TÂY-VƯƠNG THÁNH-MẪU

                     

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 17 tháng 3 An-Nam năm 1938.

TÂY-VƯƠNG THÁNH-MẪU Giáng-Đàn


Chào các con Nam-Nữ. Các con tịnh tâm nghe Mẹ dặn:

1.- NẦY NAM-NỮ NGHE LỜI MẸ DẶN,

Chẳng mấy khi con đặng sum vầy.
Ngày nay Mẹ giáng-đàn đây,
Cũng vì thương trẻ bấy chầy có công.

2.- Tuy đã biết con không bỏ Đạo,
Song còn chưa cải tạo cho rành.
Trước sau không rõ ngọn ngành,
Chánh,Tà, Chơn, Nguỵ, trược, thanh chưa tường.

3.- Nay Tòa-Thánh Trung-Ương sửa lại,
Kêu Định-Tường có hại chi đâu.
Nhiều con còn dạ ưu sầu,
Vậy nên sanh chuyện câu-mâu giận-hờn.

4.- Các con chẳng biết ơn của Mẹ,
Dám cải-canh nạnh-hẹ chống-kình.
Tuy là không nói, làm thinh,
Trong lòng lo chuyện bất bình chẳng vui.

5- Mẹ thấy trẻ ngùi-ngùi thỏ-thẻ,
Dạy khôn-lanh bác-bẻ nhiều lời.
Các con rằng biết Đạo-Trời,
Sao không nương cuộc cứu Đời lập công.

6.- Trời còn phải có giông có gió,
Đạo với Đời cũng có biến an,
Nhơn-Tâm chưa được vững vàng,
Nếu không kềm-thúc phải mang hiểm-nghèo.

7.- Các con rán tùy theo cơ Đạo,
Chớ chát điều quả-báo không xong.
Việc chi hỏi lại nơi lòng,
Chớ nghe lời phỉnh khó lòng gặp TA.

8.- Kìa cao vọi một Tòa Bạch Ngọc,
Chỗ đó là đùm-bọc các con.
Chung lo công-vụ cho tròn,
Có ngày sẽ đặng bảng son danh đề.

9.- Chớ vội tiếng khen chê thêm hại,
Rằng Ngọc-Kinh đâu tại chỗ nầy.
Phàm gian ô-trược bùn lầy,
Phật-Tiên đâu ở nơi đây làm gì.

10.- Thiệt một lũ ngu si thái quá,
Chưa rõ câu: Phật giả Tâm-Điền
Xúm nhau bàn cãi đảo-điên,
Làm cho các trẻ não phiền Lương-Tâm.

11.- Tu lo kể nhiều năm nhiều tháng,
Mà chưa thông chỗ "Sáng" là gì?
Mảng lo nghị-nghị nghi-nghi,
Tranh đua khẩu-nghiệp thị-phi rộn ràng.

12.- Mẹ nhìn thấy con mang tội-lỗi,
Nên giáng Đàn tỏ nỗi thiệt hơn.
Từ đây khuyên chớ oán hờn,
Lo Tu lo học cứu cơn khổ nầy.

13.- Con khá rán nhìn mây nhìn nước,
Nhìn lại coi "Tội-Phước"của mình,
Giáp vòng ràng buộc chung quanh,
Không lo vùng-vẫy cho thanh phận mình.

14.- Lời Mẹ dặn đinh ninh rán nhớ,
Ấy là điều Đất chở Trời che.
Con ôi! Rán dặt rán dè,
Hớ-hinh mang hại lũ bè cũng tiêu.

ĐƯỢC, con đọc tại Đàn cho chúng nó nghe.
                                              THĂNG

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 5 âm-lịch 1938 (1 giờ trưa)

Nầy các con Nữ-Phái, nghe Mẹ dặn đây rán nhớ nghe các con:


1.- NẦY NỮ-PHÁI NGHE LỜI MẸ DẶN,

Mừng cho con nay đặng sum vầy,
Đạo-Tràng lo học tại đây,
Khuyên con lớn nhỏ từ nầy rán ghi.

2.- Trong mỗi tháng bốn kỳ Thầy định,
Định cho con y lịnh lo làm.
Khuyên chừa triêu-tứ mộ-tam,
Đặng theo cho kịp Phái-Nam một kỳ.

3.- Trai là bực Tu-Mi Nam-Tử,
Gái lại không tài nữ hay sao?
Tại con chưa để Tâm vào,
Cho nên bê-trễ phái nào cũng con.

4.- Mẹ nhiều lúc nỉ-non than-thở,
Lòng các con bao nỡ quên đành.
Muốn cho con đặng nên danh,
Cho nên Mẹ chỉ mối-manh con tường.

5.- Gái giữ trọn Can-Trường danh-dự,
Cũng so tài Nam-Tử Tu-Mi.
Tại con còn tánh diên-trì,
Cho nên chịu dốt chịu khi đã đành.

6.- Lời Mẹ dạy con đành chẳng nhớ,
Ngày những đêm nhắc-nhở chuyện-xằng.
Lâu ngày thành cuộc nhố-nhăng,
Tại vầy nên trễ không bằng Phái-Nam.

7.-Việc Tu-Niệm trước làm Công-Quả,
Sau học hành phẩm giá mới cao.
Nữ-Nam có khác chi nào?
Lo Tu lo Học phái nào cũng nên.

8.- Con muốn học phải bền mới được,
Học đặng lo từ bước đi lần.
Trước xa sau cũng tới gần,
Miễn là bền chí ân-cần thì nên.

9.- Vì thương trẻ nên khuyên nhắc trẻ,
Các con lo bước lẹ theo Thầy.
Trăng lu cũng bởi tại mây,
Các con muốn rạng nghe Thầy mới nên.

10.- Bên Nữ-Phái Năm-Cung sẵn đủ,
Cũng thay quyền làm chủ các con.
Một lòng tín-ngưỡng cho tròn,
Có người dìu-dắt thì con đặng thành.

CA, ĐƯỢC hai con đọc cho chúng nó nghe rồi in ra cho chúng nó học.

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 12 tháng 7 An-Nam 1939 (4 giờ khuya).

    DIÊU cung tường ngọc bích,
TRÌ mãng vọng cao kiên,
        THÁNH-Tiên-Phàm hữu hạng,
      MẪU-Tử niệm Chơn-Truyền.

Nầy các con Nữ-Phái có mặt tại Thánh-Tòa, rán nghe Mẹ hỏi?

1.- NẦY CÁC TRẺ CÓ DUYÊN MAY GẶP,

Thì phải lo Học-Tập hằng ngày.
Học-Hành càng mới mới hay,
Sao không thấy mới, cũ hoài vậy con?

2.- Lòng Đức-Mẹ thon-von thảm-thiết,
Thấy các con chưa thiệt một lòng.
Đọc bài nhiều đứa chưa thông,
Phần đông Tâm-Tánh lại không chỗ HÒA.

3.- Các con cũng vào ra Tòa-Thánh,
Mà sao chưa thấy Hạnh Khiêm-Từ.
Mơ-màng giả cuộc nhàn-cư,
Mẹ nhìn thấy rõ nết hư buộc ràng.

4.- Con phải nhớ Mẹ than mấy lúc,
Cũng vì con đắm tục mê trần.
Chẳng màng Chân-Thể Ngọc-Thân,
Miễn cho xác thịt vui mừng là hơn.

5.- Con nhớ lại trong cơn rắc-rối,
Tại vì đâu nên mới chia lìa?
Cũng vì nay nọ mai kia,
Cũng vi ham muốn đảng-phe lợi-quyền.

6.- Mẹ thường nhắc gặp duyên phải rán,
Sao các con quyết đoán chưa rành?
Hiện giờ chưa dứt cải canh,
Ngày nào rõ đặng mối-manh Đạo-Trời?

7.- Mẹ hết sức cạn lời khuyên nhủ,
Khuyên các con rán phủi tục phàm.
Tu-Hành Đạo-Đức biết ham,
Biết ham Đạo-Đức thì tham mới chừa.

8.- Muốn dứt đặng đừng ưa sự quấy,
Sự quấy là con thấy hằng ngày.
Các điều gây-gổ đắng cay,
Tiếng cao, tiếng thấp, dở hay, nhạo cười.

9.- Nếu không dứt các lời kình chống,
Làm sao ngăn lượn sóng phong-trào?
Tinh thần tại đó mà hao,
Các con không rõ đua nhau giỡn hoài.

10.- Vì thương trẻ, kiếp đời tân-khổ,
Dạy con Tu tránh chỗ buộc ràng.
Con nào muốn đặng thân an,
Rán nghe lời Mẹ bảo toàn lấy thân.

11.- Con nào muốn vui mừng theo tục,
Thì phải cam khổ buộc vào mình.
Mẹ thương Mẹ cũng đứng nhìn,
Hết trông chi cứu tội tình các con.

12.- Vì muốn trẻ vuông tròn sau trước,
Giáng Thiên-Đài hỏi trước dặn sau.
Nữ-Nam chẳng luận con nào,
Nên hư cũng đó, ra vào cũng đây.

13.- Biết Thầy dạy sợ Thầy mới phải,
Biết sợ Thầy đừng cãi lời Thầy.
Mấy khi gặp gỡ như vầy?
Các con nghi nghị, hiết ngày Mẹ trông.

ĐƯỢC, bài này con giao lại cho CA rồi con lo trở về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi có Chư-Thần trông đợi.
Con nhớ dặn CA biểu Hương-Anh ngày Đạo-Tràng tới đây, nó phải đứng ra đọc giữa Đạo-Tràng rồi giảng cho Chị-Em nó nghe, trong đó có Thầy giúp cho.

Còn con đến ngày 17 phải ra hầu Thầy dạy việc.

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày mùng 4 tháng 4 âm lịch 1940 (6 giờ chiều)

Ngày các con Nam-Nữ có lòng chung lo làm thêm cho thành CẢNH-PHỔ-ĐÀ.

Vậy từ nay rán nhớ lời Mẹ dặn đây đặng lo tròn danh phận nghe các con.

- THI -
Mẹ nhìn con cả gái trai,
Hết lòng vì Đạo chẳng nài khó khăn.

1.- Trai thì biết bề văn dạy-dỗ,
Gái thì lo tế-độ qua ngày.
Đó là đồng dạ giăng tay.
Dầu cho thiếu hụt phận ai nấy bù.

2.- Biết được vậy đường Tu chẳng thảm,
Vì Đạo-Tâm phải cảm thương đồng.
Con nhiều đứa của đứa công,
Dầu nên dầu đẹp tại lòng chẳng tham.

3.- Chẳng tham luyến thói phàm gần Đạo,
Gần Đạo thì, lo Đạo cho tròn.
Bề nào cho vẻ-vẹn con,
Là con biết Mẹ vì con hết lời.

4.- Mẹ vì chỗ kiếp đời tân-khổ,
Lập cho con có chỗ Tu-Hành.
Đặng đồng nương náo Em-Anh,
Trước sau nhìn một cội thành nguồn thông.

5.- Lời Mẹ nói hết lòng trong đó,
Chỗ cội nguồn đừng có bỏ qua.
Vì trong chỗ đó cửa nhà,
Từ-Bi thông Huệ Trí hòa huệ chơn.

6.- Con cả thảy còn nhiều đứa dốt,
Tưởng có hình có xác rồi thôi.
Không dè trong chỗ vị ngôi,
Là chơn thể hiệp vầy vui Đạo-Trời.

7.- Nếu không biết làm người thêm khổ,
Khổ vì mình không rõ thiệt-hư.
Chưa hay Đạo-Đức Thiện-Từ,
Chưa tường oan-nghiệt, tội dư căn-đày.

8.- Lời Mẹ nói dầu Trai, dầu Gái,
Phải đồng nghe xét lại nơi mình.
Đặng tường chơn-nguỵ lý-Minh,
Bỏ qua thì chịu tội hình vướng mang.

9.- Mẹ vì lòng dạ chẳng an,
Thương bầy con dại ngỗ ngang khi thầm.
Còn phần hối ngộ tỉnh tâm,
Mẹ xem có ít đành cam nỗi buồn.

10.- Buồn cho tai ách nạn luồng,
Lớp qua lớp tới phần tuông hố hầm.
Khi thầm thì chịu tối tăm,
Tối tăm nào dễ kiếm tầm đường ngay.

11.- Rày khuyên mai dạy dỗ hoài,
Là trông cho đứa miệt-mài biết nghe.
Đặng do theo lý một bề,
Đặng tầm cho đúng nẽo về Mẹ vui.

12.- Hiện nay CẢNH-PHỔ-ĐÀ rồi,
Thì trong các trẻ tới lui cho thường.
Tứ-Thời kinh kệ đèn hương,
Chuông kinh gióng tỉnh là phương độ điều.

13.- Đừng tham đừng luyến nghèo-giàu,
Nhứt-Tâm về Đạo thấy nhiều sự vui.
Vui là Đạo-Lý rõ mùi,
Là VUI phận lánh nợ đời níu đeo.

14.- Chia nhau vùa giúp ít nhiều,
Ngày qua tháng lại bớt điều Trắng-Đen.
Dầu cho thông-hiểu rán kềm thúc lo.

15.- Lần-lần tội-lỗi bớt cho,
Thì trong chỗ Phước, Lộc cho sẵn dành.
Đừng lòng tật-đố cành-nanh,
Con nào còn vậy chịu đành thảm-thê.

(Bài Đọc Khánh-Thành cảnh PHỔ-ĐÀ)

Hết

VÔ- VI HIỆP - THIÊN - ĐÀI
Ngày 5 tháng 3 An nam 1940 (11 giờ trưa)

Nầy mỗi con nghe Mẹ dặn:


1.- NẦY CÁC TRẺ NHỚ GHI LỜI MẸ,
Dặn dò chung, ĐỪNG RẺ CHIA LÒNG.
Nghèo-giàu phải xét đục-trong,
Xét đâu lóng đó gạn phòng tánh-tâm.

2.- Chỗ gạn xét cho nhằm khỏi lỗi,
Thì có đâu đến đỗi CHIA-LÌA.
CHIA là lòng nọ dạ kia,
LÌA nhau là tại chỗ nghi không nhằm.

3.- Con lớn nhỏ Mẹ nhìn như một,
Như một là một bọc ngày xưa.
Xuống trần sanh thói ghét ưa,
Là do tại chỗ quên ngừa nết sai.

4.- Chỗ sai đó mỗi ngày lại nhiễm,
Nhiễm theo lời bao-biếm thấp cao.
Nhiễm nhiều ra chuyện mày-tao,
Chị em vì vậy chia nhau rúng đành.

5.- Mẹ tại chỗ ngó nhìn con cả,
Mẹ thì nhìn con giả làm ngơ.
Vào đây thì lạy thì thờ,
Nghe lời thì tủi qua rồi thì quên.

6.- Con ôi! rán cho bền cho nhớ,
Rán nhớ lời nhắc nhở kềm tâm,
Ngày đêm giờ khắc hỏi thầm,
Hỏi lời Mẹ nói dặn thầm mỗi câu.

7.- Mỗi con muốn được nhiệm-mầu,
Chịu vâng lời chỉ thì đâu cũng gần,
Chỉ truyền cách cựu hóa tân,
Cơ mầu Đạo-Lý xây vần vảng lai.

8.- Nhớ thầm lời Mẹ đừng phai,
Nhớ lâu rồi nhiễm thấy hoài chỗ hay,
Rồi ra khỏi chốn đoạ-đày,
Thoát thân trần khổ tháng ngày tiêu-diêu.

9.- Dầu trưa, dầu tối, dầu chiều,
Lòng không luyến tục quên điều sánh so,
Xác phàm thì có ấm no,
Ấm-no vì Đạo khỏi lo dông-dài.

10.- Phận này dầu gái dầu trai,
Quyết lòng theo Đạo phần ai nấy bền.
Nhớ câu Đạo-Đức là nền,
Nền cao vững chặc là nên phận người.

11.- Rồi an chỗ Đạo chỗ Đời,
Đó là con cả kỉnh lời lập thân.
Đã cho là một kiếp gần,
Song Thầy với Mẹ định phần cứu nguy.

12.- Con nào nghe dạy rán ghi,
Đó là mình chẳng dám khi mạng Trời.
Mẹ mừng đứa đó thảnh-thơi,
Đó là chỗ cứu đành nơi dẫn về.

13.- Con nào ngỗ-nghịch chẳng nghe,
Mẹ thương đứa đó chịu phần trầm-luân.
Có thương mà cũng có mừng,
Mỗi con tự nghĩ nhớ chừng liệu lo.

14.- Kiếp đời sống tạm ấm no,
Lo làm phận sự đừng cho biếng-lười.
Làm sao tiếng tốt để đời,
Làm sao đừng uổng một người có tên.

15.- Khó lòng vì tại chỗ quên,
Là quên Đạo-Đức thì tên phải mòn.
Nhớ thầm này dại nọ khôn,
Nhớ theo về đó dập dồn nhố nhăng.

16.- Nhớ vầy Tâm-Tánh nào an,
Đó là sóng tục đánh tan chuyện lành.
Phong-trào phá-hoại biến sanh,
Mỗi con phải rán nhớ thành-thật tâm.

17.- Đừng ham giả dối ắt lầm,
Lầm sai thì hại Mẹ thầm tiếc cho.
Tiếc cho công Mẹ dặn dò,
Dặn dò đành phải làm cho tới buồn.

18.- Linh hồn trong một tấc vuông,
Là vuông tất định rành khuôn mẫu hòa,
Khuôn hòa mẫu thuận hóa-nguyên,
Khép vào không chịu đành riêng phải đành.

19.- Tại vầy mà tổn bình-sanh,
Tổn rồi thân hoại con đành phận con.

ĐƯỢC, bài này con giao lại cho CA đặng nó in ra cho Đồng-Nhi đọc giờ Dậu ngày 17 tới đây, đọc tại Phổ-Đà.

BÀI ĐỊNH-TÂM
      VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI

Ngày 3 tháng 8 an nam 1940 (1 giờ khuya)

1- ĐÊM CHẦY MẸ NGÓ CHỪNG CON,
Là trông chỗ hiệp vuông tròn Chị-Em.
Vầy vui là phận thúc-kềm,
Vâng lời Mẹ dạy khỏi chìm-đắm mê.

2- Nhiều con chưa quyết trọn bề,
Tới đây thì thiệt, ra về thì sai.
Mẹ thương nên Mẹ nhắc hoài,
ĐỊNH-TÂM là qúi một hai rán làm.

3.- Con đồng dầu Nữ dầu Nam,
Chỗ nơi Mẹ định xác Phàm rán ghi.
Vui mừng theo tục ích chi?
Vùi chôn bề chịu tiếng khi-ngạo cười.

4.- Có thân có thể có người,
Phải đem về một tánh Trời mới cao.
Cúng rồi trước Định-Tâm sau,
Đó là Định nhớ lời trao dặn-dò.

5.- Định thường nhớ vậy vậy lo,
Thì đâu đến nỗi bụi tro tới mình.
Bảo thân nhờ Định mới bình,
Trong bình yên đặng thất-tình khó chen.

6.- Sáng trưng nhờ một ngọn đèn,
Đèn khêu là huệ vì quen Định-Thần.
Chẳng xa mà cũng không gần,
Hễ tâm quyết Định, Định lần tới mau.

7.- Con nào sợ khó lòng nao,
Xa thì chịu lấy ngày sau khỏi phiền.
Mẹ NHƠN, Thầy ĐỨC, con HIỀN,
Ba phần cho trọn một nguyền thỉ-chung.

8.- Lớn thì năm đứa năm Cung,
Rán làm gương trước nhỏ tùng-mạng sau.
Chị-Em ngày tháng ra vào,
Đừng chia đừng rẻ trong màu sắt-son.
ĐÊM CHẦY MẸ NGÓ CHỪNG CON,
Là trông cho hiệp vuông tròn Chị-Em.

(Bài này dạy Nữ-Phái khi về TÒA-THÁNH thì phải lên PHỔ-ĐÀ qùi lấy dấu rồi đọc bài rồi lạy).
Khi về cũng làm y như vậy.

TỈNH-NGỘ HỒI-TÂM

KỆ GIÓNG U-MÌNH NỮ-PHÁI
  VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI

Ngày 2 tháng 12 an nam (8 giờ trưa)

ĐƯỢC, con người Thầy dặn: giờ này có chư vị Tiên-Thần đều về tại đây đặng cầu xin Thầy cho Phép Giáng-Đàn nương bút tỏa ra gọi là bài cầu nguyện chung cho cả nơi nơi kẻ còn người mất.
Vậy con phải vưng lời đặng chép ra cho rành rẽ.

- Bạch, con vưng theo Thầy.
     Chư vị Tiên ban giáng tố-trần,
        Thiên-Đài thừa mạng bố Thi-Ân.
        Xướng ngôn di-niệm tồn-vong lý,
 Vạn cổ lưu-hành cựu giữ tân.

Chư Tiên-Phật Thánh-Thần cúi lạy Thầy, sau chào Hàng-Long Chơn-Tánh đồng tỏa vận thi bài:

Cầu cho người đứng TAM-KỲ,
Kẻ còn người mất đồng qui một trường.

1.- Khi còn sống lầm đường lạc lối,
Thác rồi xin nhớ hội Mậu-Dần.
Nhớ rồi thì rán nghe tuân,
Tuân lời Thầy dạy đặng mừng vẻ-vang.

2.- Chư Tiên-Phật-Thần toan độ rỗi,
Vi phàm-tâm nghịch dối nên lầm.
Thác rồi gẫm lại hồi tâm,
Nghe lời kêu gọi sửa lầm ra nên.

3.- Chép sổ bộ ngàn tên muôn tuổi,
Trong phần nhiều chịu buổi tai-khiên,
Vì chưng nết tục chẳng hiền,
Làm cho đã giận tội riêng khó trừ.

4.- Tội kiếp trước con du là khác,
Thêm kiếp này tạo ác ra hoài.
Đó là dặn cả ai ai,
Ai ai là kẻ mắt tai rán kềm.

5.- Kềm cho vững ngày đêm đừng vọng,
Là "Vọng-Tâm" hành động phi-thường.
Mắt phàm hay ngó cự đương,
Tại vì ưa lóng lời thương tiếng rù.

6.- Chỗ thương đó lấy thù khiêu-khích,
Làm cho người mê-tín phải sa.
Chỉ cho thù oán chữ hòa,
Khiêu phàm tâm động khích ta, hại người.

7.- Người cả thảy ở đời phải biết,
Phải biết rằng ưu liệt thắng nhu.
Chớ nên cưu oán nhớ thù,
Mà cho là việc gọi TU cứu đời.

8.- Tu tưởng vậy là người vô-lý,
Vì chẳng tuân tự trị an-nhàn.
Tu-Hành tính dữ sao an?
Muốn an thì nhớ chữ " KHOAN-THỨ" rành.

9.- KHOAN tâm độ đừng sanh ác cảm,
THỨ dung tình độ giảm đố tiêu,
Rành trong hư thiệt các điều,
Đó là an mạng do theo luật Trời.

10.- Trời ra luật nơi-nơi đều rõ,
Rõ vì trong chỗ đó phải làm.
Tại vì lòng dục-vọng tham,
Tội hành phải chịu đành cam chết mòn.

11.- Người cả thảy là con Tạo-Hóa,
Có người siêu người đoạ là đây.
Đây vì chẳng rõ trở vay,
Đây vì thời-cuộc đổi-xây không tường.

12.- Thầy đã dặn ĐỊNH-TƯỜNG hai chữ,
Là bảng nêu người xứ trị người,
ĐỊNH này là định chỗ nơi,
TƯỜNG khai lý-nhiệm cứu đời dạy Tu.

13.- Thảm thay vì tại mê mù,
Mến mùi "Danh-Lợi" gọi TU là hèn,
Quyết làm danh dữ đời kiên,
Mà quên tội dữ Trời biên chép rồi.

14.- Mê mù nào rõ khúc nôi,
Chừng thân chịu đoạ thôi rồi phải thôi,
Hồn ra khỏi xác thân rồi,
Nhìn coi ngơ-ngáo buổi đời dại khôn.

15.- Tội kia án nọ ghi dồn,
Thở than là đó gọi hồn tỉnh mê.
Chư-Tiên Chư-Phật đề huề,
Hội-Thần cả thảy đồng về giáng tâu.

16.- Hiệp-Thiên- Đài trước cúi đầu,
Xin Thầy cho phép cạn sâu tỏ lời.
Làm ra bài Đạo tỉnh người.
Đặng coi cho rõ Đạo-Đời biến an.

17.- Ai mà có dạ nghi nan,
Thì xin xét lại tai nàn tại đâu?
Còn ai sớm chịu hồi đầu,
Định-Tường Chơn-Lý chực hầu cứu cho.

18.- Đó là lời chỉ trước lo,
Vì thương-tâm phải, nói cho cạn lời.
Trời Nam vận-mở thay đời,
Là thay đổi cuộc ta-người hiệp nhau.

19.- Hễ Tu đừng tính nghèo-giàu,
Thì thương mạng sống cùng nhau buổi này.
Hiệp đồng cho được là hay,
Đừng chia nhĩ-ngã gọi bài thuốc Linh.

20.- Linh là mình trước cứu mình,
Mình sao lại đặng Trời sinh Đạo-Mầu?
Sinh tồn vận-hóa chuyển thâu,
Rõ rồi khuyên rán gìn trao sửa lòng.

21.- Mỗi người nhớ vậy làm xong,
Là thương nhau một tấm lòng đừng sai,
Giáng cho lời dặn một bài,
Cầu xin cả thảy nhớ Thầy tại Tâm.


Trở lại Mục Lục