Pháp Bảo Đàn Kinh

  “ĐẠI SƯ LỚN LÊN BÁN CỦI ĐỔI GẠO NUÔI MẸ)

   Bao nhiêu kinh sách dạy tạo Tiên, tác Phật gồm “một câu nầy”.

   Đây là lý “NGHỊCH SANH” cho tròn cuộc tuần hoàn để Hoàn Nguyên Bổn. – Chúa JÊSUS nói: “Con Người cần phải “sanh lại” mới vào nước Thiên Đàng.” (Vô vi)

   Nicodème hỏi: ((Chuyện ấy có thể nào được? Tôi đã già làm sao trở vào bụng Mẹ để sanh lại)) (Hữu tướng).

   Ngươi là Giáo Sư của người Pha-ri-si mà không biết việc ấy sao?

   Từ xưa tới nay chẳng có một vị Giáo Chủ nào của ĐẠI ĐẠO dám lậu chỗ Bí mật của “Máy Linh nầy”. Nhứt định phải khẩu truyền tâm thọ mà thôi.

   “Cái TÁNH” có thể tự mình, hoặc do kinh sách, hoặc nhờ người khác mà biết đặng.

   “Cái MẠNG” ắt phải Thầy truyền.

   Muốn lậu điều chẳng dám lậu, phải u ẩn, tráo trở, nói Đầu giấu đuôi, nói Đuôi giấu Giữa, nói giữa giấu Đầu để người cố gắng tầm ra và ráp cho đúng phép thì rõ “Nguyên Hình”, đạt đến cái toàn nguyên do tổng hợp các phần tử có thứ lớp.

   THUẬN: Thần tạo Khí, khí tạo Tinh

   NGHỊCH: Tinh hóa Khí, khí hoá Thần

   Cũng là Phật- Pháp- Tăng. Tăng- Pháp-Phật.

   Ta thấy cái trung gian môi giới là “KHÍ (Pháp)” ở giữa Phật Tăng. Do đó ta hạ trần, cũng nương đó ta về Nguồn cội tuỳ đặc tánh của nó: Thanh Trược, Chánh Tà, Chơn Giả.

   Như trước kia đã nói: “Tiên Thiên Ngươn Khí” một lần động sanh Tiên Thiên Ngươn Tinh, đã sát “Ranh Phàm Thánh”, động nữa sanh Hậu Thiên giao cảm chi tinh để hoá Phàm, Tinh, Khí vốn là một.

   Còn Nguyên Thể gọi là “Ngươn Khí”, động mà sanh nên ra khỏi nguồn gốc, đã “đổi vóc” nên gọi là “Ngươn Tinh” đi xa nữa chẳng còn giữ đặng

“Bản chất” tiên thiên mà phải hoá thành Hậu thiên.

   “Chơn biến thành vọng- Bồ Đề sanh Phiền não”.

   Điều cốt yếu của người tu Tiên Thiên Đại Đạo là chẳng khá khiến cái “Ngươn Tinh” biến thành Tinh giao cảm mà phải cố gắng làm cho nó về gốc hoá thành Nguơn Khí.

(Nghịch chuyển)

   “Đức MẸ” sanh “Đức Con” phải bị hư khuyết, hao mòn thân vóc, Nữ đồng trinh trở nên Đàn Bà gầy ốm.

   Là con Đại Hiếu phải nhớ ơn sanh thành dưỡng dục, trở lại bồi bổ cội căn cho sung túc, đầy đủ như xưa mới xứng đáng con Phật, chẳng nên đi xa quên mất “gốc cũ” mà phải tội vong bổn và hể lìa căn nguyên thì thế nào tồn tại, chắnc chắn phải sa vào “Cửa Tử”.

   “Con xa Mẹ là Con hư mất, Chiên lạc loài”.

   Nguơn Khí sanh Ngươn Tinh cũng gọi là “Chơn Khí Dương Tinh”.

   Ngươn Khí, Ngươn Tinh là gì đây chớ? Đã trót nặng mang cái sắc thân đứng trong vòng Càn Khôn thiên hình vạn trạng làm sao với “mắt thịt” có thể thấy được cái “Vô vi”, bí mật ẩn tàng trong khoảng Hư không của Vũ trụ.

   “Vô vi nhi Vô bất vi – Không mà Sắc”

   Trong Không gian Có một vật vô cùng linh diệu, thiên biến vạn hoá, ẩn hiện phi thường.

   Tháng Giêng, đầu mùa xuân, giữa đêm, nhiệt độ sụt xuống đến mức nào đó, xuất hiện “một vật lờ mờ, mù mù mịt mịt”, sắc mà không, không mà sắc, chắc chắn chúng ta đều biết đó là:

“Sương Mù” (Matiere étherique) là “Hơi nước”, nửa nước nửa hơi. Đó là Hơi Hư Vô sanh Hơi Nước. Hừng sáng nhìn thấy trên lá cây ngọn cỏ những giọt nước trong veo, con đẻ của Hơi Sương gọi là:

“Giọt Sương”, đã nên Hữu Hình, thuộc chất “Lỏng”.

Hơi Lạnh tăng gia như bên Trời Âu, nước nầy thành “Tuyết”, lỏng mà đặc (sền sệt). “Tột lạnh” như ở Nam Bắc cực, Tuyết thành:

Giá, “đặc cứng” như nước đá, hoàn toàn hữu hình.

      a) (Ngươn Khí: Hơi Hư Vô là Đức Mẹ

Thánh=

      b) (Ngươn Tinh: Hơi Sương là Đức Con (Chơn chủng)

  -Ranh giới-

    (Tinh giao cảm: Giọt sương

II- Phàm=2(tuyết    : Chúng sanh chủng (giả)

   3-     (Giá, nước đá    : Chúng sanh thể.

   Mẹ sanh thành dưỡng dục Con, nếu nói Con sanh thành dưỡng dục Mẹ thì khó nghe, đắng miệng khó nuốt, nên phải nói Con nuôi dưỡng Mẹ mà thôi, chớ đã nói “NGHỊCH SANH” thì sự thật là như vậy.

   Trong chuyện Phong kiếm xuân thu nói “Tôn Võ Tử” sanh Tôn Tháo, Tôn Tháo lại Sanh Tôn Võ Tử (Tôn Tẩn) và để giải thích cái “Lộn kiếp” nầy, tác giả đã buộc tội Tôn Võ Tử sát sanh quá nhiều nên phải “Cha là Con, Con là Cha”, đẻ ám chỉ lẽ Ngược xuôi, Xuôi ngược, Sát sanh- Phóng sanh.

   “THƯỢNG ĐẾ là TA – TA là THƯỢNG ĐẾ…”

   Biết lý nầy thì không còn thắc mắc lời “Con sanh Mẹ”. “Hơi sanh Nước – Nước thành hơi” là sự thật hiển nhiên không cãi.

   _ Với phương tiện nào Con nuôi Mẹ hầu thực hành cái việc “Sanh lại để vào nước Thiên Đường”, nhập Niết Bàn Cực Lạc?

   _ “Đốn củi, đổi gạo, nuôi Mẹ!” Nói nghe dễ dàng giản dị mà làm thì vô cùng khó nhọc, ngoài sức tưởng tưởng mới có câu Thiên nhơn cầu Nhứt, Nhị.

       “Tu hành có dễ gì đâu?

   Lạc sai luyện đến bạc đầu như không”.

   ((_ Làm cái việc rất tầm thường của tiều phu, đem Kim khắc Mộc, “lấy Búa đốn Cây” thì có củi, có củi thì có Gạo mà khó gì?

_ Trái “Khinh khí cầu” chứa đầy hơi đang lơ lửng trên nền trời xanh với “Chủ”, đột nhiên bị “Tẩu lậu” một phần hơi, rớt xuống sanh “Nước” tất nhiên phải hạ xuống một bực, ốm đi một phần. Nếu cứ tiếp tục để “xì hơi” mãi đến “tuyệt khí” thì xẹp lép, còn cái xác không hồn, nằm ỳ và tự tiêu diệt luôn trên mặt đất.

   _ Hãi hùng trước tai nạn rùng rợn sẽ đến cho mình, “Chủ Nhơn Ông” khôn ngoan, sớm tìm cách “chận lấp lổ hỏng” (phục khí) và cố tạo “hơi nhẹ” bôm vào cho đầy, để trái cầu và mình

trở về vị trí cũ.))

   Ta đã biết do sức “Lạnh”, hơi tuột xuống thành nước, ngược lại phải do sức “Nóng” nước bay lên hoá hơi.

   “Cây” là nguyên liệu để sanh “Lửa”, mà đây là “Lửa Thần” trong lò Bát Quái của Thái Thượng Lão Quân dùng nấu thuốc “Trường sanh bất tử”.- nấu rượu, nấu thuốc: LỬA là Chánh Công, chẳng dám khinh truyền.- Biết đặng phép làm lửa (Hành Pháp) Ngươn Tinh về gốc biến thành Ngươn Khí và cứ được bồi bổ nuôi dưỡng lâu ngày thì phản lão hoàn đồng, làu làu sáng rỡ như Hằng Nga đôi tám, như nữ đồng trinh tuổi trăng tròn.

   Hào Dương trong “KHẢM” bay về lấp ruột cung “LY”, vóc Tiên Thiên đầy đủ trở lại nói theo quái hào là thủ khảm điền ly, Càn Khôn hoán tượng, Lạc thơ trở lại Hà đồ. – “Việc hoàn nguyên tóm tắt là vậy.”

   “Phải có LÀM mới NÊN việc PHẬT”.

   “Thực hành” như thế nào đây, làm Lửa cách nào? – Khó nói ngay vạn quyển cũng chưa đủ. Thánh xưa nói:

“Không phân minh chứng Đạo Tiên.”

   Đây nói “Hỏa Hậu” thiệt là hai chữ HÔ HẤP- chỗ yếu của Hỏa Hậu phải kiếm trong “Chơn Tức”. Đây lại nói ngay ra rằng: “HỎA HẬU” chính thiệt là Chơn Tức. Chơn tức là cái “Hô hấp của Chơn nhơn”, chẳng phải cái hô hấp của miệng mũi!

   _ “Hỏa hậu tối bí”, chỗ diệu chẳng khá lấy một thế mà luận. Ở trong có công phu thứ tự, khá chẳng biện rõ đó sao? Có võ, có văn, chỉ hỏa, túc hỏa, v.v… Có rèn mới nên anh Thợ Rèn, biết bí mật của nước trui thép, biết cách thụt hơi thổi lửa… phải có cái “Học Rộng” và cái “Chuyên Môn” mới đủ. Học rộng thiếu chuyên môn là học để tiêu khiển, đi ăn cổ nói khoác. Chuyên môn thiếu học thì làm vụng về, không đúng nguyên tắc, công thức, khó đến chỗ tuyệt vời của nghề nghiệp.

   “Lửa cung LY nấu vàng cung KHẢM,

   Lọc Âm Dương “hai tám thành Cân”.

       Hồn còn nương náu xác thân,

     Nhưng không dính liếu bụi trần vào TÂM.”

   Cũng một lý ấy Lục Tổ kệ: ((Trược năng tàn mộc thủ Hỏa

Ư nê định xuất Hồng Liên.))

   = Biết thiêu cây lấy lửa, - Bùn lầy mà trổ Hoa Sen. Đó là cách phân kim, lấy Thanh bỏ Trược, nên Thánh lìa Phàm. (Phân kim lư nội thính lôi minh)

   Thông thiên học, trong cuốn la voix du silence (tiếng nói của im lặng, Bản thể thanh tịnh của tự Tâm) có nói: “Dùng luồng Hoả Hầu để mở Huyệt bí yếu của cái PHÁCH” (Khí huyệt, Liên trì) nhưng điều nầy rất nguy hiểm nếu Con Người chưa đào luyện xác phàm và cái VÍA bằng cách bỏ mọi tập quán xấu xa, về cách ăn uống, dùng những vật thực nhẹ nhàng tinh khiết (trường trai) và thay thế những tình cảm đê hèn bằng những đức tánh siêu thượng.

(ly dục lìa tham)

   Cuốn Hathayoga- Pradipika có câu: “Luồng Hoả Hầu giải thoát cho các vị Cao Tăng và nó bắt buộc cho kẻ khờ dại làm tôi mọi.” – Ý nói “Tam mụi Chơn Hỏa” giúp người Chơn Tu biết diệu dụng nó để sáng lòng thấy Tánh, giải thoát khỏi ngục tù vô minh, kẻ mê muội bị Tà Hỏa là lửa nhơn dục sai khiến. Cũng là cái “Tâm Hỏa” ấy hết chỉ khác nhau chỗ dụng Tà hay Chánh mà có siêu-đọa.

   Sở dĩ tôi trình bày nhiều là để phá mê, phá chấp mà thôi,

chẳng có ý gì khác, mong Bạn hiểu cho!

   Chơn lý tuyệt đối tối cao là “MỘT”

   Đại Đạo, my tạo ‘không HAI”.

   _ Kẻ nào còn trong vòng nhơn ngã, còn nói người này là Mỹ, Trung, Hoa, người kia là Pháp, Đức, nọ là Ấn giáo, Hồi Giáo, kìa là Thiên Chúa, Lão Giáo, phân biệt tốt xấu, lành dữ, phải quấy, cao thấp là chưa biết ĐẠO, chẳng rõ Cội nguồn, không thông Phật Pháp. Cứu cánh là MỘT, phương tiện rất nhiều, không nên lầm nhận.

   Thật khó lòng mà pha tan thành kiến, khuynh hướng biệt lập, cố thủ, cố chấp óc độc tôn. Chỉ khi nào tiến đến trình độ “hiểu biết” sâu rộng, rõ đặng Bản nguyên duy nhứt mới đến gần Đại Đồng Huynh Đệ và sự chia sẽ, thù hềm giữa tôn giáo nầy, tín ngưỡng nọ mới chấm dứt.

              (Chánh Đạo)     Đường ngay có MỘT, không Hai,

          Đường ngay từ thuở Thiên thai đến giờ.

           Đây TA chỉ sơ sơ một ít,

           Đặng biết chừng mục đích mà phăn.

              “Đạo là phẳng lặng trang bằng,”

          Dường như gió tạnh, Trời trăng đêm rằm.

(Thích Ca)  _ Tây trúc dạy; Minh Tâm- Kiến Tánh,

(Lão Tử) _ Hám Quan Khuyên: Luyện Tánh - Tu Tâm.

(Khổng Tử)  _   Lỗ Đông: Dưỡng Tánh - Tồn Tâm.

(Jêsus) Gia Tô: THƯỢNG ĐẾ tại Tâm chẳng rời.

(Chơn Như Tánh)

           Tứ Đại Thánh một lời chẳng khác

           Khác tại người xiêu lạc cãi canh.

                     Đường ngay chẳng thạo đã đành,

       Tâm sanh chưởng chưởng ma sanh khó gì

           “Tìm Đại Đạo” phải suy cho lắm,

           “Luyện Chơn Ngươn” phải gẩm cho cùng.

                 Con ngươi chẳng sót mảy lông,

       “Tịnh TÂM”, mình mới khỏi mong xiêu vời.

           Người muốn rõ “Đạo Trời” huyền diệu,

           Thì phải lo chánh yếu mà tìm.

                    Lo chi mản tải huỳnh kim,

       Dựng lầu, xây cát cho bìm sắng leo!

       Mẹ sanh thành dưỡng dục Con cũng “Cái ấy”

       Con trở về và nuôi mẹ cũng “Cái ấy”

   ((Mang vô số tên, được dùng vô số danh từ để gọi)).

Câu thứ 8 đã được giải bày và kết thúc nơi đây.

   Đến 24 tuổi Nghe kinh liền xét tỏ, bèn tìm đến Chùa Huỳnh Mai, v.v…(câu 9; 10, 11, 12 ở trước). Đây về sau nói một cá nhân co đủ “Linh Hồn và xác thịt”, giác ngộ tầm ĐẠO.

   Linh Hồn là “Chủ Nhơn Ông” vốn của Trời.

   Xác thân là “Nhà ở” do phụ mẫu sanh thành.

   Vốn sẵn có một Linh Hồn được đào tạo như lai lịch đã giải bày, “có đi có về”, tuần huờn tròn cuộc, gốc ngọn liền nhau, trong vòng Tiên thiên, không sa vào hồng trần ô trược, luôn luôn hoài bảo cội căn thì việc tầm tu rất dễ dàng như củi khô, đèn sẵn dầu hể gặp lửa mồi là cháy liền, được “truyền đăng” tức khắc sáng tỏ, nhờ nền tảng vững vàng, căn bản sẵn có, đó là bậc “Nguyên Nhân”.

   ‘Nghe ví dụ 10 người Nữ đồng trinh (Kinh Thánh): “Khi ấy, nước Thiên Đường sẽ giống như 10 người Nữ đồng trinh kia Cầm Đèn đi rước Chàng Rể. Trong các nàng đó, có 5 người dại (mê) và 5 người khôn (giác). Người dại khi cầm đèn đi thì không đem dầu theo cùng mình. (Song người khôn thì đem dầu theo trong bình của mình), vì chàng rể đến trể, nên các nàng thảy đều buồn ngủ và ngủ gục. Đến “Khuya” có tiếng kêu rằng”Kìa Chàng RỂ đến, hãy đi ra rước người!” Các Nữ đồng trinh bèn thức dậy cả, sửa soạn đèn mình. Các người dại nói với các người khôn rằng: Xin bớt dầu của các chị cho chúng tôi, vì đèn chúng tôi gần tắt.

   Nhưng các người khôn đáp: Không! E chẳng đủ cho chúng tôi và các chị, thà các chị hãy đi đến người bán dầu mà mua. Song trong khi họ đang đi mua thì Chàng Rể đến. Kẻ nào chực sẵn thì đi với Người cùng vào “tiệc cưới” và cửa đóng lại.

   Chặp lâu, những người Nữ đồng trinh khác cũng đến và xin rằng; “Hỡi Chúa”! Xin mở cho chúng tôi. Nhưng Người đáp: “Quả thật, Ta nói cùng các ngươi, Ta không biết các ngươi đâu”. Vậy hãy Tĩnh thức, vì các ngươi không biết ngày cũng không biết giờ’.

   Chồng là CHÚA, vợ là TÔI cũng nói là Dương Âm,

Nam Nữ, Thủy Hoả, Thần Khí, Định Huệ…

   Tôi có người Chị (bà con) theo Đạo Tin Lành mỗi đem khi thức giấc lật đật bỏ tóc xoã, quỳ dưới đất, hai tay ôm trán, úp mặt vào thanh giường, lẳng lặng “chờ rước Chúa”! ((chị thức hay mê, có khôn ngoan để dành dầu chăng, khó biết đặng)). Chớ tôi nghe nói: “Tinh khô, Khí cạn “Thần Linh” chẳng còn, mà e ngại cho chị chẳng vào được “Tiệc cưới”, bị từ chối mở cửa nhập huê phòng và phải chịu “Cô đơn” đến ngày tận thế”.

   “LỬA là CHÚA của sự gầy dựng”. Thiếu nó là rớt vào Cô Âm ắt nên hình đá trông Chồng “Vọng phu” Muôn căn, ngàn dặn phải biết phép “LÀM LỬA” (Hành Pháp). Không có cách nào khác hơn để giúp mình về gốc cũ.

   Đức CHÚA TRỜI đã tự xưng: “TA là LỬA, là THẦN”

LỬA:

                Thấu đáo cội nguồn hẳn biết “TA”,

           Thì mau quỳ gối lạy xưng “CHA”!

           Càn Khôn Vũ trụ tay gầy dựng,

Tâm thuộc Hỏa   Vạn vật muôn loài TẠO HÓA ra.

           Ngày dạo thế gian tươi mặt Đất,

           Đêm vào cung nguyệt rạng gương Nga.

           Còn Xuân là Lão cùng vui ở,

           Giận bỏ ra đi thấy đã Già.

   Trường hợp của Huệ Năng (Lục Tổ), của Trần Huyền Trang (Tam Tạng) là đặc biệt, là đồng Chơn xuất gia, có sẵn một kho tàng quý báu thì việc đặng ĐẠO, nên Tổ, nên Thầy thì cầm chắc trong tay rồi.

   Hai chữ Huệ Năng đã giải. Trần Huyền Trang có nghĩa là người “Trần” được “Trang” sức cái “Diệu Huyền” (Diệu Tánh). Nên phân biệt của quý báu THẬT thuộc Tinh Thần và của GIẢ thuộc Vật chất.

   JÊSUS nói: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người Giàu vào nước Thiên Đường”. Có vị Chơn Tu nào xưng Phú Tăng chăng??? – Hễ phú thì không TĂNG là Vô Nhân! Thế mà cũng có kẻ đăng đàn thuyết Pháp lớn tiếng “Bần Tăng” mà tay quơ hột xoàn chớp nhoáng. Phải chi kim cương, nhà lầu, xe hơi do Tổ Phụ để lại hoặc tự tạo ra càng hay, làm được việc phi thường ((Con Lạc Đà chui qua lỗ kim)) và khỏi phải nói.

   Ôi! Mỉa mai thay cho hạng Giả hình!

Trở lại trang chánh

free web counter

Thư Viện 1      4   5