba hiệp đảo điên ba đào
Lạ gì sóng gió xôn xao
Con thuyền rạch nước sợ nào không đi
Nhắm về Nam hướng cung Ly
Có Thầy có bạn có kỳ mừng vui
Ngược dòng thuyền phải trôi lui
Trôi lui đâu phải cho lùi về sau
Ngược dòng đâu để muốn mau
Ráng công chèo chống trước sau mấy lèo
Giang biên qua khỏi phải chèo
Khỏi rồi buông lái thả lèo khỏe ru
Ru ru rủ rủ có là ai?
Ai biết Đạo mầu luyện Thánh-thai
Thai tức được truyền ơn bố hóa
Hóa người phàm tục lại Thiên-đài
Đài cao có chỗ ngự muôn quyền
Có chỗ Thầy trao pháp vạn duyên
Có đức có tài khai phước huệ
Có gan Thầy sẽ dẫn về Tiên.
                                                      (Thăng)
BÀI: 3 GIỮA TÌNH HUYNH ĐỆ THÂM SÂU,
NGHĨA TÌNH NÀO TRÁCH VỚI NHAU LÀM GÌ”
Trung Hưng Bửu Tòa. Ngày 27-2- Tân Sửu
12-4-1961. Đại Đạo 36

THI:
Liễu giải cho đời nhẹ tội khiên
Tâm người Bồ Tát rộng vô biên
Chơn như bất động chơn như chủ
Nhơn dục bao giờ có thăng Thiên
Thời gian xây dựng còn dài
Ai người để sức ghé vai gánh gồng
Làm sao cho đẹp một lòng
Cho ra Hướng Đạo tư phong thuần hòa
Pháp Quyền học lấy hạnh Cha
Bao dung che chở gần xa trong ngoài
Đừng vì thiên ái hẹp hoài
Lóng nghe sứ mạng tiếng còi về đâu
Giữa tình huynh đệ thâm sâu
Não phiền nào trách với nhau làm gì
Đường Trời dọn sẵn lo đi
Phất cờ gióng trống trong khi rộn ràng
Đừng cho đạo-hữu hoang mang
Đừng cho tai tiếng bàng quan chê cười
Đừng cho lạm dụng quyền đời
Đưa nhau ra khỏi xa khơi khổ phiền
Ngày mai xây dựng Pháp Quyền
Ngày nay thời thế…tạm yên tu hành
Hễ là thượng đức vô tranh
Lo đường giáo hóa sớm thành cơ quan… (Thăng)

BÀI: 4 NGƯỜI TU PHẢI LƯỢNG SỨC MÌNH, TU CHO ĐẠT ĐẠO MỚI MONG GIÚP ĐỜI.
Trung Hưng Bửu Tòa. Ngày 22-7- Tân Sửu
1-9-1961. Đại Đạo 36

THI:
Bão bão anh em cẩn thận nhiều
Thọ truyền bí pháp phải cao siêu
Thánh Thần mới được ơn Thần Thánh
Nương náu chờ xin Ngọc Khuyết triều

Chào chư vị. Bước đường sứ mạng người có nguyên căn lúc nào cũng để tâm nghĩ đến cần xốc gánh lên đường, phải xứng một Thiên Thần mới đủ tư cách gieo truyền cơ cứu rỗi.
Vì thế mà người có thiện căn, luôn luôn nghĩ đến sự tu để đạt đạo làm nòng cốt cho con người. Những người đạt nhân quân tử lúc nào cũng trông xa nghĩ rộng mà đặt vấn đề cả cho mình và cho mọi người đồng thi hành trên phương tiện đó, không vì hoàn cảnh thôi thúc, ý người đòi hỏi, mà mình phải vội vàng làm những việc không đầu không cuối, mà luôn luôn đo đắn dặt dè, một lời nói một nhích chơn phải được lợi sanh lợi kỷ, mẫu mực là mình. Mình là phép tắc, đạo đức đấy, Thánh Thần đấy, Quyền Pháp đấy, mà sứ mạng Trung Hưng cũng đấy. Nên người quân tử nhắm vào xa xăm, trông vào hiện tại mà đặt chương trình, đâu phải thấy đây mà không xem đó.
Hơn nữa, vạn thế sự nghiệp cốt ở đạo đức, mà đạo đức hiển hiện phải ở nơi người có lòng cầu học hiểu, có chí siêng cần tu học dồi mài, có sự giác ngộ thường xuyên mới thấu cơ mầu nhiệm. Nên chư vị hôm nay dự định lên đường giải thoát cần được chuẩn bị nhiều ngày, một lần bước ra là một khi đã hòa đồng cùng pháp đạo, nhất trí cùng Thầy, đâu phải một sớm một chiều nay cầu mai lạy cho rồi. Làm Thánh làm Hiền không dễ. Bất cứ ai có chí thì nên, có bền thì được, dùng chước thì hư, dụng khôn ngoan trăm lần thất bại
Bởi vậy Thánh xưa vất trí phế tài vẳng lặng ở một nơi, đức đủ đạo thành ngày ấy sẽ ra đời mà lấy thân gánh vác. Nên bước đường tu học lấy đạo Thần Tiên, các vị là bậc Hướng Đạo Thiên Ân, lại còn thiết tha những thầm nghĩ ta hứa với lòng ta, để ta đủ can trường mà làm xong con người giải thoát. Đường dài phải lập chí mới đến nơi. Phương chi hôm nay, bối cảnh quanh mình thấy bao là kẻ chết người đau. Muốn cứu đau, ngăn chết, là phải có pháp Thần thuốc Thánh, đức cả tài cao mà cảnh khổ diễn tiến mỗi ngày ta chỉ một thân, lòng không yên nỗi chạy đường này qua ngõ nọ, tay rờ miệng nói mãi cứ lăng xăng mà kẻ chết cứ chết, người đau vẫn đau, rồi trách Trời giận mình mới toan đi vào núi tìm Thầy học pháp hồi sinh. Học một năm biết chừng vài món, thấy tuy chưa đủ mà sự việc cũng cần, rồi xuống núi cứu đời, pháp ấy tuy hay nhưng khó ngăn họa lớn. Mà người ấy gọi là người có lòng biết lo, có công vị tha xá kỷ. Nhưng lòng ấy cũng là hại đời, lòng không lượng được việc làm, lo như thế thà ngồi không mà đánh đờn ca hơn là phí ngày giờ, mà không khéo lại như kéo người đui tu theo thầy mù.
Mà người quân tử với kẻ tiểu nhân đồng làm đồng nói đồng lo nhưng hai đường mỗi bên đều khác hẳn. Nên ngay bây giờ các vị đã nhận thức kỹ càng. Trái lúc non thì chát, lúc dầy thì chua, lúc mùi thì ngọt, cũng như người tu biết đạo không bằng yêu đạo. Phải trầm tịnh nhứt tâm, đi cho đến nơi làm cho rồi việc. Nghĩa là các vị đã có lòng muốn tu theo đạo Thần Tiên thì đặt mình trên sự “vô vi thanh tịnh”.
Cái công thành tựu của ngày mai là cái ý nghĩ việc làm lúc bây giờ. Cái nhân tạo lập đúng đắn thì cái quả kết thành mới được tốt lành. Muốn tu ta là người học trò cứ làm theo ý Thầy, nghe theo lời Thầy, đâu để cho lòng mình đòi hỏi nơi Thầy việc nọ việc kia. Mà hễ người đệ tử tâm tròn hạnh xứng, đã tròn thì tự nhiên được lặng, xứng thì tự nhiên được đậu, lo gì nghĩ gì cho mệt nhọc. Đã đặt mình tu theo đây học với đây, ngó nghe vào đây mà hành sự. Nhất trí cùng Thượng Đế thì tâm ta và bản thể đồng nhất. Đã đồng nhất thì nhất động, nhất tịnh khi vi khi hiển của Trời có chỗ nào mà ta không biết.
Muốn đồng nhất cùng Trời là trước phải dẹp lần tình nghĩa cỏn con, lợi danh nhỏ hẹp, ân ái thấp thường để lòng được lặng trong, người không nghĩ hơn nghĩ thiệt. Có vậy luyện pháp mới linh, nấu đơn mới thành. Ai là người làm được, chính là người giác ngộ vậy.
Còn việc tu, hễ còn tu là còn khảo, khảo biết đâu là phần thưởng thiêng liêng mà biết đâu là phần phạt hữu hình. Nếu nó là phần phạt mà vui nghe thì phạt kia là thưởng đó.

THI:
Hồng ân đâu có riêng ai
Ai người biết được chiều mai đợi chờ
Hễ là quân tử tri cơ
Đừng màng danh lợi đừng mơ ảo huyền
Muốn tu thành Phật thành Tiên
Sửa lòng cho chính cho chuyên tịnh hành
Trông vào lòng chẳng mỏng manh
Trông ra mình được Trời dành một nơi
Mặc người bay nhảy đua bơi
Ta còn thiếu đức thiếu hơi thiếu tài
Lo tu chứng ngộ Cao Đài
Kiếp nầy có trễ kiếp mai thi hành
Kiếp nầy quả đạo được thành
Đương vi xốc gánh quần sanh một thời
Nếu thành chưa lập ra đời
Thì về Thiên Quốc chầu trời cũng vui
Phiền gì tính tới tính lui
Miễn cho việc của trời người được xong
Dầu mà mình có cùng không
Đâu đòi đâu hỏi cho lòng sân si
Lòng tu nào có muốn chi
Thân tu ta đã qui-y lâu rồi
Có gì còn gọi là tôi! .

BÀI: 5 LẤY LÒNG TỪ BI MÀ ĐỘ ĐỜI, LẤY QUI GIỚI MÀ TU THÂN
Phước Huệ Đàn. Ngày 9-9-Tân Sửu
18-10-1961. Đại Đạo 36

THI:
Bão đi bão lại mấy nhiêu lần
Thọ lãnh rồi lo luyện lấy thân
Thánh được chỗi sanh phàm mới diệt
Nương nhờ Quyền Pháp đón hồng ân.

Bản Nương chào quí liệt vị Thiên Ân chào chư hiền nữ……..mời an tọa
Hôm nay Ơn Phước đã về lại cùng chúng ta, cũng nhờ lòng từ bi của Từ Tôn Kim Mẫu. Mẹ lúc nào cũng tư tư thiết thiết trông về đám con tội lỗi nơi cõi trần nầy. Người chẳng nại chẳng buồn dù đứa ấy phạm ác đến đâu cũng quyết ân cần làm cho nó đến khi giác ngộ.
Người luôn luôn nài xin Tòa Tam Giáo mở lượng khoan hồng để lần hồi người sẽ dùng Quyền Pháp ân oai mà cứu trọn đám nguyên căn trở về Thiên Quốc. Lòng Từ bi đến thế tưởng còn hƠn Trời rộng đất dày.
Nếu buổi Hạ ngươn nầy không nhẫn nại bao dung như lòng của Đức Mẹ thì hầu hết toàn linh sẽ mãi đắm chìm trong bể khổ. Riêng như nhóm bạn chúng ta đây cũng khó hòng trông mong có ngày hồi phục. Chị em nữ phái nói chung tu sĩ nói riêng đã trái phạm quá nhiều, đôi lúc lòng dạ chư Thần phẫn nộ, chư Thánh chẳng muốn nhìn.
Nếu không bởi sự lân mẫn,thương yêu của Mẹ nơi Trời thì làm sao còn được bản Hồng Danh trên Ngọc Khuyết. Chị em lẩn thẩn quá, hồi tĩnh hồi say, buồn cười thay lúc tu lúc nghỉ, nếu Quyền Pháp nầy không ở vào cơ tận độ thì vạn kiếp chúng ta cũng lấn quấn trong cõi lao trần.
Phật Trời có muốn hành phạt ai, cực bất dĩ nếu không răn đe, không trừng trị thì nương đâu còn trong Thánh-thể. Nếu ngày nào chị em chẳng được Thần Thánh nào nhắc đến nói đến, thì ngày ấy chị em đã không còn ở trong bộ hệ Thần Tiên. Vì thương mà phải dạy phải bày phải dụng oai linh đề ra kỷ luật, nếu không thì có khác chi thiên hạ ngoài đời họ chém cha giết thầy hại bạn, Thần Tiên nào động địa đến.
Bây giờ kiểm điểm lại, cơ khảo thí hai năm qua kẻ được người thua. Bản Nương cũng không biết lấy gì để phân hạng. Trong bộ nhà tu, cũng khó nói ai mất ai còn. Bây giờ đem lật bản sổ thưởng công ghi tội, chắc trong ấy chỉ một nét ghi sơ lược, kẻ phạm lớn là nữa hương, còn tất thảy chị em cả một thời gian đều vô sự vô quá.
Nếu nói phạt thì phạt trước nhứt là các ban trọng nhiệm nơi nầy, rồi sẽ nói đến người đoàn viên phạm tội
Vậy chị Gia-trưởng đem sổ ghi công chấm tội, thử trong cách làm việc như thế nào? Ai tội ai công, kẻ nào bị xóa đi, người nào được lập lại?
Yến bạch………………
Vậy thì bây giờ đáng ghi ai vào đó trước.
Yến bạch…………………
Ghi vị Gia-trưởng vào trước chớ vì làm việc quá cẩu thả, kẻ bỏ tu người phạm giới mà trong sổ cũng chẳng thấy ngang ngắn ngang dài thì cớ làm sao?
Thừa Quân bạch…………
Mấy người phạm..?
Bây giờ Bản Nương cũng khó nói. Ban-sự cũng chẳng biết được đuôi đầu, Bản Nương có thể lớn tiếng nói giữa đây, hầu hết dù ít dù nhiều không còn mấy ai không bị ghi tên vào sổ phạt, nếu kẻ ít nhẹ nhứt như: Mận, Xoa, Hoa, v.v.. Cũng tối thiểu là một hương thì Bản Nương muốn trách nhiệm nầy đưa cho mỗi người tự ghi định án lệ của mình, muốn ghi sao cũng được, vậy có được không? Yến bạch…Được hả?
Thừa Quân bạch…
Nếu làm vậy mà muốn chí đáng công bằng thì chờ một trăm năm sau mới có sự thật.
Nếu ai muốn sám hối thì tự ghi, thật ít thì phước đến ít, thật vừa thì phước cũng ban vừa, mà thật trọn thì tội tình sạch trọn. Nhưng buộc không ai trông biết vào ai, mà kẻ xem xét cũng vô tư như lòng Đức Mẹ.
Đây xin lập lại bản danh sách để chấm công luận tội, ngặt một điều hoàn cảnh chưa cho phép nói ra, nhưng nói thì nói vậy, nếu lòng giác ngộ của chị em đến mức chơn thành thì ý Mẹ cũng hằng ước mong để xin Tòa Tam Giáo gia ân cho một kỳ rửa tay sám hối lại.
Điều ấy chị em ta có ưng vậy không? Yến bạch…………..
Về người tu sĩ phạm hình pháp của Giáo Tông mà được Hội Thánh nghị tội thì Bản Nương cũng thấy là một sự từ bi, nhưng có thương cũng phải buộc lòng, hễ ai không giữ giới Thượng-thừa thì không ở chung cùng nhóm Thiên Đạo. Nghĩa là nếu không giữ được giới, không ăn ở theo giới ấy tức là đã phạm vào giới tịnh giới thì trở về cùng nhơn đạo, sau khi một vài năm xét đã thật lòng ăn năn thì được lập lại đời người tu sĩ. Để khỏi ai dị nghị về sau.
Từ đây hồng ân sẽ trở lại, chị em lo tu là lúc báo đền ơn Mẹ, mọi việc nên cẩn thận để khỏi nhọc lòng người trên, phạm vào giới ước, ngày nào Ơn Phước trở về cho Hội Thánh ta là ngày chị em mạnh lành vui vẻ, ngày ấy là ngày mà Đức Lý Giáo Tông ngự bút để lời từ đây cho đến khi người phụ cơ thì nội tình mới ổn. Vì người đã bỏ Hội Thánh ta trong khoảng không dài, mà cơ khảo thí tinh vi làm cho ai cũng đau lòng rối trí.
Người là Người Quyền Pháp trong buổi Tam Kỳ nếu ai đã phạm đến ân oai nầy làm sao thấy được hòa bình xán lạn, nên người chúng ta có tội nhớ cầu xin ở nơi Ngài.
Vậy đồng tâm mà nguyện thỉnh ngài trở về cùng chúng ta để lòng chúng ta được sống lại.
Hôm nay chị em có lòng kính mến Bản Nương mà hội họp về đây cử lễ kỷ niệm gọi chút nghĩa đồng đức đồng tình trong sứ mạng. Bản Nương không gì hơn tỏ lòng mừng vui cùng hứa với chị em hễ chị em còn lo đạo lo tu thì còn có tôi dọn đường đưa bước chị em trở về với Mẹ. Chị em ôi! Nữ phái chúng ta còn thiếu phước, người có tài có đức thì cũng chẳng được mấy người. Dòm quanh ngó quẩn, đi lại cũng vỏn vẹn bốn cô Giáo-hữu, hai ba chục chị Lễ-sanh, lo đó thiếu đây mà đã ít như thế cũng thấy khó lòng làm tròn phận sự mà bốn cô, cô chống cô chèo mấy mươi vị, vị xuôi vị ngược ……buồn thay! Đã vậy cũng còn trông chờ một số tu sĩ giúp ngặt đỡ nghèo, mà tu sĩ vui đó bỏ đây, trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Thì làm sao sự nghiệp hoàn thành, tương lai có mặt. Buồn thay! Sao chị em chẳng biết thương xót phận mình. Đáng ra việc mười người làm hôm nay một người phải cáng đáng mới phải, trái lại việc một người, mười người làm cũng không xong, không rồi mà còn từ qua chối lại.
Bốn vị Giáo-hữu, các Lễ-sanh và chị em tu sĩ làm sao chớ không lẽ để mãi tình trạng cũ thì cũng khổ cho nhơn sanh, nặng nề cho Hội Thánh.
Ráng lên chứ, cải đổi lòng mình, cải lương sự việc, hòa với nhau, thân yêu với nhau, chịu được Quyền Pháp nơi Thầy quyết hẳn từ rày đừng làm tay sai mà gây sự chia rẽ trong nội bộ trên dưới chống kình.
Chị em gắng nghe lời Bản Nương thì mọi việc xong xuôi, mọi điều tốt đẹp sứ mạng được thành công. Con người của chị em được trở nên đáng yêu đáng kính
Vậy chị em tu sĩ đến chức việc Thiên Ân hoan hỷ khoan hòa ân cần tu học lập công, để chóng thấy ngày nữ phái thành hình mà trángh được ngày mưa tên gió đạn đã vùn vụt tới nơi không ai trángh khỏi! Sao mình đã có cái áo giáp che thân, cái khiên để tránh, mà bỏ đi còn lấy gì tránh, để thoát khỏi tay Thần sự chết. Nói vậy vị gia trưởng cũng đừng buồn! Vì trăm dâu cũng đổ đầu tằm. Lòng trong trắng nghĩ lo Thầy Mẹ cũng chứng, chờ ban ơn khi trọn vẹn, mọi việc cứ yên tâm có Thầy ở trong thanh tịnh. Chia đây để đó cũng là việc muốn của người chớ lẽ đạo quyền Trời thì đồng nhất trong ngoài không sai biệt, cũng nhơn đây mừng chị em ở các thất về chung đón lấy hồng ân mà cũng mừng và khuyên chư tu sĩ Ba, Nhỏ, Thọ, Thanh gắng trong khối chị em nơi mình mà tạo nên Quyền Pháp

PHÚ
Thuyền phước huệ chống chèo qua khúc ngược, gắng cùng nhau xông lướt khỏi sông mê.
Giữ làm sao trên dưới được đề-huề, tròn phận sự trở về ngôi Vô-cực.
Trong nội bộ từ lâu hơi bực rực, sự ở ăn chấp nhất tình ý không hòa,
Sao các em nở phụ lời Ta, ngoài hoàn cảnh xấu xa, trong ruột rà thêm bẩn thiểu.
Đáng lẽ ra một người hư muôn người chịu. Chịu hư luôn mới liệu mới khổ làm sao?
Sống giữa nhau là cốt nhục đồng bào, lo tu học, lo sửa trau cho thành con người giải thoát.
Chưa kinh nghiệm nghe lời chị anh cô bác, để trángh điều phỉnh gạt mà đi lạc theo nẻo ma tà.
Nếu thiệt tu khôn dại cũng cho qua để lòng khỏi yêu ma gây rối loạn
Lời hồng thệ trông có Thầy nhờ có bạn, nhắm tương lai mà cáng đáng việc bây giờ
Khổ đau của bạn phải chia lo, lòng chớ làm ngơ mà chị em bơ vơ thiếu tình thân mật
Nghe gia trưởng đem về lẽ thật, nghe Tịnh Đường, khải mật nẻo thông công
Nghe hộ trì phước thiện lập công, nghe giám đốc mở lòng khai trí
Rồi nghe bạn những lời tùy hỷ, rồi nghe lòng bày chỉ lẽ hơn thua. Ráng mà tu, tu phải ganh đua, đua theo đạo mà tiến chớ sút thua rồi hối hận
Mẹ đã thương ban hồng ân mà độ dẫn thì phải lo các tận sở năng
Thôi nhiều rồi, đồng cũng mệt các vị cũng mệt
Mọi việc tạm yên chờ cơ khảo thí hạ xuống sẽ sắp xếp lại. Bây giờ người nào phạm nặng, phạm vừa chờ ngày phục lệnh, phạm ít ít lo mà sám hối quì hương, phạm không ai thấy ai nghe thì xin Thầy mà thật lòng giải thoát,
Còn nhiều việc nhưng không phải việc của Bản Nương. Vậy xin vui mừng và để lời chào Hội Thánh và chị em đàn nội. Bản Nương xin kiếu.

BÀI: 6 NGHI THỨC THỜ PHƯỢNG LÀ THEN KHÓA CỦA PHÁP MÔN
Tịnh Đường. Ngày 18-11- Tân Sửu
25-12-1961. Đại Đạo 36

THI:
Cao thấp cần chi phải biện bàn
Đài Tiên là chỗ Phật thường sang
Tiên cơ nhờ học thông sanh tử
Ông bão lo tu để hưởng nhàn

Chào các đệ tử.
Thầy mừng và có lời ban khen, Thầy miễn lễ các đệ tử ngồi nghe. Từ đây Thầy đã ra riêng cho các đệ tử nơi nầy một Quyền Pháp, gắng lòng cần tu khổ luyện để trước độ mình sau độ người, mà kết thành một tràng Đạo pháp thường tịnh thường thanh, năng tạo năng hóa theo với máy Trời, sớm chiều thung dung, bất cứ ở trần hay ở Tiên, không thấy đâu là tham nhiễm chướng ngại.
Thầy luôn luôn theo lời nguyện của mỗi trò mà dìu dẫn ra khỏi chốn phàm trần, song các trò còn mới mẻ quá chưa cảm thông được ý Thánh cơ Trời, đức tin phải như sắt như đanh mới vượt ngoài vòng vây của tà quái.
Thầy cũng mở cho các trò một vài thắc mắc ở lòng mình hay ở nơi bè bạn. Then khóa của Trời là cơ mầu nhiệm Phật Tiên được thanh tịnh mà ứng hiệp với lòng Trời, nên sự bí mật của Thiên-cơ Phật Tiên đều đoạt được, cơ bí mật là then khóa để giữ gìn những bão vật đặt trong mỗi phạm vi. Như của cải của một người đặt ở vườn là thanh ba đẳng vật, đặt ở nhà là dụng cụ cần dùng, đặt ở buồng the của sang đồ quí, đặt ở rương gói, trong đó là châu báu. Nên vườn có ngõ để rào kẻ gian, nhà có cửa để phòng đứa tham, buồng có ngăn để giữ gìn của quí. Hễ mở ngõ được thì vào vườn, mở cửa được thì vào nhà, mở ngăn xong thì vào buồng, nên mỗi nơi đều đặt cho nó một ổ khóa. Ổ khóa này khác với ổ khóa kia, người vào ra tự do là người con trong nhà hay tôi của chủ người ấy có được chìa khóa đã trao.
Vì vậy hôm nay các trò cũng như khách thiện duyên sắp đến mà muốn vào nhà Thầy, muốn thay thế quyền Thầy mà tiêu dụng của cải của Thầy là phải biết được then khóa nhà Thầy. Mở được then khóa nhà Thầy thì phải có chìa, chìa ổ ngoài không giống ổ trong nhà, trong nhà khác xa ngoài ngõ. Vì vậy muốn qua mỗi chỗ phải có mỗi phép nguyện mà đạt Thiên-cơ. Vì vậy từ Công-truyền bước tới Vô vi, mỗi mỗi đều có phần sai biệt, sai biệt đây là từng đợt của nấc thang, của những lớp tuồng chớ không phải Vô vi không dính liền với Hữu-vi, Công-truyền khác với Tâm-pháp. Hễ học mãn chương trình cấp trung mới sang cấp đại. Trung với đại cách nhau một lằn gạch mà thôi, lằn gạch đó là chìa khóa mở đường tiến Đạo, ai có bài sách cũng không sao cải đổi được luật Thiên-điều. Vì vậy sự thờ phượng theo Vô vi ấy là một chìa khóa để cho những người trọn tin mà hòa đồng cùng pháp Đạo. Vậy từ đây đi cho tới nơi cứu cánh trọn vẹn, phải gặp nhiều gay go, mà gay go đủ cách không lường được các gay go đó đâu phải một gay go như bước đầu vào cửa ở đây đâu!
Vậy các trò cố gắng và cẩn thận, phải luôn luôn chịu đựng cho quen các sự khổ hạnh bằng lòng hay bằng việc, để mà đương đầu mọi sự thử thách lớn lao. Hạnh chịu đựng là hạnh của người tu, mà người tu là người chịu đựng, nên dễ bề thành công, dễ lòng thanh tịnh, song ít người làm được công đức yên lặng mà khiến cho lòng họ sóng gió gập ghềnh, lúc nào cũng chạy xuôi theo hoàn cảnh mà lòng thường loạn sanh dục khởi, nên lúc buồn lúc vui, lúc cười lúc khóc, cười khóc không phải tự ý thức sanh mà hoàn cảnh sanh mới khổ. Hôm nay các trò là người cũng đã sắp gần Thầy thì mọi sự đối xử như cha với con, như Thầy với trò, như anh với em, đồng tâm đồng đức không cần biện luận dông cương, không dùng xã giao khách sáo, mà là dùng theo số học một với một là hai đáng việc trò xin, phải lúc trò nài, trúng Đạo Thầy cho trái Đạo Thầy la Thầy dạy để uốn nắn con người phàm phu của các trò cho thành Tiên tử. Phàm phu thì hay tham cầu ích kỷ, ưng thích theo ý dục vọng khỏe vui, nhác tu mê ngủ, mê ăn, ham chơi ham sướng, vì thế mà hư thân, bởi thế mà Thầy cần phải dạy, các trò nên đạt hết lòng tin.
Từ đây lấy hai đồng tiền làm Thánh ý, để họp lòng Thầy, để trángh điều dục vọng ở con người còn tục của trò, để trángh các mối độc tài, các lời khôn lanh của tà quái xen vào làm cho Thánh ý nhơn tâm chống trái, ngoài ra muốn học hỏi muốn cầu gội điển lành, muốn sống trong hồng ân lân mẫn thì cầu Thầy việc đó cũng nên. Còn về cơ sở này làm nơi gặp gỡ giữa Thầy và Quyền Pháp của Thầy là điều phát tâm chính đáng. Song gặp được là ở chỗ biết sữa mình, biết giác tỉnh cải tà qui chánh, phải nhẫn-nhục mà yêu mến nhau cho trọn, phải Từ bi mà tha thứ cho kẻ chống nghịch Pháp Quyền. Phải bền dẻo để bão vệ cơ chỉ nhà tu. Đó được thì hạt giống nầy sẽ chỗi sống mà nức nở quả kết bông đơm, mưu sinh cho vạn đợi, thước mực cho muôn người, mở cửa sanh môn lấp đường tử lộ. Công đức xây dựng nầy Thầy gởi đến lòng thương yêu ban cho những trò góp công đóng cũa, sớm gieo mình trong nước Trời, đó là dọn đường để gặp Thầy đạt Đạo. Thầy mừng và ban khen, song đã làm được lành thì hưởng được phước lành cho trọn chớ vì một cớ nào để cho hạt giống ẩm, công cũng hóa ra không công. Còn các trò cũng nhớ rằng Đạo cao ma cao, từ đây còn nhiều khảo thí, lòng các trò khi thẳng khi dùn, nhưng nên nhớ cây tuy chắc song phải ngừa loài mọt.
Việc của Trời làm là quảng đại không che, song bởi lòng người còn vô minh chưa đạt đến mới nói qua nói về. Thầy cũng cho biết luôn mỗi kho tàng Tạo Hóa có cái đã hiện sớm hoặc mới hiện hay chưa hiện, còn biết bao nhiêu sự ẩn vi. Thầy nắm một chùm chìa khóa, các phần Hữu-vi chỉ giữ một mà thôi. Cũng có kho tàng các trò chưa thấy được, như pháp Công-truyền, pháp Vô-vi hay pháp Trung Hưng sao ý người thấy được. Mà đặt vài câu hỏi: Trung Hưng chánh pháp có cần phải có con người giác ngộ? Con người tầm Tiên Đạo, con người phá chấp thuần chơn không? Nếu cần có con người ấy để cùng Trời làm việc ấy thì kẻ chê bai ngăn cách là thành phần nào?
Thôi, mọi việc trọn đủ. Thầy đến đây ban ơn cho các trò và cũng khai đường mở lối cho các trò gặp Thầy. Thầy lại cho chư Thần đến ở chung cùng các trò mà hộ trì cơ sở chánh pháp.
Rồi đây các trò sẽ gặp gỡ những đệ tử của Thầy, giữa sự cảm thông đó là để làm cho trọn phần Hữu-vi, song sứ mạng ngày này Thầy đã sắp đặt cho mỗi trò có một phần đặt biệt, ngày giờ chưa tới Thầy chưa tiện nói ra, sau này cũng phải có một qui thống công đồng thì Đạo Thầy lẽ đâu chia ra làm hai chi nhánh.
Vậy các trò là người có trách nhiệm, ráng tu để được xứng đáng.
Thầy ban ơn, Thầy thăng.

BÀI: 7 ĐÃ LÀ NGƯỜI TU THÌ PHẢI TÂM ĐỒNG Ý HIỆP
Tịnh Đường. Ngày 11-12- Tân Sửu
16-1-1962. Đại Đạo 36

THI.
Bão ai gắng chí đến thành công
Ngươn hội Thầy cho để cảm thông.
Chơn thiệt lòng rồi Ơn Phước đến
Tiên cung trở lại được vui lòng.

Bản Thánh mừng các Hiền hữu.
Nơi này được hình thành một cơ sở chánh pháp Vô vi, nếu không phải nhờ ở sự vận chuyển của Thầy và lòng cố gắng ở anh em thì sao công cuộc mở đường độ rỗi bắt đầu sáng lập được.
Các Hiền hữu đã lắm công trình tu học trong thời dĩ vãng được cấu thành nhiều mối thiện duyên, nên mới thắng mọi trở ngại mà tiến lên một bước khá dài, song vạn sự khởi đầu, đâu phải dễ dàng đến thành công mà còn trăm ngàn cố gắng, cố gắng đối với mình, với lòng mình, và hoàn cảnh chung quanh. Mỗi một sự lạ hiện ra là một trào xôn xao nghị luận, kẻ nói phải, người nói không, nếu thiếu sự tự tin ở lòng thì cũng làm cho giác quan của ta phải mệt sức đào sâu trong óc não mà tìm lấy phải không. Cái lòng tin tưởng của mình đặt vào đâu mà gọi thiệt gọi hư, nói chơn nói ngụy? Nếu không phải do lòng giác ngộ, do nhiều nhân duyên đã tụ tập thì làm sao nhận xét cho thấu lẽ mầu-vi. Nên Bản Thánh muốn đặt mối hy-vọng nầy vào ở các Hiền hữu có một lập trường bất di bất dịch, thì sau này mới khỏi biến hoại theo thời gian.
Bản Thánh sẽ hộ trì và dẫn đường trong khi lòng các Hiền hữu rối mờ khó giải.
Bây giờ công việc lớn lao mà ít người đảm đương, gánh nặng đường dài đâu dễ một vài người làm xong, mà dẫu nhiều người thêm vào cũng chưa phải đủ.
Nếu làm xong việc lớn là ở tâm đồng ý hiệp, sau trước một mối suốt thông, mà đã là tu, đã là giải thoát thì đâu còn nói danh lợi thị phi? Không danh lợi thị phi thì sao tâm không đồng ý không hiệp? Được vậy rồi khó cũng thành dễ.
Đây cần có một Quyền Pháp mạnh lành, Quyền Pháp ấy do ba phần: Ở Trời, ở mình và ở Chơn Truyền Đạo pháp. Song ở Trời, ở Đạo pháp chưa quan trọng bằng ở lòng mình. Mình xong muôn việc đều xong, mình có mọi người mới có. Vì vậy ở mình cốt là phải tu, phải luyện, phải làm mọi công vụ sứ đồ, phải điển hình con người đạo đức, phải hết lòng vui đón các sự chỉ bày bằng sự hân hoan, làm sao đây để được chánh pháp hoàn thành, công cuộc Trung Hưng đáng mặt. Nếu không cân đo cho đúng lượng thì nền giáo pháp sẽ luân lưu theo hạ trí, cơ tận độ khó khăn.
Ai đã cảm thấu đường lối Trung Hưng, nếu một thiên một chấp thì ai cũng như ai, đâu làm được người Bồ Tát canh tân, mở một kỷ nguyên huy hoàngg cho vạn thế. Phần này các Hiền hữu sẽ được nếm trong các bữa tiệc
xuân hạ gần đây, mùi vị thơm ngon trên các hương hoa đã có.
Về phần xây dựng nầy nhờ lòng hộ Đạo của anh em, điều ấy đáng ghi công nên mở đường lần chơn cho người tầm Đạo. Song lập ra dễ, giữ gìn khó. Ai là người chủ trì lãnh Đạo, ai là bạn đồng đức đồng hành, ai là khách chiều sớm cậy tin, ai là trò tương lai kế tiếp. Bởi vậy kỳ đi nầy các Hiền hữu sẽ cảm thông rồi về mà lo sắp đặt.
Việc sau này về sự liên đới giữa Chiếu Minh thì hiền hữu Trần Cư lãnh phần trọng hệ đó để tương lai thành một con đường. Về sự cầu nguyện cũng nên xin một hiệu đàn để dễ sự thông công.
Mọi việc còn nhiều phải lo sắp đặt. Công việc hằng tháng, tối yếu cầu một kỳ đàn để biết Thánh ý chọn một ngày để giữa Bửu Tòa không dẫm chân trở ngại.

BÀI:
Thanh thanh nhẹ bước đường về.
Sớm chiều giải thoát đề-huề biết bao
Nói cao thì đó là cao
Nói trên giản dị biết bao cảm tình
Một lòng tu học kiên trinh
Một thân thanh tịnh cao minh hòa đồng
Có gì luận của tranh công
Vô tư vô lự Thần thông nhiệm mầu
Ra vào nương cậy với nhau
No lòng đạm bạc cơm rau thanh nhàn.
Mênh mông Trời Đất thênh thang,
Cổ kim Hiền Thánh rảnh rang luận đàm.
Bốn thời tu dưỡng thân tâm,
Dâng hương cầu nguyện gia lâm xa gần.
THI ca hòa điệu tinh thân,
Để cho kẻ trái người thân cảm tình.
HẬU tiền hiệu lịnh cho linh,
Công kia việc nọ phận mình sao đây.
SINH ra phụng sự Đạo Thầy,
Tịnh tâm được ngộ vẹt mây thấy Trời.
CƯ nay thấm thía mùi đời,
Quyết đi về Đạo thì người hoan nghinh
TOÀN tâm xây dựng móng nền,
Để rồi kiến trúc đài đền cho cao,
TUYẾN còn suy nghĩ làm sao,
Thuyền từ gặp nước mau vào Bồng Lai.
ĐÁNG khen nhờ biết cầu nài,
Minh minh bạch bạch Cao Đài nơi tâm.
NAM-bang Thượng Đế giá lâm.
May duyên gặp Đạo chí chăm từ rày. (sẽ tiếp)

Về việc hành trình của các hiền, sự đi cũng tốt đep, muốn khởi hành độ bãy tám thì có Thần linh giúp sức. Song nên nhớ rằng muốn nhập gia nên tùy tục để được mọi sự khỏi dây dưa. Sứ mạng Trung Hưng còn nhiều hứa hẹn mà cơ khảo thí cũng vẫn mãi để thử lòng. Việc vào đó sẽ đón, Thầy chỉ phán.
Bản Thánh mừng các Hiền hữu và chúc lên đường thành công. Bản Thánh xin kiếu.

BÀI: 8 TU C ẦN CÔNG PHU BỐN BUỔI THƯỜNG XUYÊN, ĐÚNG GIỜ
Tịnh Đường. Ngày 13-01- Nhâm Dần
18-2-1962. Đại Đạo 37

THI:
Đại thừa gắng chở hết quần linh,
Giác tỉnh cho nhau để giữ mình,
Kim thạch dặn người tu phải quyết,
Tiên đơn luyện được mãn công trình.

Chào các Hiền!
Giờ này Bản Thánh đến vui mừng tiết xuân dương đã thành công cho vạn vật, thành tựu cho chư hiền.
Công cuộc kiến thiết một lâu đài Đạo pháp, bởi góp nhiều công phu ở nhiều ngày tu tập, nhiều sự cố gắng ở lòng giác ngộ. Các bậc hiền cơ, người đã thành công ở chỗ trầm tĩnh thung nhàn. Bất cứ ở lúc bối rối hay bình thường, nên hay hư, người chỉ tin ở sức mình, không cậy mượn vào người, mới thành công chóng lẹ.
Hôm nay Bản Thánh để lời cùng chư hiền, chư hiền gắng công phu tu tập để thành hình một Quyền Pháp mà mở đường tận độ thiện căn.
Tu có công phu bốn buổi chuyển lấy pháp luân ngoài các giờ trên, trong lúc làm hay nghỉ, đi ra hay ở nhà, ngồi một mình hay luận đàm cùng chúng bạn, giữ cho được cái lòng thanh tịnh vô vi. Nếu va chạm nhiều hoàn cảnh khó khăn, đụng các đối phương xô xát, mà lòng giữ bình tĩnh như nhiên, thì lúc đó đã thấy công phu phanh luyện gần thành, đơn khuê được kết, thuốc Thần có đủ cứu các bệnh đời, sáng suốt có thừa biện phân tà chánh, lòng thương hiển hiện, tự đương gánh Đạo cứu khổ toàn dân. Lòng tu không trễ nhác thì nhứt định thành công.
Tu có luyện có phanh. Phanh là chưng nấu đơn tâm, luyện là rèn trau đức tánh. Phanh luyện mà không lo quả Đạo khó thành, lo mà Thiên chấp một phần thì không phân thanh biện trược được.
Nên pháp tu trước dụng võ sau dụng văn. Võ để thâu tàn chơn khiếu, nung nấu phách hồn. Nếu không dụng võ thì cửa tam quan khó nỗi suốt thông, thập nhị trùng lầu làm sao xoi thông cửu khiếu. Nên kêu bằng luyện bằng chưng, chưng là riu riu cho lửa tam muội được điều hòa. Luyện là vận dưới lên trên rút hơi làm khí. Phanh luyện là một phần làm Thánh làm Tiên mà còn phải gia vào công phu tịnh định.
Có tịnh định thì Thần hồn mới nhập vào cảnh yểu yểu minh minh, có tịnh định thì căn trần mới lần hồi cắt sạch. Tịnh định để diệt cái bản ngã vô minh. Phanh luyện để quy họp để điều hòa kinh lạc dưỡng sanh tánh mạng.
Tịnh, luyện mới chỉ hai phần. Phần thứ nhất Phật gọi là thiền, Nho gọi là lự, Thánh kêu là ngộ. Thiền để ôn tập cho trí lự thông đạt huệ căn, thiền để hòa đồng cùng vạn vật. Thiền để gánh lấy sứ mạng Trung Hưng. Nếu ba điều này không tu được thì chỉ thành cho thân? Chứ không sao thành cho Thiên hạ.
Muốn thành cho Thiên hạ trước phải thành được con người của mình, con người không danh không lợi, không hữu không vô, người đắc được Đạo nhiệm mầu tóm gồm đủ ba tài bốn đức. Đạo ấy vô thượng thậm thâm, đủ đức đủ phương che chở mẫu mực.
Nên xưa các bậc Tiên Vương đại biểu cho Đạo Trời làm mực thước cho nhơn luân, lấy thân vô ngã mà chở che trăm họ, đem lòng thân cận mà giáo hóa trăm quan. Nghiêu truyền cho Thuấn, Thuấn trao qua nhà Hạ nhà Thương, đắp bồi dặn dò lấy một chữ Trung mà an dân trị quốc.
Chữ Trung là cái Đạo nhiệm mầu, Đạo ấy làm khưu niếu cho Vũ-trụ Càn Khôn, nó là thiện căn chơn thiệt, nếu xô qua thì một sắc một không, hay nhích tới thì một hư một thực? Vì lẽ xa mất Đạo Trung mà mãi mãi bị quay tròn trong vòng sanh diệt vô thường, nên Bản Thánh khuyên các Hiền gắng mà làm được con người cho chánh pháp Trung Hưng, gắng mà làm xong những trang sử Đạo đang lỡ dở. Làm được chăng là ở lòng. Lòng có một định hướng, hướng chỗ nào thì vào chỗ đó. Ví như hướng qua đông thì thấy biển nước mênh mông, hướng qua tây thì thấy núi chằm chồng chất. Vì vậy cái hướng là cái đặt mình trên địa vị đó. Thánh soi thấy lòng các hiền muốn hướng đến chỗ các hiền đã hướng mà không phương tiện đạt thành. Con người Trung Hưng là con người chung các giới,
con người thân hết cả các giống muôn loài, con người môi giới bắc cầu cho đôi bên gặp được. Con người thao lược phải ở chỗ trung hòa. Muốn thấy trung hòa ở đâu? Là ở lòng thanh tịnh.
Về việc khảo thí vừa qua và sắp đến, các hiền bình tĩnh mọi việc ở Thầy. Nếu lòng ta nghiêng ngã sai lầm thì nhất định hư hao, dầu có một thế lực nào cũng không giữ được. Các hiền cứ yên lòng, đường xa gánh nặng mà có người sang sớt cho đôi phần, thì đâu phải việc khó mà việc mừng. Còn cơ sở Vô vi lúc nào cũng Vô vi tồn tại.
Bản Thánh hôm nay điều độ, quyết chẳng cho kẻ nào xô ngã được cái mống trên Trời, lôi các ngôi sao bên Nam về Bắc. Nếu được chỉ có thể phun mưa khạc gió, ngăn sự trông coi của kẻ dưới trần, hoặc thổi mù giăng mây, che sự hiển hiện mà thôi. Sự khạc gió phun mưa, giăng mây thổi mù cũng là việc nhứt thời, chứ đâu ngày nào đêm nào cũng như thế. Mãi như thế thì làm sao cho khỏi trăm họ oán hờn, ai không buồn không bực cho mây mưa đó.
Thôi Bản Thánh chào và ban cho các hiền một năm vui khỏe lo tu. (Thăng).

BÀI: 9 KHÓ KHĂN CŨNG LÀ ĐIỀU MAY MẮN CHO NGƯỜI TẦM ĐẠO
Tịnh Đường. Ngày 8-2- Nhâm Dần
11-5-1962. Đại Đạo 37


THI:
Bão lấy từ đây một chữ đồng,
Ngươn thần sáng tỏ, được toàn thông,
Chơn thành mà đón Ơn Trời đến,
Tiên, Phật là ta gắng lấy lòng.

Bản Thánh chào chư hiền đệ ! Hôm nay, ngày Thánh Đản Phật Thích Ca xuất gia, vào cảnh u-tịch thầm mặc cầu lấy
Đạo nhiệm mầu. Nơi đây các Hiền đệ cũng nối gót theo người mà cầu lấy quả Đạo Vô vi.
Song mới đặt chân trên nẻo vạn đồ đã gặp nhiều khó khăn, lòng các hiền hóa nên lo lắng. Lo lắng để mà trù liệu bước đi, chuẩn bị gánh hành trình được thêm đầy đủ.
Phước thay! Lành thay! Cho duyên đẹp căn đầy mà đón được ơn lành đầy đủ. Ơn mà Thầy cho các hiền đây tưởng cũng một sự lân mẫn của Thầy! Nếu không vì một lời hứa, một sự vận chuyển trong cơ tận độ của Thầy, thì đâu dễ các hiền lấy lo lắng khó khăn mà đủ làm phương tiện trên đường cầu Đạo Vô vi.
Khó khăn lo lắng, kẻ thường ở đời ai cũng chê cũng sợ song đối với người tầm Đạo lo đời, cũng là một sự may mắn cho mình. Các hiền đừng nghĩ sự an vui là hạnh phúc. An vui chính là cái họa ở trong đời, kẻ chun vào sau khi ra là ô uế. Người sáng vào, khi ra bị tối tăm. Nên Thầy không ban cho các hiền bằng sự an vui, mà để cho vào con đường khó khăn dễ dàng giữ thân còn Đạo, chớ không phải là tai họa buộc ràng.
Thuốc độc là món giết người, mà trong đời hỏi mấy ai chết vì thuốc độc? Mà ai ai cũng chết vì an vui vô kể! Kẻ đi trên giá mỏng, nhờ cẩn thận được yên lành, thuyền chạy nơi khúc sâu vực thẳm, nhờ cẩn thận mà an toàn. Xe lái trên đồi dốc quanh co không đổ, mà tai nạn xảy ra nhiều nhất ở đường bằng lối dễ.
Các hiền chưa đắc được cái Đạo Vô vi, nên hễ gặp khổ thì buồn, gặp vui thì đắm. Vậy muốn làm xong sứ vụ, để tái tạo cuộc đời là phải ân cần dè dặt, cẩn thận từ việc từ lời. Lời thốt ra phải được hoằng pháp lợi sinh, bằng vô ích, dẫu ai có mua bạc vạn tiền ngàn cũng không mở miệng.
Mọi sự xảy đến cho các hiền là mọi điều may mắn cả! Nếu trên đường này có kẻ hiểu lầm là cầu danh bán đạo, cũng bình tĩnh mà đợi thời gian. Vì đã không biết lòng nhau thì còn nói đi nói lại làm gì. Phương chi dầu cho biết ruột biết gan đi nữa mà cảnh xoay thế ngược, dẫu ai dễ thấu nhiệm mầu. Nếu không bởi cái oái oăm bí nhiệm kia thì tại sao tình Đào-viên kết nghĩa, sống chết trọn thề, mà rồi Quan Công Hầu phải bị Trương Dực Đức hung hăng cự tuyệt? Xét ra cũng bởi hiểu lầm!
Trong lúc cơ thế đổi thay, Dực Đức nghi lòng Quan Công vì vinh ba mà hàng Tào bỏ Hớn.
Cũng thế này mà áp dụng, thì ai không cho các đệ vào Chiếu Minh là bỏ sứ mạng Trung Hưng.
Nỗi lòng này, nếu trên không có thiêng liêng Quyền Pháp đưa đường, thì các đệ cũng ráng cổ ráng lời để thanh minh biện bạch, đặng gỡ xấu tranh hơn, thì công vụ sứ đồ cũng chưa xứng đáng.
Hễ vội vàng thì hỏng việc.
Trễ một đời là trễ muôn đời.
Bởi vậy, Thị Kính hàm oan, ngậm miệng im hơi, đến chết cũng không hề than thở, nhờ vậy quả Đạo mới tròn, gương trong mới sáng. Các đệ gắng lấy lòng mình, còn khó khăn, còn lo sợ.
Lo sợ thì được bình yên. Gắng lên hội này có phần tốt đẹp.
Nay bất kỳ là ai, đã có mắt xanh nhìn thấy lẽ thật là đâu, thì mạnh mẻ vứt cả danh vị lợi quyền, đem thân phụng sự lẽ phải, đâu vì tình riêng lợi nhỏ, hay vì cái gì mà quên lời sứ mạng, chối phụ ơn Thầy.
Xét thấu đôi phần: Phần nào vì sứ mạng thiêng liêng.
Phần nào vì ý người lòng tục, thì đâu có gì phải suy nghĩ. Chỉ có gan hay thiếu gan, chứ Quyền Pháp rành rành.
Lời thiêng liêng đã dẫn dạy từ lâu. Chỉ có tu là trọn. Thôi chào các hiền.

BÀI: 10 MUỐN CHỨNG NGỘ PHẢI CÔNG PHU KHẮC KỸ PHỤC LỄ..
Tịnh Đường. Ngày 27-2- Nhâm Dần
1-4-1962. Đại Đạo 37

THI:
Lữ hành chờ đợi, đợi chờ ai.
Đồng sức nhau lên gắng lấy nào
Tân pháp khác không phần cổ pháp??
Giáng thăng rõ được mới là cao.

Lão Tổ chào chư hiền Sĩ. Giờ này Lão Tổ đi qua, nghe tiếng cầu mời Tiên,
Phật. Lão ghé lại để ít lời gọi chút công quả khải mông về đường pháp Đạo.

BÀI:
Trước sứ mạng vô cùng cấp thiết.
Giữa nguy cơ khốc liệt lắm rồi
Phương chi cứu vãn tài bồi
Để cho nhơn loại đứng ngồi được yên.
Ngày thế giới thất điên bát đảo.
Buổi Đạo Trời tái tạo hồi sinh.
Từ lâu Quyền Pháp nơi mình.
Thầy ban để thiết hòa bình nơi nơi.
Cũng trách cho lòng người xuôi ngược
Cũng buồn cho vận nước truân chuyên.
Hóa nên chánh pháp chinh nghiêng.
Chia manh sẻ mún đảo huyền mà lo
Bây giờ đâu ai trò đạo đức .
Bây giờ đây ai thực lòng tu
Giờ đây ai vẹt mây mù.
Giờ đây ai gắng công phu hoàn thành
Ai là người quên mình vì Đạo.
Ai là người hoàn hảo vô tư.
Để toan lái chiếc thuyền từ.
Đưa người lỡ bước bây chừ ngẩn ngơ.
Nền Đạo mới trong cơ khảo thí
Kẻ Thiên Ân thiếu chí mờ tâm.
Gây nên muôn sự lỗi lầm.
Con đường tận độ tối tăm mịt mờ.
Nếu lần này trong cơ chọn lựa.
Mà không lo lời hứa trọn lòng.
Cõi Trời đường Thánh khó mong.
Mà còn hình phạt giống dòng điêu linh.

Thôi Lão có mấy lời khuyên các Hiền-sĩ gắng lấy công phu học Đạo, tâm được thuần chơn thanh tịnh thì Ơn Phước sẽ đến, làm cho con người ta có một sự cảm thấu sứ mạng mà đặt lòng đảm đương, đặt phần bão đảm.
Bây giờ Quyền Pháp của cơ cứu chuộc lần này, Thầy để dành mà trao cho con người đã chứng ngộ Đạo pháp bằng công phu khắc kỷ phục lễ, bằng sự xá thân cầu Đạo, thì cơ tái lập sứ mạng mới hoàn toàn.
Vậy bây giờ đây các Hiền cốt nhất là đặt mình vào ở công phu luyện tập con người, luyện cái ý cái tình cho chính đoan, có thế tương lai nhân loại mới trông tựa vào mình:
Vậy tóm lại như vầy:

Khoan tính đừng lo chớ nghĩ dông.
Nghĩ lo tính chuyện hóa bao đồng.
Dẫu hơn Thiên hạ đâu là Thánh
Sao được dẫn đầu để hóa mông.
Hóa mông ta phải trước tu hành.
Để được Trời người, được chứng minh.
Lòng đã không không lòng Tạo Hóa.
Bao dung tế độ dẫn quần linh.

Linh đơn là thuốc rất nhiệm mầu.
Thuốc ấy nơi mình chớ ở đâu.
Do bởi công phu cầu giải thoát.
Khi thành đem cứu khắp hoàn cầu

Hoàn cầu khốn đốn đợi chờ ai?
Chẳng phải trí mưu, chẳng phải tài.
Giải cứu nạn đời nhờ pháp Đạo.
Ở người đắc chứng chỗ Tiên thai
Thôi Lão xin kiếu.
Có Trần Nguyên Chất đến chỉ Đạo.

TIẾP ĐIỂN:
Chào chư hiền đệ!
THI:
Đoái lại người xưa nhớ cảnh xưa.
Sao sao lòng Lão hóa không vừa.
Công kia việc nọ buồn cho Đạo.
Trông cảnh tang thương có thãm chưa?

Giờ này Bản quân đến cùng các Hiền đệ là muốn đặt lại vấn đề lo toan để chuộc lại sứ mạng Trung Hưng, cần phải lấy sự giác ngộ làm yếu tố, lấy sự công phu giải thoát để bão đảm cho mọi sự giao ước với Trời và người sau này. Ai là người giác ngộ để làm của chuộc?
Ai là người giải thoát để bão đảm sự nghiệp sau này. Chư Thiên-đồ chúng tôi nơi vô hình hết sức để lòng cầu xin, để lòng vận chuyển, cùng nhau lân mẫn phò trì , dầu sự nghiệp không được vẻ vang bao trùm, cũng để đóng góp một vài công phu vào trang sử Đạo.
Sứ mạng Đạo Trời lần ba có bổn phận đến thế gian làm cho loài người được sống, cõi đời được tươi, mọi điều mọi sự đã có cũng đều được mới. Sứ mạng ấy cao cả biết bao!
Song hiện nay người Thiên Ân gánh lấy phần sứ mạng đó thiếu Quyền Pháp, thiếu công phu giải thoát, thiếu giác ngộ ở lòng, nên hóa ra bước đạo dùn thẳng quanh co, nội tình lắm điều chống trái mờ tối, tai tiếng bay ra, cơ phổ độ không còn tác dụng. Sứ mạng lớn lao kia nếu không phải ở Trời,
thì làm sao đủ sức bao dung, đủ lòng hóa độ, Trời đã chia cho người một phần trọng hệ trong sứ mạng đó, để giữa Trời và người có một khối huyền đồng duy nhất, làm cơ động tịnh, khai hội thăng bình.
Người cũng có quyền, song quyền ấy không vượt ngoài phạm vi Quyền Pháp đã quy định nơi kinh luật. Người không vượt khỏi phạm vi Quyền Pháp là người phục thiện, tháp tùng về với đạo. Người đó gọi là Lương-sanh. Thầy mượn Lương-sanh mà dìu dắt quần sanh, thì Lương-sanh là hàng Thiên Ân lãnh đạo. Người lãnh đạo phải được chứng đạo, thấu biết cơ động tịnh của Trời.
Người Thiên Ân lúc nào cũng nỗ lực cố gắng để xứng mình trên địa vị Thầy ban, hay nhơn sanh sắp đặt.
Người Thiên Ân là tinh ba trong đám nhơn sanh, là người giác ngộ, lúc nào cũng ân cần giải thoát, nên lãnh đạo nhơn sanh là nhơn sanh trông cậy, nhơn sanh nương nhờ.
Tình ấy trên Hội Thánh, dưới nhơn sanh có một nồng nàn thân thiết. Hàng trên là Thánh luôn luôn minh lãnh vô tư, lòng lúc nào cũng chứa chan sự thương đời mến đạo, làm đường cho nhơn loại vượt qua, làm gương cho muôn người soi vào. Hàng dưới là hàng phàm phục, nương cậy ở trên, trông về người trên, vâng nghe mọi việc để được giải thoát, để được cứu độ của Trời. Ơn cứu độ của Trời, Trời phó nơi người Thiên Ân là Quyền Pháp,
Thánh ý ban cho người Thiên Ân là lời ngọc tiếng châu. Nên người Thiên Ân lấy làm quan trọng.
Đạo hư nên bởi đó. Cứu hay không cứu ở chỗ nầy. Vì vậy Thầy mới chia mục đích làm hai phần, phần đưa phần rước, cứu người qua từng giai đoạn công phu. Trong chín phẩm thiêng liêng từ dưới lên trên có một quy trình sắp xếp công phu tu học một cách hoàn toàn công minh, đều do người giác ngộ để giải thoát, cao thấp không do thiêng liêng hay hữu tình ban cho, mà tự mỗi người lo lập vị. Vị cao thì đức rộng, trí huệ còn nhiều.
Nên một chức sắc chia giữ một địa phận nào, làm một việc nào, không phòng lo ngại như các quan viên ngoài đời, lòng còn vô minh danh lợi. Công phu tu học trong chương trình tận độ,
từ lúc nhập môn đến kỳ nhập thất, qua thời nhập điệu để chứng vô sanh, để làm chơn Hiền chơn Thánh.
Người tin đạo lúc nhập môn được Thầy mở trường công quả, để tranh lấy pháp thí-xã mà diệt tham dục, mở lòng Bác-ái mà sống cùng Trời Đất chúng sanh, khi công dày tội hết, mầm Thánh Hiền đã mọc nơi tâm là điều háo nhân lợi nghĩa, người đạo mới có chút hữu minh có tình Bác-ái, không tham, không nhiễm, mới mong giải thoát cầu Đạo Vô vi. Đó là thời kỳ xuất thế, xuất thế là để tìm phương cứu thế.
Kỳ nhập thất không luận Thiên Ân hay Đạo hữu, song về Thiên Ân Quyền Pháp đã buộc là từ hàng Giáo-hữu trở lên đều phải được làm người xuất thế cầu học Thiên Đạo. Kỳ nhập thất phải trải qua một thời kỳ công phu,
hoặc lâu hay mau là do căn trí của người đó mà chứng được quả Đạo, gọi là nhập điệu. Có nhập điệu thi tâm mới minh, thân mới tịnh, tà chánh không lầm, thấu được lòng người thông qua Thánh ý.
Người Thiên Ân Hướng Đạo được như thế thì Quyền Pháp mới tác dụng. Giáo-hội mới sâu rộng lâu dài. Nên sứ mạng Trung Hưng được kết cấu các nguyên nhân các yếu lý và các tinh ba để làm thành Mười Hai Chương Pháp Đạo, luận phân hư thiệt, chỉ nẻo chánh tà, dẫn lại lịch sử khai giáo, nguyên ủy có các phái chi, rồi cho thấy tướng pháp là gì? Tâm-pháp là gì? Cần được nhiếp lại hay phải chia đôi, để cho thấy chơn truyền cứu thế của Cao Đài, tuy nói tả chi hữu dực nhưng mà thể dụng đồng nhất bất phân. Với sự nghiệp này, nhơn sanh đã cùng
nhau hết lòng đóng góp bằng công phu công quả, ai cũng mong xây đắp cho tương lai một nền pháp đạo.
Thầy thấy lòng giác ngộ của toàn đạo nơi này mà ban cho một Hội Thánh, để được ngang hàng cùng các giáo phái, đặng có đủ diều kiện đi lại kết tình huynh đệ đại đồng, nối mối thân hòa, mở đường duy nhất. Sứ mạng đã về, Quyền Pháp đã ban, hễ ai có đức có công thì được dự vào hàng chức sắc. Song than ôi! Quyền mới ban, pháp mới lập, mà nội bộ lấy sau làm trước, quên đạo vì thân, ỷ ngôi cao thế đủ, lòng thêm kêu ngạo, không bình tĩnh cầu chỗ chơn lý sứ mạng, thấy mình có quyền và trí khôn ít nhiều đã lội qua sách vở, ưng thuyết này thuyết nọ, ngó thuyết kia, nên Hội Thánh Trung Tông không được duy nhất tổ chức, sứ mạng bị thâu hồi, các Thánh Thiên-đồ sững sờ, bất ngờ việc làm muốn gần thành công, lại bởi một vài lý do, một vài thù ghét cá nhân mà làm hư cả một cơ đồ vận mạng.
Bây giờ trong Hội Thánh, một số người là các Hiền đệ đây biết ăn năn sám hối, biết cầu giác ngộ để giải thoát quần dân, biết dọn mình nối lại thông công, biết khắc kỷ cầu tu, cầu đạo vô vi độ đời hữu tướng. Chư Thánh Thiên-đồ hy vọng đặt sự hộ trì và mong mỏi ở các Hiền đệ lấy thân mà gánh đạo, đừng mượn đạo tạo đời. Dấu chân của các bậc Hướng Đạo đã qua còn in đó sờ sờ, biết bao người hư hỏng vì cậy mình tài trí, nhác tu biếng học, quy giới sơ sài, khác chi thầy mù dắt cả bầy đui, biết đâu là bờ bến.
Nên muốn cáng đáng việc đời, đảm đương việc đạo, ta nên cẩn thận lấy ta, nếu chưa phải sáng suốt hơn ai, đức còn bạc hạnh còn thô, thì có giúp đạo gánh đời cũng là gây thêm phần rối loạn.
Thôi đồng nhọc, các đệ cũng giữ lấy tinh Thần. Bản quân xin tạm lui.

Trở Lại Mục Lục - Tập Kế Tiếp