THIÊN KHAI MINH ĐẠO AYASANTA Quán Tâm Pháp MẬU DẦN 1998 LỜI TỰA Pháp trần đến với mình là bởi tài sản của mình đang dâng hiến lại, đừng bao giờ đối trị pháp trần . Con hãy biết và mĩm cười để thấy được mình ngày xưa và bình thản cho kiếp nầy. LINH QUANG ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT. Linh Quang giáng điển trần hồng. Dạy chung nam nữ trọn lòng lo tu Cha về nhắc trẻ thúc thu Đạo cao đức cả Diêm phù lần xa. Con ơi ! Hồi tưởng trời Cha, Đáo lai Thầy nhủ luân xa chuyển thành. Đêm ngày con rán tu hành, Thành xong sứ mạng ngày lành Cha trao. Trao con pháp Phật hội đào, Hoàn qui bổn tánh nương vào Châu thiên. Con ơi ! Nhớ cảnh tiền khiên, Đã nhiều tái kiếp miên triền khổ đau. Cha mừng chung ! Các con an toạ nghe lời Cha chỉ dạy. Tất cả những gì con thấy, đâu là cái tâm của mình, các con đã từng biết tâm là một vật vô hình, bởi vô hình nên tướng cũng không, tướng đã không làm gì có sắc, có hương. Cái không tướng, không sắc, không hương, thì sao để các con tầm. Nói có mà không thấy không rờ được, nói không thì tại sao nó chi phối tất cả mọi hành động nhứt cử, nhứt động từ tư tưởng chủ động của đời sống của từng người một. Ôi ! thực hư, hư thực, các con phải hiểu trong cuộc sống nầy đều là hư hư thực thực, các con phải biết luân chuyển lúc nào là hư hư, lúc nào là thưc thực. Vì nếu hư hoàn toàn thì các con sẽ sống trong ảo giả, vậy thế nào để mình biết được để tầm về chơn nguyên. Cái tâm của các con hay tạm nói là giả chủ của con người đều nằm trên sáu căn bản để tạo thành cái biết, cái thấy, cái nghe của con người, nương vào đấy để dụng cái ý thức tiếp giao với mọi vật, mọi việc ở bên ngoài mà tạo thành cái tính sở của con người, nếu không có mũi các con không đũ chức năng ngữi mùi, nếu không có đôi mắt các con không thể thấy pháp trần vật thể, nếu không có tai thì các con không thể nghe được âm thanh, nếu không có lưỡi, không cò miệng thì các con không phát ra được tiếng nói và không nếm được hương vị, nếu không có cảm giác của da thì các con không xúc tác được khi va chạm. Nói tóm lại, trong năm phương tiện nầy phải ắt có và đủ để các con tiếp giao được vật hữu hình, khi nói đến hữu hình thì có màu sắc, hương vị âm thanh tạo nên nhưng nếu nghe, thấy, ngửi… được mà không có niệm thức, cái thức thì các con không thể tạo tác hành động, bởi còn một cái thức, cái thức đó nó giao cảm từ cái căn con người : căn nhãn, căn nhĩ …. Xúc tác với vật hữu ở bên ngoài đưa vào cái niệm thức phân biệt để rồi các con có ý nghĩ tốt xấu, thương ghét… đối đãi ở pháp trần để tạo tác nên nghiệp thức. Có nghiệp thức tốt cũng có nghiệp thức xấu. Trong sáu căn các con chỉ thấy được năm căn còn căn thứ sáu nó vô hình nó mới giao cảm từ cái vô đến cái hữu và nó hợp thể khi các con thọ nghiệp cảm nhận được. Vậy thì cái tâm con người ở đâu ? Nếu đem giải phẩu con người ra thì các con chỉ có trái tim bằng thịt với nhiệm hành máu và vận chuyển máu mà thôi, còn nếu nói đến trái tim có cảm tính thì điều đó trái tim không hề thấy nhưng nếu con người chỉ có trái tim bằng xương thịt thì con người sẽ bị hoại nhưng trái tim cảm tính ấy không hề bị hoại theo. Bởi vậy trong nội tạng con người tạm có ngũ tạng để làm một cái máy vận hành để chuyển thân thể con người phát động cho đúng cái thức trong cái tình chí của con người. Cha nói với các con điều nầy tâm của con người không có nếu con người trang lặng. Trong mọi tình huống và mọi tình huống làm cho con người lăng xăng xáo trộn, thì mọi lăng xăng xáo trộn là tâm con đó. Chính những gì cấu trúc khế hợp tạo nên cái tâm lăng xăng đó là ở các ngũ căn các con. Các ngũ căn các con nghe cái gì vận hành trong bộ máy con người các con để cho nó nghe được, nó phải từ ở trung tâm khu óc não vận thần kinh trong đó khế hợp thần kinh chuyển đến bộ phận tiếp giao âm thanh để các con nghe…..những thần kinh mà khế hợp lại để cho các con tiếp giao được cái nghe không một tạng nào cả mà gồm tất cả các tạng, vì ngũ tạng các con ảnh hưởng đến tình chí các con, khi các con nghe một sự việc với cái tâm phân biện các con lo thì ngay lúc ấy hệ thần kinh vị rung động, nếu các con nghe mà sợ thì thần kinh hệ thận các con sẽ rung động, nếu các con nghe mà vui thì thần kinh hệ tim các con rung động, nếu các con nghe mà giận thì thần kinh hệ can các con rung động, nếu các con nghe mà buồn thì thần kinh hệ phế các con rung dộng. Vậy trong ngũ tạng ấy với tình chí đó với thần kinh hệ rung cảm đẻ đưa đến tình chí đó là cái tâm các con. Tất cả vật bên ngoài đều là hình ảnh tâm các con, mà để vận cái tâm các con ra tiếp giao với hình ảnh bên ngoài để biểu lộ cái tình chí con người là ở ý thức các con. Vậy thì cuộc sống con người cái ý thức là cái đưa con người đến cái đỉnh thật chao động, hiểu được cái ý thức thì ngay bây giờ các con muốn điều khiển cái ý thức, trước hết các con phải có niệm thật rõ ràng kiếp nầy không phải là kiếp đầu tiên mà kiếp thứ bao nhiêu chưa thể đếm được, nhưng các con có thể niệm kiếp nầy là kiếp cuối cùng. Khi niệm được kiếp cuối cùng thì các con phải biết tu chỉnh cái ý thức của mình, vì cái ý thức ấy nó đưa con người đến đỉnh cao hay thấp là bởi cái kho thức tức là kho nghiệp lực của các con bày trong ấy, nếu con nào có diễm phúc cái kho nghiệp lực là nghiệp lành thì các con có những pháp trần lành đến với các con, nếu chẳng may cái kho nghiệp lực ấy toàn là nghiệp dữ thì mọi pháp trần dữ đến vời các con. Khi ý thức được mọi pháp trần đến với mình là bởi tài sản của mình đang dâng hiến lại cho mình, những hành động vô tình hay cố ý từ vô lượng kiếp trước đến nay đã thể hiện lại pháp trần, tức là trong niệm thức tàng trữ mình đã mang đi nhiều đời trong cái kho nghiệp quả, bây giờ đã hiểu được trong con người có thức, một cái kho để chứa tất cả những nghiệp thức của mọi hành động đã gieo trồng cho đến hiện kiếp để chiêu cảm và thọ tưởng pháp trần bên ngoài hầu các con thấy mà vay trả với nhau. Bây giờ các con biết được những cái hữu ở bên ngoài rất là khít khao với những cái niệm mà các con đã làm từ bao đời, đã giữ ở trong cái tàng thức của mình. Trong tàng thức các con đã giữ hình ảnh của A thì lúc nào đó hình ảnh A hịên hữu ở bên ngoài thế gian nầy để các con đối chất trong cái tàng thức, tức thức thứ bảy, các con phải mang theo đó. Cha đã nói cho các con biết được thế nào là pháp trần đối diện với mình, các con đừng bao giờ cho nó là đúng hay sai mà nó từ trong tàng thức thứ bảy các con đem lại cho các con đó. Khi biết được đó là sở hữu của mình các con nghĩ sao ? Các con chưa ý thức được luân hồi là đau khổ thì hãy đấu tranh dành lại quyền lợi và lẽ đúng cho mình, nếu ý thức đuợc sự giải thoát thì ngay lúc ấy biết buông ngay cái niệm thức trong thức thứ bảy vừa khởi ra tức là bỏ bớt một phần nghiệp thức trong cái kho nghiệp thức, nếu các con bỏ mãi đừng đem vào nữa thì chắc thúc thứ bảy của con tự mất. Khi thức thứ bảy không còn thì sự giải thoát các con mới trở lại cái hoàn nguyên vô thức. Thức thứ bảy còn đầy ấp dù là nghiệp tốt hay xấu, nghiệp tốt hành động tốt cũng trở về, nghiệp xấu hành động xấu cũng về, mà còn nghiệp thức nào trong thức thứ bảy thì các con cũng trở về trong cái vũ trụ nầy để các con đối chất với nó. Cha sẽ dạy các con ở buổi học sau từng một trong các thức, căn thể thì các con sờ mó được, căn thức thì vô thể, bởi thế cần phân biệt được căn, thức và các con cũng phải có ý niệm không thể sai lệch được. Tất cả những pháp trần đến với các con là từ trong tàng thức chớ không phải từ đâu hoặc ai đem đến đặt cho ta cả, mà ai đó hay nguyên nhân nào, hay ở không gian hay thời gian nào mà đem đến cho con bởi dụng phương tiện tạo nên việc, tạo nên sự, tạo nên nghiệp để thấy được thức chứa của mình, nếu tu giải thoát mà các con không hiểu cái kho báu ấy mà các con luôn đem vào cất giữ từ kiếp nầy sang kiếp khác, từ việc nầy sang việc khác, cất vào mãi nhưng các con phải hiểu được cái kho ấy không kích thước vì nó không hình thể nên các con chứa bao nhiêu cũng được, từng giờ phút một các con mang vào chứa bao nhiêu cũng đũ hết nhưng chỉ sợ rằng các con cất vào rồi mà lại không biết nó ở đâu để các con mang ra, khi vô tình nghiệp lực đến cho các con thấy rồi các con lại cõng thêm một lần nũa đem cất vào thì cuộc đời các con lộn đi trở lại mãi, bây giờ Cha muốn nói cho các con biết Đức Thầy Ayasasata chỉ nhấn mạnh phần vòng Châu thiên cho các con mà thôi, nếu các con nối được vòng Châu thiên Nhâm Đốc thì các con sống bằng nội tức, khi sống được bằng nội tức thì ngũ tạng mới được khoẻ mạnh, mà ngũ tạng khoẻ mạnh thức thứ sáu mới đầy đủ sáng suốt để định lại tất cả những gì đã nạp vào và những gì cần đưa ra lúc tiếp giao . Khi tiếp giao và đưa nghiệp thức ra đều nằm trên bộ não. Bộ não các con là cái gì ? Là nơi giao điểm thần kinh của ngũ tạng lục phủ, nếu không tạo cho mình một thân thể khoẻ mạnh, ngũ tạng lục phủ sẽ bị hoại, nơi giao điểm thần kinh hệ cũng họai theo mà khi hoại rồi thì nghiệp lực, nghiệp quả các con nó sẽ lộn lạo các con không định được để lách mình bước ra. Cha sẽ phân từng bài để dạy các con, hôm nay Cha chỉ nói thế nào cái ý niệm, cái thân thể và cái nghiệp lực, chúng đến với các con không thể để lệch đi, nên sức khoẻ rất cần để đối trị với nghịêp lực hữu thân và pháp trần đến với các con không thể là hai mà nó là một, những pháp trần đến chậm hay mau, tốt hay xấu Cha mong rằng với sức khoẻ để con kiến trúc và bồi dưỡng được trung tâm hệ thần kinh luôn được đầy đũ sự sáng suốt để đưa con đường tu học các con đến nơi, đến chốn.Cha giã từ chung. Các con có biết không, nếu không có phân định thế nào là tâm thì không thể nào bắt nắm được để tôi luyện cho được thuần dương thì ngày thángg trôi qua tâm thức các con cũng tung tăng nhảy múa như pháp trần và trôi theo ngày tháng sống của cuộc đời mà thôi. Giờ Cha cho các con thấy đựoc, tuần rồi Cha đã nói tâm không ở trong, không ở ngoài, và tâm cũng không ở chính trung nữa, vì nếu tâm có trụ sở tức tâm có hình tướng bởi vô hình tướng nên nó cũng vô sở trụ, đã vô hình nên không thấy phải nương vào chỗ dựa để thấy biết tâm nhưng nó cũng không có sở trụ nên biết tầm ở đâu ? Trong khoa học huyền bí thì tâm đựơc chứng minh là có, muốn thấy được tâm xuyên qua tình chí như có tâm sân, tâm vui, tâm buồn… Trước hết các con định để thấy được tâm các con nương ở sáu căn, như vậy tạm phương tiện Cha nói trong hiện hữu cái thân có sáu tâm ở trong lục căn, tạm định sáu tên ấy qua tên của lục căn, tức tâm nhãn, tâm nhỉ, tâm tỷ, tâm thiệt ….. sáu tâm ấy là chủ tể để phân và điều khiển các tâm mà khi sáu tâm ấy tiếp giao qua sáu thức thì các con cũng biết tâm vô hình tướng thì thức nào có hình tướng nhưng thức nằm trong duy tâm học nên nơi nào có tâm để định được lục trần do nơi thức giao cảm, tạm nói là lục thức cho sáu căn thọ giao được với sáu trần, khi thọ giao tâm, thức, trần thì sau đó những tâm khác bởi chuyển động của tình chí mà phát ra những tâm phụ thì tâm phụ ấy mới điều khiển cái thân phát ra hành động. Cái chánh tâm chỉ có bổn phận tiếp giao với pháp trần nhờ thức, từ tức chuyển động thần căn giao với nghiệp trần qua cảnh còn tác động hành động do tâm phụ chuyển vận, bây giờ muốn khắc chế tâm phụ để tránh đi hành động đúng sai của con người mà bởi tâm phụ phát khởi lên hành động của thân thể để tạo nên nghiệp lành hay nghiệp dữ mà đưa cái chơn thể các con luân hồi mãi trong lục đạo nầy. Muốn thấy rõ và khắc chế được thì các con luôn tỉnh thức trong sáu chánh tâm, khi tỉnh thức trong sáu chánh tâm, luôn luôn định với chánh tâm khi tiếp giao với pháp trần. Khi định được các con mới không phát khởi ý niệm, mà phát khởi ý niệm là bởi vọng tâm tức là tâm phụ các con đó. Cha hôm nay tóm tắt lại những bài học đã qua trong những năm con đã học. Cha chỉ nói cái đoạn mà tâm phụ dấy động lên khi tiếp giao với pháp trần, Cha dẫn các con đi ngược dòng thời gian trở lại những bài học đầu tiên của các con, đó là phần tối ư quan trọng và rất căn bản nếu không đạt được thì các con không thểû nào đến được hoàn nguyên tức là trở lại vô tâm trong hữu cảnh, đó là bài định tâm mật pháp, ở đây Cha chưa nói đến việc hành thiền mà Cha muốn nói ở chỗ khi tiếp giao tất cả pháp trần, tai con phải nghe thật rõ âm thanh, mắt con phải thấy thật rõ hình tướng nghĩa là trong năm căn phải nhận định thật rõ ở pháp trần, thấy rõ ở pháp trần hiện tượng gì theo căn thức của mình tiếp giao nhưng các con đừng định suy nghĩ bàn khi pháp trần xuất hiện, chỉ nhận thấy, biết nghe nhưng không định suy nghĩ bàn, các con nên nhớ phần Cha vừa nói hãy học cho Cha, học bao giờ thì mới thấy được để mới mở ngõ, hãy tầm cho được cái chính con, khi thấy được nó cũng chỉ là bước đầu để chính mình đối diện với mình. Bài thứ nhứt các con cô ghi lại những điều Cha vừa nói, và trì chí thực hành cho bằng được để thấy cái giá trị cũa xã hội biến lẽ, pháp trần mãi sanh sanh và diệt diệt. Mãi sanh mãi diệt để các con mãi tôi luyện, để thấy được và tìm cho được cái con cần thấy đó. Muốn thấy được cái tâm mà tâm bởi không tướng nên nó vạn tướng, vô hình tướng, muốn thấy được cái vô hình tướng của nó thì các con phải đứng ở một không gian, các con phải biết nếu các con đứng ở một vị trí thì mới thấy được biến hoá của nó, cái thấy của các con đứng ở cái thấy vô vị trí nhưng thân các con bởi có thân nên có vị trí, bây giờ Cha nhắc nhở các con vị trí đứng cái thân của các con trong phạm vi trong không gian thanh tịnh. Vậy bài học định tâm mật pháp nầy các con phải định thật rõ cái thân các con trốn cảnh, cái thân trốn cảnh để các con tìm cái thật tỉnh lặng, khi cảnh tịnh lặng cái phụ tâm các con nương cái tịnh lặng ấy tự mất, còn lại cái chánh tâm tự nó khởi tâm khi giao với pháp trần mà được thường hằng như vậy thì các con mới tầm được cái gì ẩn tàng trong lục căn các con đó. Cha ngừng ở đây để các con tôi luyện nếu các con gặp điều gì cần phải hỏi, cần phải thông, Cha cho phép các con bắt buộc đồng tử vào sân trình tiếp điển cho các con vấn, Cha mong rằng trong thời gian ba tháng Cha về để tôi luyện các con, điều thành quả hay không thành quả là ở các con chớ không phải ở Cha. Về phần Cha, Cha sẽ dạy các con tất cả những điều các con thắc mắc, các con khai hoá bài nầy trong ba tháng, nếu các con khai hoá được thì các con đi tiếp và trong bài học các con tầm góp nhặt được gì các con hãy ghi lại kinh nghiệm cho chính từng con một vì Cha chỉ khẩu thuyết chung cho các con, còn thành tài đạt quả tuỳ ở các con huân tập mà thôi.Cha giã từ chung. Những lời Cha dạy trong tuần trước các con có tham khảo và hành trì không ? Bài học không có lớp lang theo như những sự va chạm, những hoàn cảnh xã hội, mặc dù Cha không thể nào sắp xếp cho có thứ tự từ A đến Z theo những nghiệp trần đến với các con dù là không trật tự nhưng với tâm pháp nó đều có thể ứng dụng được tất cả những bài học thực tế đã đến với các con, bài nào các con cũng tiếp thu được nếu các con biết quán tâm pháp. Nghĩa là Cha muốn nói rằng ngoài các con ra các con không có chủ quyền nào đối với người bên ngoài, đối với vật bên ngoài mà con chỉ có chủ quyền đối với con. Cha muốn nói chủ quyền đối với con là khi nào các con đã điều khiển được cái tâm phụ của các con rồi, chính mình chưa làm chủ được cái bản thân mình mà tại sao nói chung tất cả chúng sanh muốn làm chủ tất cả những gì bên ngoài mình. Như vậy có được hay không các con ? Chắc rằng không rồi đó, nếu nói thế phải chăng tất cả những gì bên ngoài thân các con thì đừng sửa đổi mà các con chỉ sửa đổi được cái gì bênn trong các con mà thôi. Ta thí dụ : Nếu các con muốn đi qua phòng kế bên mà cửa đã đóng các con không có chìa khoá, không chìa khoá là bởi các con không có chủ quyền cửa ấy, vậy thì các con nghĩ thế nào trước sự việc ấy, nếu các con tự cho mình có đủ thẩm quyền đi qua cửa ấy thì các con lai dẹp pháp trần, nếu dẹp pháp trần trên cương vị mình không là chủ thì những gì sẽ xãy ra sau đó. Những gì xãy ra sau đó bởi các con gây nghiệp quả, nếu các con thấy rằng mình không đủ tư cách bước qua cửa ấy trong cái chủ quyền của mình thì mình tìm hướng đi của mình và dừng ngay tại ấy là các con quán được tâm pháp biết được pháp trần và mình. Pháp trần nào là của mình và pháp trần nào không phải của mình, nếu của mình thì mình thông được tâm của mình, hãy chuyển tâm. Muốn nói thông tâm tức là tâm và cảnh hợp tình nên khế hợp hoá giải, còn giữa tâm và cảnh đối trị nhau thì các con không nên dẹp cảnh mà quán tâm chuyển tâm. Như vậy có phải rằng trong mọi pháp trần đều không vô lý, đều không vô nghĩa, đều không sai đối với ta, có chăng bởi ta không quay về nội thể để thấy được ta và chúng ta hãy làm đúng trong cái chơn pháp của nó, mà chơn pháp thì có tà pháp, có chơn có tà nên lúc nào cũng đối trị nhau. Nhưng các con phải tìm thấy chơn pháp trước để các con không tạo nên tà pháp, cái chơn pháp là làm htế nào hợp lẽ mình không va chạm đối với pháp trần ngoài mình và mìnhviên thông được tâm thức và pháp trần. Khi viên thông được các con mới trở vè với niệm nhứt, ở trong niệm nhứt các con mới thấy được lẽ vô tâm, khi với cái tâm vô ấy các con mới không có chánh nịêm, không có tà niệm. Muốn đi vào được điều đó thì từ nay các con nhớ khắc kỹ rằng không bao giờ các con đối trị với pháp trần, khi pháp trần đến liền quán tâm, quán chiếu vô niệm ngay mỗi mỗi pháp trần, vô niệm quán tâm, quán chiếu để viênn thông. Đó là bước thứ hai để các con đi về với vô tâm tức vô ngã của mình. Cha dừng bài học ở đây và các con sẽ tiếp nhận từ đây đến một tuần nữa những bài thực tập Cha sẽ trao cho các con. Các con hãy điềm tỉnh thọ học những bài pháp sẽ đến vớ các con.Cha giã từ. Tóm lại, nếu phát khởi ra tình chí con người mà nơi phát khởi ra tình chí con người là cơ quan đó đưa con người đi vào nghiệp lực hay giải thoát, đứng về mặt khoa học nhân thể thì Cha linh hồn các con không đề cập đến mà ở đây Cha muốn nói các con trên khía cạnh tâm linh. Cha muốn nói khía cạnh bất diệt không sanh nên không tử. Còn về mặt khoa học nhân thể có sanh thì phải có tử mà ở khoa học nhân thể chỉ có nhiệm vụ thọ cảm, chiêu cảm là phương tiện tối ưu để thọ nhận sự giúp đở cho sự tiến hoá tâm thức con người. Cha thí dụ : Nếu các con có một nghiệp lực mà không có thân thể để thân ấy thọ cảm nghiệp lực vui buồn, giận hờn, sung sướng, êm ái…. Thì làm sao tâm thức các con ý thức cảm vời tôi luyện thọ nghiệp mà buông bỏ, vì lẽ ấy mặc dù các con tu để giải thoát trong tâm thức nhưng phương tiện nhân thể các con rất cần thiết. Đã biết rằng cần thiết thì các con nên diệu dụng bảo dưỡng cho phương tiện tiếp giao thọ cảm được tốt để tâm thức các con tôi rèn trên đường giải thoát. Như các con thấy trong xã hội thật công bằng và bình đẳng, công bằng ở đây không phải tất cả những người được sanh ra đều đồng một giai cấp, nằm trong đồng hoàn cảnh mà con người sanh ra rất là công bằng do con người tự tạo cho mình một vai trò và một địa vị trong xã hội của mình, không Thượng đế nào, không một đấng quyền năng nào có quyền tối ưu tạo cho một con người nào có địa vị trong xã hội cả, mà địa vị hoàn cảnh để con người vay trả, trả vay cái nghiệp bởi con người tự tạo. Tạo từ lúc nào ? Tạo ở đâu và đến đây tại sao tác động vào con người không hơn không kém, tạo từ đâu ? Tạo từ vô lương kiếp trước từng hành động, từng tư tưởng con người. Hành động và tư tưởng ấy nếu con người không biết hoá giải, không biết thoát ra hành động và tư tưởng mà tự cột ý tưởng mình vào hành động thì tư tưởng ấy tự nó sẽ nhiếp vào mạt na thức của con ngừơi, vì mạt na thức là cái kho chứa đựng tất cả hành động giao tiếp của lục căn qua lục thức để tiếp lục trần. Như vậy có phải lục thức dẩn lục căn ra tiếp giao với lục trần bởi ý niệm con người nghiệp lực và lục thức ấy chuyển nghiệp lực vào mạt na thức để biến đổi con người từ kiếp nầy cộng nghiệp, trả nghiệp để chuyển giao từng kiếp một cho đến những kiếp mà con người sống và tự ý thức. Như vậy trong mạt na thức được ghi nhận do lục thức, mạt na thức không hề chuyển vận hay định nghịệp lực của mình mà mạt na thức chỉ ôn chứa tư tưỡng tác tạo nghiệp lực kiếp sau của mình do ý thức chuyển nghiệp mà thôi, bây giờ làm sao khộng còn có sự chuyển nghiệp lực và tác nghiệp lực vào mạt na thức để chuyển vận nghiệp lực từ kiếp nầy sang kiếp khác. Vậy các chư hiền phải định cho thật rõ tại sao có tâm thức và trí thức cộng thêm nữa là có ý thức, thì ý thức, trí thức nằm đâu và tâm thức nằm đâu, nếu các thiền sinh cứ mãi dụng tâm thức thì các thiền sinh tự cột mình vào luân hồi nghiệp quả, vì tâm bổn là không mà giờ nầy chư hiền về sống bằng tâm thức mà tâm thì ở đâu, tâm thể hiện qua vật hữu hịen có Cha thí dụ cho các con thấy Cha nói rằng : “ Đối với Sương Aya có một ắt thời gian nào đó, cái tâm là cây quạt và cột tâm ấy vào cây quạt nên đến giờ nầy mới có hiện hữu cây quạt ở đây “ Vậy tâm thức con người ở đâu ? Tâm ở đâu ? Ở trên tất cả muôn vật hiện hữu mà khi thức đưa nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân vào những vật hữu ấy thì tâm vô hiệu hoá để ý thức điều khiển chuyển vận tâm đến sự hiện hữu những pháp trần thì đó là tâm gì ? đó là tâm phụ mà nếu các con cứ lấy ý thức vận hành tâm phụ vận chuyển trong pháp trần, tự đem muôn ngàn pháp trần cột lấy thân và thân đời đời là một địa ngục để nhốt chơn thể, một ngôi nhà trống, một thời gian sau ngôi nhà chật cả pháp trần thì các con cũng thấy ngôi nhà mạt na thức khởi đầu không hề có, sau một thời gian sống các con chứa đầy hết niệm pháp trần để rồi chính con là hiện thân của tất cả pháp trần trong mạt na thức các con đó. Tất cả nghiệp lực trong đó có nghiệp vui, nghiệp sướng, nghiệp buồn, nghiệp đau khổ….. nhưng cuộc đời dù vui sướng hay đau buồn cũng đều là trong trần đau khổ, như vậy các con tự hỏi lại mình thế nào để các con thoát ra khỏi cái tâm sanh tử luân hồi. Bởi đang nghĩ đến tâm giải thoát nên có tâm luân hồi, vẫn biết rằng bởi có phụ tâm nên mạt na thức đầy dẫy chứa bao nhiêu nghiệp vui, buồn thì tất cả những cái đó cấu tạo nên hình hài tâm thức các con trong kiếp sống nầy, không ai tạo nên ác con cả, ý niệm tư tưởng được đúc kết trong mạt na thức sẽ cấu tạo thành con người con trong vũ trụ. Bây giờ muốn giải thoát mọi nghiệp lực với tất cả mọi người thì các con phải giải thoát từ mạt na thức chớ không phải giải thoát trên thân tứ đại, không phải các con mặc áo đạo là đã giải thoát xong, các con phải giải thoát trong từng ý nịêm. Ý niệm làm thế nào khi thức giao với trần vì căn thân tự bổn nó thường tự hằng nghe, thấy, cảm giác… và vô phân biện không dấy lên vọng niệm thì nghiệp lực cũng tự không ghi vào. Các con nên nhớ tu cũng là một cái nghiệp lành, một cái nghiệp để giải thoát, tất cả nghiệp trong trần, dữ hay lành đều là nghiệp nhưng dụng nghiệp lành giải thoát nghiệp dữ, khi nghiệp dữ mất nghiệp lành tự nó an như, từ an như ấy sẽ tìm thấy được ánh sáng ở trong mạt na thức, nguồn sáng từ đâu có ? Tự nó đã có ngay từ khi tất cả những gì đã có hiện hữu ở ngoài càn khôn, nó tự có ngay khi bây giờ, giả danh Đấng Tạo hoá, Đấng Thượng Hoàng hay Đấng Mẩu Hoàng, ngay khi âm dương vừa có thì nguồn sáng các con cũng từ đó, nguồn sáng nó vô nhiểm, nguồn sáng vô nhiểm cho nên bao nhiêu nghiệp lực nằm trong ấy nguồn sáng ấy tự nó cũng không phân tán, bởi nghiệp lực che khuất nguồn sáng nên các con tưởng rằng nó đã mất, nên ngày giờ nầy cứ mãi trao dồi nguồn sáng. Các con hãy biết được từng giờ phút một hãy buông ý niệm nên nhớ buông ý niệm chớ không phải diệt ý nệm vì diệt ý niệm nầy thí ý niệm khác sẽ sanh ra, ý niệm tự nó không có mà bởi dục tính con người phát khởi ý niệm. Ở đây Cha muốn nói về dục tính, các con đừng cô đọng chỉ có dục thể xác mà thôi, cái dục tính là Trời sanh ra muôn vạn pháp trần, lấy pháp trần để thi thố dục tính, nếu không có gì đứng ở không không vô Trời Đất dục tính ấy các con không biết nó có, bởi tạo ra muôn loài vạn vật Thầy tạo ra đàn ông phải có đàn bà, bởi có dục tính Thầy tạo ra đàn bà phải có đàn ông để đối trị và thể hiện dục tính, tạo ra âm phải có dương để có dục tính âm dương, các con phải thấy âm dương có sự hút, khí âm dương không hề có dục tính nên sự vận hành âm dương luôn luôn thuận, nếu vận hành âm dương có dục tính trong ý niệm thì vận hành âm dương nghịch lý, để tự nó vận hành phi niệm ý thì mới thụân lý Trời, còn nếu các con cứ mãi vận hành bằng ý niệm thì nếu ý niệm thanh có nghiệp lực thanh, ý niệm trược có nghiệp lực trược nếu các con cảm thọ pháp trần mà không cảm thức nên không có ý niệm thì con người trở thành vô tri. Thọ cảm thức giác biết thời tiết nóng mà không có dụng quạt đối trị thời tiết nóng như vậy con người đạt đến hữu vô niệm. Ở đây Cha phân tích cho các con thấy ngay chính Thượng Đế muốn tiến hoá thì Thượng Đế cũng vẫn cọ xát vào sự vận hành tiến hoá tiến hoá của vũ trụ thì các con cũng thế. Muốn vận hành tiến hoá tâm thức thì cũng cọ máy ý niệm, Cha đã nói các con rằng ý niệm thanh và ý niệm trược, các con vận dụng ý niệm thanh chớ đừng bao giờ diệt ý niệm trược, đã lỡ nịêm trược nghiệp quả xấu đến cứ trả đi đừng diệt ý niệm trược, biết được cứ trả mãi hãy niệm thanh, khi biết mình chưa vô niệm thì từ niệm thanh hãy chuyển hoá niệm thanh đến vô niệm, từ vô niệm các con phát khởi nguồn sáng đó là huệ trí nếu các con cứ mãi vận hành đời sống các con bằng tâm thức, bằng ý thức, bằng niệm thì đời đời ở mãi trong lục đạo. Nên từ nay các con đừng bao giờ khử trừ niệm trược và đừng bao giờ dụng niệm trược vì các con diệt nó sẽ sanh, các con đừng dụng nó thì nó không thao tác được, các con dụng niệm thanh, niệm trược mổi ngày đến với các con qua nghiệp lực, khi thọ nghiệp lực bất niệm cảm dời nghiệp lực, thọ nghiệp lực rồi mất Cha sẽ phân biệt cho các con tại sao dụng niệm thanh là niệm thanh khi đem cây quạt về sử dụng đối trị khí hậu nóng đó tạm gọi là ý niệm thanh, không phải đem quạt về làm của hay khoe khoang rằng mình là người thừa phương tiện, hai niệm khởi để có một vật hữu nhưng một niệm thanh một niệm trược. Khi thức giác đã thọ cảm nên dụng niệm thanh để dụng pháp trần các con hiểu tới đây chưa, nếu các con không biết dụng niệm thanh để dụng pháp trần thí các con là người vô trí, nếu không có thức giác để cảm thọ thì các con trở thành vô giác và mọi pháp trần nầy đều trở thành vô nghĩa đối với con người, khi các on dụng vật trong hữu dụng thì các con đi thuận đạo lý rồi đó. Khi mình đi thuận đạo lý có phải rằng trong niệm thanh tự nó đã có ánh sáng, khi niệm trược đã dứt chỉ còn niệm thanh thì niệm thanh tự nó đã có hào quang, hào quang ấy là trí huệ . Các con đứng ra sử dụng pháp trần trong xã hội luôn luôn sử dụng niệm thanh, hãy dụng niệm thanh nguồn gốc từ trí huệ, nếu các con không có trí huệ các con dụng mãi niệm trược như Cha thí dụ các con sự chuyển giao mọi pháp trần trong trần hạ nầy, nếu nói sợ nghiệp quả và con người cứ mãi co vào một góc độ để sống và chịu đựng rồi đến ngày chết để khỏi có nghiệp lực kiếp sau thì xã hôi nầy đi đến đâu và con người đi đến đâu? Tất cả đều đi đến huỷ diệt, thử hỏi luật tiến hoá con người cấu trúc ra tiến hoá hay huỷ diệt con người mãi ý niệm trược cũng bị diệt mà con người không dám bước vào nhận định và làm việc cho đúng tiến hoá cũng bị hoại. Ở đây Cha nhắc sáu căn các con đừng sợ nó đã thường hằng nghe, thấy, cảm vời để thọ nhưng tất cả muốn biết ở pháp trần nhờ sáu thức, sáu thức tiếp giao lục trần mà các con vô niệm thì không có gì chỉ còn ở niệm khi thức dẫn căn giao trần tâm khởi niệm là các con mở địa ngục, thức có bổn phận chuyển giao căn đến với trần nhưng vô niệm thì Niết bàn tại đó.Cha giã từ. Trong tất cả,
mà
các con đang tu luyện không ngoài cái
tâm dù ở pháp môn nào, dù ở
tôn giáo nào. Muốn thành đạt để phi nhơn
thì chung qui chỉ cái tâm, không phải người
nào bước vào đường tu là không biết chuyển
thức tâm của mình nhưng tại sao người tu thật nhiều
mà người thành đạt được không đủ số để đếm,
các con phải biết khi bước vào đường tu, các con
buông bỏ hết những vật chất quyền lợi, danh, tình, tất cả
những cuộc vui chơi cũng bỏ hết mà tại sao các con cũng
lận đận trên đường tu học ? Suy qua ngẫm lại cũng bởi nghiệp lực
của mình quá sâu dầy, có lúc
các con thật hăng say bước vào tu học thì nghiệp
đau, biết bao chuyện đời, chuyện đạo, chuyện gia đình, chuyện
xã hội, tất cả vây các con và kéo
các con ra khỏi thời học.
Bây gờ chẳng lẽ các con không khắc phục mà cứ chịu thua nghiệp lực mình hay sao ? Nhưng nghiệp lực là phải trả, Cha nói với các con rằng đối với nợ đời kiếp nầy các con không trả, kiếp sau cũng không giựt được nhưng khi nghiệp đến phải trả, các con không hẹn được có thể chuyển được, đối với nghiệp đưa vào mạt na thức của con bây giờ và biến thể ra pháp trần thì các con phải chịu, chẳng lẽ bây giờ tu nghiệp đến các con bỏ tu, vậy đến bao giờ các con mới đi đến sự tu trọn vẹn của mình. Các con càng tu chừng nào thì nghiệp thức vây bủa chừng ấy. Vì nghiệp thức đến với các con là do tiền khiên của những người nào đó cùng với các con đã gây tạo với nhau, hoặc với vật, hoặc với người, lúc nào họ cũng chờ đợi khi con đưa nghịêp thức vào mạt na thức là nơi chứa thức, khi ý thức đối tượng tạo nên nghiệp, con và người ấy nghịêp thức đồng cảm vời thể hiện qua nghiệp trần mà vay trả với nhau. Khi các con đã phát nguyện giải thoát rồi những người ấy để các con tu một cách dễ dàng đến ngày thành chánh giác à ! Vì con người đã thoát sự sanh tử thì họ không còn trở về trần hạ nầy nữa, còn đối tượng nghiệp lực thì không thể nào quán thức vay trả, trả vay tiền nghiệp được thì sao đây ? Cho nên họ trì kéo các con lại trả cái nợ tiền khiên cho xong rồi mới xoá được nghiệp thức đến vô tâm. Bây giờ con bước lên
một bước nghiệp lực kéo con xuống ba bước nữa, nên
đôi lúc mình tự nghĩ đừng tu thì hơn, đừng
tu thì cuộc đời bình yên hơn bước vào tu
sóng gió mãi, nên các con phải hiểu
nghiệp thức không rời được mình. Con bươn nhanh thì
trì con nhiều, con bươn chậm thì trì con
ít, con đứng đó nó ngồi xuống, nó
không rời. Vậy mình chí quyết mình tu cho
nó và tu ngay khi có nó, bây giờ rời
không được thì sao ? Thôi thì cùng tu
với nhau . Cho nên các con đừng ích kỷ tu một
mình, các con ích kỷ tu một mình cũng
không được, bây giờ các con cố trả nợ bằng
các công đức các con hồi hướng cho nghiệp thức
mãi đeo mang mình. Tiếp theo bài Quán tâm pháp Cha đã
chỉ cho các con thấy được cái tâm của mình.
Hôm nay Cha nói sâu về cái tâm con
người bị nghiệp lực chi phối. Tuần vừa rồi Cha nói phần
nhập thế, ở phần lý thuyết dạy các con cư trần,
thân có cư trần nhưng tâm ly trần, các con
phải biết được tâm ở đâu để ly nó, lấy tâm ly
trần, trần ở đây nôm na hiểu rằng là xã hội,
nhưng các con cũng đừng hiểu trần là xã hội vật
chất, trần ở đây là tất cả pháp trần. Bây giờ
các con thấy nếu ở xã hội mà không
nói pháp trần thì tại sao nơi nầy có việc
nầy nơi kia có việc khác, phải hiểu cái xã
hội là cái dung chứa còn tất cả những hoàn
cảnh tạo nên mọi hành động xảy ra….. gọi là
pháp trần. Nếu xã hội không có những vi trần
pháp trần đó dù các con có cư ở
trong xã hội nầy cũng không tiến hoá được. Phải
hiểu trần ở đây Phật muốn nói mọi hoàn cảnh nhiểu
nhương xãy ra hằng ngày, hằng giờ, hằng phút trong
xã hội chớ không phải nói các con ở trong
xã hội mà vô pháp trần thì xã
hội đó cũng vô nghĩa đối với các con, cho nên
các con thấy xã hội lúc nào cũng có
pháp, những pháp thuận, pháp nghịch luôn
luôn phải có. Tại sao có pháp trần ? Các con nên nhớ !
Cha nói lần nầy không phải là lần đầu mà rất
nhiều lần,
cũng như tất cả chư Phật, chư Bồ tát dã dạy các
con. Pháp thiền không phải
là để thành đạo hay
giải thoát, pháp thiền là phương tiện
giúp
các con định tâm, định thần, định trí diệu dụng
thành đến vô tâm. Mà phần để
các con học
và hành đạo là phần tâm thức và
trí thức, vì con người bổn sinh ra mới vừa đủ
thành một đứa trẻ nên con người ấy chưa hữu dụng được. Đứa
trẻ ấy chưa sống theo nghiệp lực của nó, nó chỉ sống
trong tuổi
hồn nhiên tức là tuổi chưa chịu sự tác thọ
nghịêp lực nghĩa là đứa trẻ chưa phải sống để nghiệp lực
chi phối và với tuổi vô tư ấy, cái tâm
trí
ấu trĩ của đứa bé không làm nên nghiệp tội.
Khi
trong thân thọ bẩm đầy đủ khí âm dương để dưỡng cho
tâm trí con người trưởng thành biết thọ nghiệp quả
và biết tác tạo tội nghiệp, chừng ấy chính con
người mới chịu tất cả những pháp trần chi phối. Hôm nay Cha về chỉ dẫn cho
các con lần nầy và tuần sau nữa
thì khóa học “Định tâm mật pháp ” dứt. Sau
khi dứt
khoá hoc Định tâm mật pháp rồi thì
các con cố
gắng về mặt luyện tâm và trí, các con
nghiên cứu bài học và ứng xử để hành cho
có
hiệu quả, vì kết quả hành trì tu học các
con chỉ có cái tâm và trí là
cây thước để đo sự thành quả của tu học, đừng lấy thời
gian làm thước đo tu học, phải hiểu sự tu học là
chỉnh
đốn. ược cảnh, các con điềm tỉnh trong cảnh, soi chiếu tu
sửa xong, tự tạo cảnh để soi lại mình xem mình còn
chút vi tế đối trị nào không, dù hai cảnh
nầy có
khác nhau, cảnh tự đến là bởi nghiệp lực các con,
còn tự tạo cảnh để các con tự soi. Như vậy các con
mới
hiểu được tự tạo cảnh là các con thỏng tay vào
chợ, các con tầm cảnh để soi chiếu, người thỏng tay vào
chợ tức người tầm cảnh, còn người tu lại trốn cảnh. Buổi hoc hôm nay tạm gọi
là buổi học cuối, dù rằng Đức Ayasata có xin với
Quần
Tiên Hội để tiếp tục sau khoá Định tâm mật
pháp về
tâm và chuyển dạy thêm về trí Bát
Nhã nhưng chưa được Quần Tiên Hội phê chuẩn. Đến bao
giờ được tiếp nối phần trí Bát Nhã thì Đức
Tế Công sẽ về chuyển vận giảng cho các con, mặc dầu
nói rằng hôm
nay là buổi cuối, buổi cuối của Cha thôi, còn sự
hành, học
của các con rất dài, nếu các con cố
gắng
bươn nhanh trong kiếp nầy chỉ còn vài mươi năm nữa
thôi, bằng
không cố trong hiện kiếp thì biết đến bao giờ? Cha
nhắn nhủ
với các con con đường hành hoá của kẻ sĩ chậm hay
mau,
ngắn hay dài, rộng hay hẹp, là bởi chí nguyện
mà thôi. Con đường giải
thoát không có chiều dài cũng
không có chiều ngang, kích thước cố định mà
con đường
giải thoát là con đường tâm thức và
trí thức
buông bỏ khi các con cảm nhận được của cải vật chất,
thân
là giả tạm, là phương tiện thì các con mới
thấy được ý nghĩa vô cùng quan trọng và
quí
báu của cái thân và của cải vật chất,
nó
quí báu không chỉ để phụng sự để nuôi dưỡng
rồi
các con chỉ hưởng lạc mà thôi, nó quí
báu ở
mặt nuôi dưỡng các con, phụng sự các con để
làm
một phương tiện cho sự giải thoát tâm và trí.
Các con nên nhớ tâm và trí các con tách ra khỏi những gì các con đã lỡ cột từ vô lượng kiếp đến nay, dùng tiếng nôm na để các con thoát, là vì các con đã vô tình cột, vô tình cột tâm thức các con vào tất cả bằng ấy những tư tưởng vô lượng kiếp trước. Giờ nầy nó thể hiện ra cho các con thấy bằng ấy pháp trần. Nhìn pháp trần để các con chuyển hoá tâm bằng cách nào ? Bằng cách tự pháp trần đến đối diện rồi pháp trần tự ra đi, tâm thức các con an nhiên tự tại. Như vậy, các con thấy sự giải thoát dùng từ để hiểu nếu dùng từ mà các con hành sự không thoát thì tâm các con lại cột vào hai chữ giải thoát. Đức Nhị Thiên đã nói với các con : Các con phải thoát ra tất cả những gì trong tâm thức chớ các con đừng thoát khỏi pháp trần. Mà pháp trần tự thoát khỏi các con. Nếu các con trốn lánh pháp trần thì thì hết pháp nầy đến, pháp kia đến, càng trốn càng đeo đuổi vì bóng ấy không bao giờ rời hình. Muốn hết bóng con phải mất ánh sáng phản chiếu bóng, bóng tự mất mà ánh bóng phản chiếu là gì ? Có phải chăng là sự ý thức của tâm và trí trở về đây để đối với bóng rồi hoá vào bóng, nhập thể vào bóng. Như vậy các con thấy nghiệp chướng có thể hoá giải được, mà nghiệp chướng chính là con, khi hoá giải được con phải nhập thể với nó thì mới hoá giải. Còn con chạy, nó đuổi, con dừng, nó đứng, con ngồi nó toạ, không thể nào con rời được cái nghịêp lực của con. Muốn rời được nghiệp lực thì con hãy đối diện thật, nhìn thật nó để con thấy được tiền kiếp của con đó và giờ nầy hoá giải theo sự nhập thể vào tiền kiếp và hậu kiếp. Như vậy, nói đến sự nhập thể thì nhập thể thế nào ? Muốn nhập thể được tiền kiếp thì các con hãy thật bình lặng và quên đi hiện kiếp nầy. Cha thí dụ : Lỡ hiện kiếp nầy con là bác sĩ, kỷ sư, một nhân vật nào đó có danh vọng trong xã hội, mà tiền kiếp con là một kẻ cướp hay một người bần cùng. Con tạo lại một hành động của kẻ cướp hay tên bần cùng nào ở tiền kiếp, đến giờ nầy hành động ấy quay ngược lại với con, nhưng con lại đặt vai trò hịên tại : con là một người có địa vị danh vọng trong xã hội và đứng đối với hành động trả quả các con của một vai trò mà con người bần tiện trong xã hội thì các con làm sao đây ? Phải làm sao hoà nhập được, thì chừng ấy con đã giải thoát một kiếp rồi đó!. Bởi thế, muốn hòa nhập vào được hiện kiếp và tiền kiếp thì các con chỉ thấy được giải thoát. Muốn giải thoát cho được trọn vẹn các con chỉ dụng tâm từ bi và trí Bát Nhã. Cái trí Bát Nhã, là các con xoay đốn được đó là con của hiện kiếp, lấy tâm từ của hịên tại để các con thương mình, của chính mình ngày xa xưa kia của một kiếp nào đó con là người như vậy, thương nó thể hiện nhập được hai kiếp sống, hai con người, hai tâm trạng thành một tâm từ, bi, hỉ, xả cứu độ. Ngày giờ nầy các con phải dùng tâm từ bi, phải hỉ xả để cứu độ tiền kiếp con, con cứu chính con chớ không ai. Cha hỏi các con những nghiệp trần đến tại sao con lại giết con một lần nữa? Hãy hiểu thấu của từng ấy nghiệp lực để con thấy nghiệp lực đến với con chỉ còn có tâm từ bi mới hóa giải được. Có hóa giải được các con mới bước đến con đường giải thóat thật nhanh chóng. Còn nếu con đứng trước pháp trần con đối chất được hiện kiếp và tiền kiếp của con mà có sự đối trị vui, buồn, giận hờn, thương ghét thì con đường giải thóat càng xa hơn, xa hơn và xa hơn nữa. Các con ơi ! Muốn quán được tâm pháp của mình các con chỉ còn có xây một đài cao vòi vọi, thật vững chắc là đài từ bi và hãy trồng xung quanh những đài ấy bằng những cành hoa vô tư, hỷ xả và nuôi dưỡng, bảo bọc cái thân tiền kiếp nhiều đau khổ của các con như là các con thương yêu cái thân hiện kiếp của con vậy thì con đường giải thóat chỉ ở trong gang tấc mà thôi. Các con à ! Bởi đường tu xa xưa chỉ biết nói giải thóat tu hành để thành đạo quả, có mấy ai hiểu được thế nào để tu? chỉ có những nhơn duyên, những nhân lành để trở về gặp ngay Đức Phật, ngay với Tổ rồi thọ pháp mà ra đi với Phật, với Tổ đếm được bao nhiêu người? Cứ phải trả vay, vay trả của kiếp con người chỉ để biết của cải vật chất, danh lợi rồi cứ mãi luân hồi kiếp nầy sang kiếp khác. Lành thay ! Lành thay ! Các con đã gieo trồng nhiều kiếp đến giờ nầy, đến khi các con trở lại trần hạ các con có nguyện là các con giải thóat trong hiện kiếp nầy nên Quần Tiên Hội mới tụ hội các con về để chỉ giáo dạy dỗ các con từng khúc nơi một, từng cái sự khó khăn, từng cái bí hiểm trong nội thức, trong tâm thức các con để chỉ dạy các con biết thế nào để chuyển tâm trí các con vào pháp trần mà hóa giải được sự giải thoát của kiếp nầy. Bài Quán Tâm Pháp Cha ngừng giảng cho các con, vì những then chốt thấy được, chuyển hóa tâm các con trở về với tâm vô quái ngại Cha đã nói hết, chỉ cần các con hiểu được, nhận thức được cuộc đời hiện tại của mình và tìm được con người ngày xưa từng giờ, từng phút, từng ngày, từng tháng, từng năm đối diện với các con và hãy nhiếp hai kiếp thành một thì con mới hóa giải được con đường tu học của con, chớ không, các con cứ kéo dài lê thê kiếp nầy sang kiếp khác. Khi con vấp ngã con hãy đứng lên và tìm hiểu, con đừng tìm hiểu tại vật nầy, vật nọ làm con vấp ngã, vì cái vật ấy vô cùng bình thản khi con đến tác tạo, gây sự. Mà con hãy nhìn thực hành động vừa xảy ra sự việc mà con bị tác vào. Nhìn đó là con đã thấy được con, chớ con đừng nhìn sự vật tạo cho con. Ta thí dụ : Con đi vấp một cái chân bàn rồi con ngã xuống cái phản xạ của sự ngã là lấy tay chỏi để đỡ thân, tay gãy, khi đứng lên thân bị thương con giận đá chân bàn hành động đó đúng hay sai ? Chân bàn đứng tự bao giờ, nhơn duyên con trả nghiệp kiếp nào con gieo cho ai phải thương tích thân. Thì hôm đó hội đủ nhân duyên, nên nghiệp thức chuyển cái trí nhạy bén, và che cái thấy xung quanh của con, nên bị mờ tối lại để cho con có phương tiện va chạm vào chân bàn, ( phải hiểu mượn chân bàn để giả tạo một con người ngày xưa ) mà con đã gây tạo phải đau cái thân, bây giờ họ đến bằng thức nghiệp để tạo tác lại hành động đó. Nhưng mà người đến tạo tác hành động ngày xưa của con là vô hình và bây giờ con là người ngày xưa cũng vô hình, chỉ còn lại có cái thân hiện hữu phải thọ nghiệp, nên con chỉ thấy hành động té và gãy tay, mà hành động té bởi chân bàn làm trở ngại sự di chuyển của con. Con hãy quán lại và mường tượng ngày xưa của kiếp nào con đã tạo tác hành động nào cho một người, một vật nào đó phải tổn thương về thân cũng như bây giờ con vừa qua một cái té tổn thương thân thể con. Người gây đó là ai ? Chính là con gây cho con trong hiện kiếp mà thôi. Con giận ai ? Con oán ai ? Thôi hãy thương mình đi con! Hãy thương cho kiếp nào đó mình ấu trỉ, còn tham sân si để mình gây tạo tác cho đến giờ nầy nó vẫn theo đuổi mình, nếu con cịò sân hận con lại mang đi kiếp sau nữa. Con hãy biết và mỉm cười để thấy được mình ngày xưa và bình thản cho kiếp nầy. Cha giã từ. TÂY VƯƠNG THÁNH MẪU CHƠN NGÔN KINH SẮC LỆNH CỦA ÐỨC ÐẠI TỪ PHỤ NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ Ðức Hồng Quân Lão Tổ dạy về Tam Thiên Bí Chỉ Huỳnh Ðạo Thánh Lệnh THẦY dạy cho Phổ An lo chỉ kiểu bửu pháp TamThiên Bi Chi |