Lịch sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu

NGÔ-VĂN-CHIÊU(1878 - 1932)

  Bủu Minh Ðàn.Trang Web Phục Vụ Nhơn Sanh Miễn Phí .do Trương Ngọc An thực hiện

Người sáng lập
CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO(TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ)



Giờ nầy Thầy điểm thâm công
Ngài sau con sẽ cỡi Rồng về Nguyên
(NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ)



IN LẦN THỨ NĂM
1962

--------------------------------
Mục Lục
Lịch sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu



LỊCH-SỬ ĐỨC NGÔ-VĂN-CHIÊU
____________

CHƯƠNG MỘT

PHẦN ĐỜI
_____

I - THỜI-KỲ NIÊN-THIẾU:

a) Lúc thơ-ấu
b) Lúc đi học

II - LẬP GIA-ĐÌNH

III - BƯỚC HOẠN-LỘ:

a) Ở Saigon
b) Về Tân-An
c) Đi Hà-Tiên
d) Ra Phú-Quốc
e) Trở về Saigon

IV - ĐỨC-TÍNH

a) Phận làm con
b) Phận làm cha
c) Ngoài xã-hội
d) Trong hoạn-trường

____________

CHƯƠNG HAI

PHẦN ĐẠO
_____

I - LÚC NHỎ CÒN ĐI HỌC.

II - TRONG LÚC LÀM QUAN:

a) Làm việc tại Sàigòn
b) Làm việc tại Tân-An
c) Làm việc tại Hà-Tiên
d) Làm việc tại Phú-Quốc.

III - THỜ THIÊN NHÃN.

IV - CẢNH BỒNG-LAI .

V – THUYÊN-BỔ VỀ SÀIGÒN:

a) Thời-kỳ gầy dựng Cơ Phổ-Độ

Nhóm một
Nhóm hai
Nhóm ba

b) Cơ Phổ-Độ phát triển
c) Hoàn thành sứ-mạng: Lập Cơ Tuyển-độ Chiếu-Minh Tam- Thanh Vô-Vi
d) Những cuộc du-lịch
e) Cách hành-trì
f) Giáng-cơ lúc Ngài còn tại tiền
g) Trước khi Ngài qui liễu
h) Liễu đạo trên sông Cửu-Long-Giang
i) Đám tang - Cuộc điếu-tang.
j) Báo-chí - Thiệp – Châu-Tri
k) Sau khi Ngài qui-vị (giáng-cơ tại các đàn)

VI - HỘI THANH-TÂN TẠI CAO-MINH-ĐÀN (Vĩnh-Hội - Sàigòn).

VII - HỘI THANH-CHIÊU (Tổ-Đình - Cần-Thơ)

a) Lễ lập-vị Ngôi-Hai
b) Lễ chứng-vị Ngôi Giáo-Chủ
c) Đức Ngô-Văn-Chiêu là chơn-linh của Thầy

VIII - DI – BÚT

a) Thơ vui
b) Thơ cấm sát-sanh
c) Tại sao vẽ và thờ Thiên-Nhãn
d) Thơ Ngài viết cho Ông Kinh-Lý Phượng,
e) Năm thứ nhứt về Cơ Đại-Đạo là năm 1924
f) Đạo Cao-Đài là Đạo gì ?
g) Đạo Vô-Vi
h) Kinh là gì ?
i) Kinh Cảm-Ứng
j) Sự ăn chay
k) Trích trong bức thơ gởi cho Ông Hội-Đồng Võ-Văn-Thơm (Cần-Thơ)
l) Sắp đặt cách thờ-phượng và cúng-kiến của Ngài về Cơ Phổ-Hóa

IX - GƯƠNG LÀNH
____________

CHƯƠNG BA

PHẦN GIÁO-LÝ (Doctrine)
____________

I – NGUYÊN-TẮC

II - CÁCH PHỔ-TRUYỀN GIÁO-LÝ

III - NGOẠI-GIÁO CÔNG-TRUYỀN:

1. - Về phần luân lý
2. - Về phần chế độ:

a) Giáo-chức và hệ-thống.
b) Cách sanh-hoạt.
c) Cách hành-trì
d) Cách thờ-phượng

3. - Về phần Triết-lý
4. - Về phần Siêu-hình-học, huyền-học:

a) Quan-niệm về Ngôi Thái-Cực
b) Quan-niệm về Hư-Linh.
c) Quan-niệm về Luân-Hồi - Nghiệp-Báo

IV - KHOA NỘI GIÁO TÂM-TRUYỀN

V - PHỤ-LỤC:
Giáo-lý thời-kỳ sau ngày Đức Ngô-Minh-Chiêu qui-liễu.

PHẦN ĐỜI

____________

I. THỜI KỲ NIÊN THIẾU:

a) Lúc thơ ấu. - Đức Ngô-Văn-Chiêu, đạo-hiệu Ngô-Minh-Chiêu, thuộc dòng-dõi một Quan Thị-Lang của Triều-Đình Huế, nhân lúc Quốc-Gia loạn-lạc (1851-1866) di cư vào Nam, sinh nghiệp tạm ở Khu Hòa-Hưng (ngoại ô Sài-Gòn - Chợ-Lớn). Thân phụ Ngài là Ông Ngô-Văn-Xuân sánh duyên với Bà Lâm-Thị-Quí. Ngày mùng 7 tháng giêng năm Mậu-Dần (28-2-1878) bà hạ sanh người con duy nhứt là Đức Ngô-Văn-Chiêu. Ngài ra đời nơi quê mẹ tại Bình-Tây (Chợ-Lớn). Trong một căn nhà lá nhỏ, ở vùng nê-địa, phía sau ngôi chùa Quan-Thánh (còn gọi là Chùa Ông Nhỏ).(1)

Khi sanh ra, Ngài không chịu bú sữa, mà nếu có ép cho bú thì mình mẩy lại sưng phù lên, cho nên bà thân Ngài phải cho uống nước cơm với đường, lần lần tập cho ăn cháo, rồi ăn cơm.

Ít năm sau ông thân và bà thân Ngài tìm được việc làm, phải đi Hà-Nội, mới đem gởi cho người em gái ở Mỹ-Tho. Lúc đó, Ngài vừa được 6 tuổi. Cô của Ngài tên Ngô-Thị-Đây có chồng khách-trú bán thuốc bắc và cây ván, cũng khá giả nên nhận nuôi.

b) Lúc đi học. - Nhỏ tuổi, sớm lìa cha mẹ, từng trải cực khổ, Ngài rất cố gắng học hành. Nhưng một hôm vì chúng bạn lôi cuốn, nên bỏ hai ngày học, và bị cô quở, đánh. Ngài ăn năn khóc hoài và từ đó không bao giờ tái phạm nữa.

Năm được 12 tuổi, Ngài đánh bạo tới nhà Ông Đốc Phủ Sủng, tùng sự tại Toà Hành-Chánh Mỹ-Tho, chỗ quen với ông thân Ngài, nhờ chỉ bảo làm đơn, và giới thiệu với ông Chủ-Tỉnh để xin vô học nội trú ở trường Trung Học Mỹ Tho (bây giờ là trường Nam Trung Học Nguyễn Đình Chiểu). Mặc dầu còn nhỏ, Ngài cũng bạo dạn trình bày hoàn cảnh côi cúc nghèo nàn của mình: nhờ Ông Đốc Phủ Sủng thông ngôn, nên ông Chủ-Tỉnh chuẩn y lời xin của Ngài (2).

Ngài học ở đó và sau lên trường Chasseloup-Laubat Sài-Gòn (nay là trường Jean Jacques Rousseau) tiếp tục đến năm 21 tuổi thi đậu bằng Thành Chung và ngày 23 tháng 3 năm 1899 được bổ làm việc tại Sở Tân Đáo Sài Gòn cho tới ngày 31-12-1902.

II. LẬP GIA ĐÌNH:

Khi Ngài thành tài, thì người ân của Ngài là Ông Đốc Phủ Sủng muốn gả con gái cho. Việc đó làm cho Ngài đắn đo thắc mắc không ít vì không biết tính sao cho dung hòa được cảnh phú quí của ân nhân để khỏi phụ lòng thương của người với nếp sống thanh bạch tầm thường của cha mẹ mình. Cô của Ngài lại khuyên Ngài nên cưới vợ con nhà cần lao, đặng sau kia nếu có thất thế thì vợ con có thể đi làm lụng nuôi con được, chớ vợ sang trọng quá, e chịu cực khổ không quen.

Vì lẽ trên, Ngài vâng lời cô, tự hẹn sẽ tìm dịp đáp đền ân xưa của Ông Đốc Phủ Sủng, và kết hôn cùng bà Bùi-Thị-Thân, người làng Thạnh-Trị lúc bấy giờ đang buôn bán tại chợ Mỹ Tho.

Bà sanh được 9 lần: Người con đầu lòng tên Ngô-Thị-Ngữ chết, 5 ngày sau khi sanh tại Mỹ-Tho, kế đó là Ngô-Thị-Hồng lại chết năm 3 tuổi ở Sài-Gòn.

Người thứ tư là Ngô-Thị-Yến-Ngọc.

-- -- năm -- Ngô-Thị-Nguyệt.

-- -- sáu -- Ngô-Văn-Nhựt.

-- -- bảy -- Ngô-Văn-Tinh.

-- -- tám -- Ngô-Tường-Vân.

-- -- chín -- Ngô-Thanh-Phong.

-- -- mười -- Ngô-Khai-Minh.

Ngài sống thanh bần, làm việc hết mực liêm chính lại hay giúp đỡ người hoạn nạn túng quẫn nên ít có tiền dư.

Nhưng sau đó ít lâu Ngài cũng có mua một cái nhà lá với giá $60.00 trên một khu đất mướn, ở đường Lagrange số 31 tỉnh Tân An (bây giờ là đường Phan Đình Phùng) và cất lại thành 3 căn lợp ngói. Ngôi nhà nầy vẫn còn và hiện nay hai người con gái thứ tư và thứ năm của Ngài ở đó.

III. BƯỚC HOẠN LỘ:

a) Ở Sài-Gòn - Làm việc tại Tòa Tân Đáo từ ngày 23-3-1899 đến ngày 31-12-1902, qua 1-1-1903 thì Ngài đổi về tùng sự tại Dinh Thượng-Thơ cho tới 30-4-1909.

b) Về Tân-An - Qua 1-5-1909, Ngài được đổi về làm việc tại Tòa Hành Chánh Tân An. Qua năm 1917, thi đỗ Tri Huyện. Với chức vị mới, quyền hành có nhiều thêm, nhưng Ngài vẫn một mực không đổi tánh.

c) Đi Hà-Tiên - Đầu năm 1920, buồn vì mẹ mới tạ thế lại không muốn liên can vào công việc thiếu liêm chánh của vài bạn đồng liêu nên Ngài quyết định đưa đơn xin đổi đi Hà Tiên.

Vì lòng quí Ngài, các bạn hữu đặt tiệc tiễn hành nhưng Ngài không nhận, nên có vài ông làm thi tặng: Ông Cai Tổng Nhơn ở Tân An gởi cho Ngài một bài thi như sau:

Cám cảnh Huyện quan đã lắm nhiều.

Đau lòng đi ở biết bao nhiêu,

Hà Tiên tách dặm lòng khoăn khoái,

Cù Úc chia trời luống quạnh hiu,

Bẻ liễu trông theo vò chín khúc,

Nhành mai toan gởi quặn trăm chiều,

Cái phần nam tử xưa nay vẫn,

Cầu chúc cho Ông nổi tiếng biêu.

Ông Trần Phong Sắc và Ông Cao Văn Lỏi cũng tiễn hành Ngài với bài chúc như vầy:

Nay Trưởng Tòa đãi tiệc,

Đưa Quan Huyện lên đường:

Nhóm bạn vàng đủ mặt hiền lương,

Dưng lời chúc đưa người phước đức.

Từ thi đỗ Ông lên Quan chức,

So tánh thường người ở trung dung.

Tổng làng cám cảnh không cùng,

Há phải quan yêu thì bạn ghét.

Dân chúng kính thương chi xiết,

Thiệt là gần mến lại xa trông.

Tánh thanh liêm giữ mực chí công.

Lòng trung hậu vẹn câu chỉ tín.

Yến-Bình-Trọng giao lâu càng kỉnh,

Hứa-Kỉnh-Chi nhơn trọng đặng truyền.

Nay chỉ sai thuyên nhậm Hà Tiên,

Nên mình tách tạm ly Cù-Úc.

Mới biết người lành Tri trả phúc,

Đã thêm lương lại đặng thêm quyền.

Cho hay lòng tốt dễ tầm Tiên,

Khi dạo núi, có khí dạo nước.

Nhằm ngày rảnh du hồ hóng mát,

Sò huyết kia, khô mực nọ,

Đưa theo chén rượu Thanh-Liên.

Gặp đêm thanh thưởng nguyệt giải phiền.

Sầu riêng ấy, Phật thủ nầy,

Phụ với bình trà Bạch Cúc.

Cảnh Tiên người chẳng tục,

Say vui sơn thủy khác tình trần.

Lòng chánh ứng như thần,

Khuyên dạy hiền lương nuôi kẻ khó.

Xem phong cảnh một mình vui thể đó,

Có ngày đem gia quyến sum vầỵ

Tiệc tiễn hành các bạn nhóm nơi đây,

Còn khi gặp tri âm bàn bạc.

Cơn hẩm hút vì tình lợt lạt,

Lời quê mùa tỏ dạ mặn nồng.

Tiệc hôm rồi đã nhượng mấy Ông,

Thơ bực chót xin dưng năm vận.

Vậy có thi rằng:

Mừng nay Quan Huyện đổi Hà Tiên,

Có đức Trời cho đặng có quyền.

Trăm dặm Vũng-Gù còn tiếng mến,

Một đường sau trước nổi danh hiền.

Hòn-Nghê cầm báu đưa theo gió,

Đảnh-Hạc hoa tươi rắm tới triền.

Âm chất sẽ ngồi xe ngựa mã,

Trùng phùng đồng ước hội Đào-Viên.

Bữa 1-3-1920, Ngài rời Tân-An để đi Hà-Tiên.

d) Ra Phú Quốc - Làm việc tại Tòa Hành Chánh Hà-Tiên được non 8 tháng thì Ngài đắc lịnh ra trấn nhậm Quận Phú-Quốc, và ở đó non 4 năm, từ 26-10-1920 đến 29-7-1924.

e) Trở về Sài-Gòn - Ngày đổi về Sài-Gòn nhằm ngày 30 tháng 7 dl, 1924. Đối với đi, việc thuyên chuyển ấy là thường, nhưng trên phương diện Đạo thì đó là do Thiên-ý sắp đặt cuộc "hoát-khai mối Đạo Cao-Đài".

IV - ĐỨC-TÍNH:

a) Phận làm con - Là một người hiếu nghĩa vẹn tròn, nên khi có lương bổng rồi, Ngài bèn viết thơ mời ông thân bà thân từ ngoài Hà-Nội về để trọn bề phụng dưỡng.

Làm việc ở Tòa Tân-Đáo Ngài mướn phố ở hẻm Chaigneau (bây giờ là Tôn-Thất-Đạm) sau công sở Triều-Châu, ở với ông thân bà thân. Về sau ông thân Ngài có vợ lẻ ở riêng; mỗi khi cần dùng tiền bao nhiêu thì Ngài cung phụng đầy đủ và không bao giờ để một lời than vãn. Để tránh sự thiếu hụt cho gia đình, ban đêm, Ngài đi dạy thêm tiếng Pháp cho các người Tàu.

Đối với mẹ, Ngài là người con chí hiếu. Mỗi ngày đi làm việc về, Ngài không bao giờ quên hỏi thăm mẹ ăn cơm chưa hoặc ăn có ngon không? Những lúc bà Cụ đau nhiều, thì Ngài đi cầu Tiên xin thuốc và tự lo giặt giủ cho mẹ vì sợ vợ con chểnh mảng.

b) Phận làm cha. - Đối với người ngoài, Ngài rất khoan dung, nhưng đối với con trong nhà thì công bình nghiêm khắc.

Lúc Ngài làm việc ở Tân-An, một con trai của Ngài, bấy giờ còn nhỏ tuổi, ngày Tết lén theo chúng bạn ra chợ, rủ nhau lăn dưa của người ta bị lính bắt đem về bót. Ngài hay được, cho thả hết mấy đứa kia, còn con Ngài thì giam lại đến chiều mới tha.

Ngài thường dạy con khiêm cung, nhẫn nhịn, an phận thủ thường. Ở gần, thì dùng những câu chuyện xảy ra trước mắt mà dạy; ở xa, thường viết thơ nhắc nhở bổn phận làm người.

c) Ngoài xã-hội. - Ngài rất từ thiện, hay giúp đỡ người hữu sự. Nhưng Ngài thường bố thí một cách kín đáo, không muốn cho người biết để cảm ơn mình.

Thấy trong xóm có người nghèo quá, muốn giúp cho họ, Ngài mượn cớ, nhờ làm việc lặt vặt quanh nhà, rồi trả tiền gấp 5 gấp 10 cho họ.

Ngày Tết, gặp người vùng quê bán hàng ế, Ngài mua giùm hết để họ có tiền mua sắm lễ vật cúng ông bà trong 3 ngày xuân.

Ban đêm, Ngài mặc quần áo thường dân, đi len vào xóm nghèo. Nghe ai than thở cảnh túng quẫn, con đau vợ yếu, Ngài sẽ lén bỏ tiền theo kẹt cửa, rồi đi luôn, không cho họ biết.

d) Trong hoạn trường –

- Trấn nhậm đâu, Ngài để lại tiếng thanh-liêm chánh-trực.

- Đối với nhiệm vụ thì công bình mẫn cán.

- Đối với đồng liêu thì khiêm-nhượng khoan-dung.

- Đối với quần chúng thì thân-dân, đức-độ.

- Tuy có cứu giúp người, nhưng không bao giờ khoát-nạt hống-hách.

- Gặp những nghi-án, Ngài chẳng nài khó-nhọc và nguy-hiểm hết lòng điều tra cho ra lẽ chánh-tà, để người khỏi phải chịu hàm-oan hoặc bị húng-hiếp.

- Ngài hay giải hòa, khuyên người chớ ham tranh tụng.

- Gặp những tội nhỏ sơ-phạm, Ngài dùng lời ôn-tồn khuyên-răn, chớ không buộc tội, có khi lại còn giúp tiền bạc để họ về lo cải thiện nữa, nhưng nếu tái-phạm thì Ngài không vị.

Lúc Ngài trấn nhậm Phú-Quốc và tu rồi, nhân-dân có việc tới thưa kiện thì Ngài thường khuyên lơn cả đôi bên nên giữ chữ hòa với nhau, lo làm ăn chớ nên sanh chuyện. Bằng có ai khó tánh, quyết thưa kiện cho ra lẽ, thì Ngài làm giấy tờ giải đi Hà-Tiên.




1 Ngôi chùa Quan-Thánh, nay hãy còn, được xây cất vào năm 1873 ở tại số 1 đường Chùa, bây giờ là số 242 Lê-Quang-Liêm Chợ-Lớn Bình-Tây.

2 Câu chuyện trên đây do cô Ngô-Thị-Nguyệt thuật lại theo lời Ngài và lời Bà Cô nói hồi còn tại tiền.

PHẦN ĐẠO
__________

I - LÚC NHỎ CÒN ĐI HỌC:

Lúc còn ở nhà Cô mà đi học, Ngài bắt chước Ông Dượng sắp một cái kệ nhỏ thờ Quan-Thánh Đế-Quân.

Tiền Cô Dượng cho ăn bánh trái, Ngài để dành một phần, mua nhang đèn. Tối học bài rồi, Ngài đọc kinh, cúng lạy rồi mới đi ngủ.

____________

II - TRONG LÚC LÀM QUAN:

a) Thời kỳ mới ra làm việc tại Sài-Gòn. --

Tấm lòng Ngài rất từ-thiện, hằng kính trọng Thánh-Thần Tiên Phật luôn luôn. Lớn lên Ngài cũng thờ Đức Quan-Thánh, ăn chay một tháng 2 ngày và thường tụng kinh Minh-Thánh.

Năm 1902, Ngài lên hầu Đàn Tiên Thủ-Dầu-Một đặng cầu-thọ cho Bà Thân Ngài và muốn biết việc tiền-trình.

Tiên-Ông giáng-cơ cho Ngài một bài kệ như vầy:

Thủ bôi vị lễ, diệt khả thông,

Trung-dung hữu Đạo thị tâm không,

Đắc vọng kỳ sự giả thân du,

Minh phong khả đối giữ thành công.

Theo bài kệ nầy thì Tiên-Ông khuyên Ngài lo tu, ngày sau đắc-lộ.

b) Trong thời-gian tùng-sự ở Tân-An

Lúc bấy giờ sự cầu cơ cũng chớm nở ở Tân-An. Ngài rất ngưỡng mộ nên đã cùng những người bạn thân như: Ông Đoàn-Văn-Kim (Một Kim), Ông Lê-Kiển-Thọ, Ông Trần-Phong-Sắc và Ông Nguyễn-Văn-Vân1 hiệp nhau cầu cơ xin chữa bịnh và cho toa thuốc. Nhóm trên đều ăn chay được 2 ngày chỉ có Ông Trần-Phong-Sắc thì ăn chay trường.

Trong nhóm lại chọn Ông Bộ Thọ làm đồng-tử, ngồi cầm cây bút son. Ông Sắc làm pháp-đàn. Ngài và Ông Vân thì độc-giả và điễn ký. Như vậy mà chữa đặng nhiều bịnh hết rất kỳ lạ.

Ở nhà Ngài thờ Đức Quan-Thánh và Phật Quan-Âm. Nhà Ông Bộ Thọ thì thờ Bát-Tiên.

Thỉnh thoảng những ngày rằm có cầu cơ tại nhà Ngài, bài cầu lúc bấy giờ rút lấy trong Vạn-Pháp Quy-Tông và nh mấy trẻ nhỏ tắm rửa sạch sẽ, ăn-mặc đường hoàng quì đọc.

Ngài cũng thích những thú trăng thanh nước biếc. Những khi trăng sáng trời êm, Ngài rủ nhóm anh em kể trên mướn ghe thả theo giòng nước, dòm trời ngắm cảnh, xướng-họa ngâm-thi. Ngày Chúa-Nhựt thường hay đi chơi chùa, đàm đạo với mấy Ông Hòa-Thượng, lạy Phật rồi về. Ngài ưa viếng Chùa Thầy Tịnh hơn [2] và thỉnh thoảng cũng ghé Chùa Bình-Lập.

Lối gần cuối năm 1917, Bà Thân Ngài lâm trọng bịnh. Ngài bèn đến đàn Cái-Khế (Cần-Thơ) đặng cầu thuốc. Theo lời của một vị hầu đàn, lúc ấy là Bà Cụ Huyện Tiền, Cô của Bà Hội-Đồng Thơm (Cần-Thơ), hôm đó Ngài mặc đồ thông thường (quần vải trắng, áo dài đen). Vì xuống trễ nên đứng ngoài hàng ba.

Ơn Trên giáng-cơ liền gọi Ngài vào, và có cho Ngài bài thuốc và hai bài trường-thiên sau đây:

Trời còn sông biển đều còn,

Khắp xem cõi dưới núi non đượm nhuần.

Thanh-Minh trong tiết vườn xuân,

Phụng chầu hạc múa gà rừng gáy reo.

Đường đi trên núi dưới đèo,

Lặng tìm cao thấp ải trèo chông gai.

Phận làm con thảo há nài,

Biết phương Tiên, Phật, Bồng-Lai mà tìm.

Xem qua xét lại cổ kim,

Một bầu trời đất thanh liêm chín mười.

[3]Vàng trau Ngọc chuốc càng tươi,

Bền lòng theo Phật cho người xét suy.

Thần, Tiên vốn chẳng xa chi,

Có lòng triêm ngưỡng nhứt thì giáng linh.

Họ NGÔ gắng sức lòng mong,

Tên CHIÊU xem thấy ở trong hay ngoài.

Cõi trần tro bụi bèn nay,

Quên ơn dưỡng-dục tháng ngày thuở xưa.

Lâm gia [4] nguyên tích thừa ưa,

Nữ môn thánh thị để vừa thiện căn.

Sáu mươi hội điểm linh đằng,

Cầu cho mẹ mạnh mới bằng lòng con.

Ba ngày trong điểm vuông tròn,

Sớ dưng cho mẹ điểm son tha rày.

Cầu thuốc về, Bà Thân của Ngài mạnh được vài năm. Sau đau lại, Ngài mới đến đàn Hiệp-Minh Cái-Khế lần thứ nhì, Bề Trên cho Ngài bài "Khai xuất Thiên-Hoàng" và bài "Hò xự xang".

Bài "Khai xuất Thiên-Hoàng"

Khai xuất Thiên-Hoàng nghiệp hồng quang,

Tứ cảnh nhàn dị ngộ tam quang,

Thiên-Địa tuần hoàn Ngọc ẩn san.

Thủy triêm hàng, thủy triêm hàng,

Bàn-cổ giang-san, ý ỷ y y y.

Thương thay vận khiến là may,

Muốn anh-hùng gặp gió buồm bay,

Thiệt là may, thiệt là may!

Năm, tháng, ngày, giờ, miệng liền tay,

Tiếng tỳ-bà dấu trước thì bay.

Phải cái nợ nầy, lăm-le bao quản rộng dài,

Đất, Trời hay cứu khổ người ngay.

Nhớ trong tay, nhớ trong tay,

Ăn lông uống huyết hỡi ai bày, lửa củi mà day.

Kéo cây rày bốn phương trời chớp nháng như sao bay

Vận nước nhà, ơn tôi chúa, hềm náo nương.

Ngày ăn chín, ơn năm dài, lộc Chúa thời may!

Bài "Hò Xự Xang"

Hò xự xang du nhàn sơn thủy,

Tiếp tỳ-bà thiện mỹ giáo dân.

Thái-bình bổn cảnh công thần,

Phi vân lạc quốc thôn lân tiếp trình.

Tân niên yết đế Thánh-Minh,

Phò trì Đệ-tử hình qui mộ

Ôn-hoàng cập ngộ đồ-tô,

Dĩ trừ dịch-lệ tất cô sanh cầm.

Cao sơn lưu thủy phong thâm,

Thinh kha nhã thú sắt cầm trời-âm.

Ú liêu dĩ nhã dĩ thâm,

Hò xê khánh hỉ, dịch tầm CHIÊU lai.

Phụng nghinh tiếp lễ an bài,

Thượng quyền hạ quản diên trai đơn-trì.

Nhạc vân chung cổ hòa nghi,

Tâm thành ngọc bạch cảnh tùy chiếu thân.

Làm trai chẳng nại xa gần,

Một lần muốn bước hai lần muốn lui.

Thuận lòng gặp gió buồm xuôi,

Đứng trong Trời Đất mấy thu vuông tròn.

Ơn cha nghĩa mẹ thon von,

Biết câu nặng nhẹ làm con giữ bền.

Trời cao soi khắp ở trên,

Đất dài dễ lở nghiệp bền chỉnh lâu.

Mống giăng khắp hết vòng cầu,

Cái mưa, cái nắng, cái âu gió cùng.

Ngủ quên thức biết thỉ chung,

Làm trai nợ nước biết hung kiết rày.

Tay cầm cây viết là may,

Biết trong tội phước có ngày trả cho.

Đã biết Tiên-Ông dạy cho hai bài Trường-thiên trên, Ngài cũng hiểu qua ý nghĩa nhưng vì lòng thương mẹ quá, Ngài lại tìm đến đàn-cơ Thủ-Dầu-Một để xin thuốc một lần nữa.

Ông Trần-Hiển-Vinh là con của gia-chủ thủ-đàn Minh-Thiện Thủ-Dầu-Một thuật lại rằng: Bữa ấy Ngài cùng Ông Phủ-Kim đến hầu đàn, Ông Kim quì ở phía trong còn Ngài thì quì ở góc ngoài. Khi Đức Quan-Thánh giáng-cơ liền gọi Ngài và cho một bài thi bốn câu đại ý nói vườn thuốc của Phật-Tổ đã bị tróc gốc. Qua bài thi đó Ngài biết số phận của Bà Thân Ngài. Đến cuối năm 1919 thì Bà từ trần.

Cô năm Ngô-Thị-Nguyệt còn nhớ được 2 câu trong bài thi trên:

Dĩ thủy huê lưu thiên bán lạc

Hạnh lâm huê đảo hội tiền phi

____________

Đức Cao-Đài Tiên-Ông giáng cơ xưng danh lần đầu tiên với Ngài.

Vào đầu năm 1920, vài tháng trước khi được lịnh đổi đi Hà-Tiên, Ngài được lịnh Bề Trên chỉnh đốn lại việc cầu Tiên-Tập dượt đồng-tử mới thủ ngọc-cơ.

Lúc bấy giờ [5] Ông Nguyễn-Văn-Vân ngồi đồng dương, Ông Bộ Thọ đồng-âm, Ông Trần-Phong-Sắc pháp đàn, Ông Kim làm điễn-ký, Ngài làm độc-giả. Đương đọc bài cầu đến câu:

Ngũ chơn bửu khí lâm triều thế

Giá hạ đằng vân xin tự nguyên ...

Có một vị Tiên-Ông xuống xưng là Cao-Đài Tiên-Ông, cơ gõ mạnh và bảo Ông Trần-Phong-Sắc sửa lại hai câu ấy, Ông Sắc vốn là một nhà nho sành sỏi, nhưng không biết Cao-Đài Tiên-Ông là ai, nên mới trả lời một cách suồng sã rằng: Bài thỉnh-cơ nầy ra 100 năm rồi, từ bên Trung-Quốc qua đây không ai dám cho là sái, nay Ngài bảo sửa, nói vậy là thiệt trật hay sao?

Tiên-Ông quơ cơ đập vào đầu Ông Sắc vì vô lễ, Ông lẹ sụt xuống né khỏi, kế Đức Cao-Đài Tiên-Ông gọi tên Ngài biểu sửa. Ngài bèn sửa như vầy:

Bửu chơn ngũ khí, lâm triều thế.

Tiên-Ông khen.

Kể từ đó Ông Trần-Phong-Sắc không làm pháp-đàn nữa. Cả một nhóm người đều chưa hiểu Ông Cao-Đài là ai. Riêng Ngài tin rằng đó là Ông Trời mới dám sửa kinh sách từ xưa như vậy.

c) Thời-gian tùng-sự ở Hà-Tiên

Vừa làm tuần bá nhựt cho Bà Thân Ngài xong là được giấy đổi đi Hà-Tiên.

Trước kia ở Hà-Tiên mấy Ông: Đốc-Phủ Sự, Lâm-Tấn-Đức, Nguyễn-Thành-Diêu và Ông Phán Ngàn cũng thường tổ chức cầu Tiên; nhưng phải 5-7 lần mới có một lần có Tiên-Ông xuống cơ. Nhưng khi có Ngài ra nhập vô tổ-chức trên thì lạ thay khi Ngài nguyện vái, đọc bài là cơ lên dễ dàng.

Ở Hà-Tiên Ngài thường lên núi Thạch-Động cầu Tiên. Có một vị Tiên-Cô xưng là Ngô-Kim-Liên cho hai bài thi khuyên Ngài rán lo tu hành:

I

Vẳng vẳng nhạn kêu bạn giữa thu,

Rằng Trời cùng Đất vẫn xa mù,

Non Tây ngoảnh lại đường gai gốc,

Gắng chí cho thành bực trượng-phu.

II

Ngần ngần trăng tỏ giữa trời thu,

Cái cảnh Tây-Phương vẫn mịt mù,

Mắt tục nào ai trông thấy đấy,

Lắm công trình mới đúng công phu.

Tiết Trung-Thu năm 1920, Ngài xin lập đàn-cơ tại nhà Ông Lâm-Tấn-Đức. Đồng-tử: Ông Đức và Ông Sự.

Tiên-Ông có cho bài thi sau đây:

Cao-Đài Minh-Nguyệt Ngô-Văn-Chiêu

Linh lung vạn hộc th Quan Diêu

Vô thậm Sự Đức, nhiệm ngao du

Bích-thủy, thanh-sơn, tương đối tiếu.

d) Lúc trấn nhậm Phú-Quốc

Ngài mộ đạo tu-hành đã lâu rồi nên bất luận sách nào kinh nào nói về sự tu-hành đạo-đức hễ gặp thì Ngài xem qua hết; song chẳng gặp đạo nào cho vừa ý Ngài, nên Ngài chưa chịu tu, cứ lo bồi-bổ đức-hạnh.

Ngài thường nói Ngài không chịu học Đạo với thầy phàm, quyết chí nếu có thầy Tiên dạy đạo thì mới chịu tu. Ở Phú-Quốc Ngài thường lên núi Dương-Đông cầu Tiên.

Trước nhứt ở Chùa Quan-Âm-Tự thuộc phái Phật-Đường. Mỗi khi đi cầu Tiên, Ngài thường đi với người em bạn dì là Cô Ba Lang và mấy người theo hầu đàn như: Hương-Hào Khâu, Ông Giáo Mẫn, Ông Hương Đa, Biện Tý, Ba Đồng, Bà Năm Vàng, Bà Phủ Phẩm, Hội-Đồng Phanh với năm ba đứa nhỏ sạch-sẽ, theo làm đồng-tử và độc-giả như: Hai Huỳnh, Tư Xuân, Tư Ngưng, Ba Nguơn, Năm Nhơn, Ba Xuân, Mười Đức, v.v...[6] Dân sự Phú-Quốc cũng lấy làm lạ hết sức như bà con ở Hà-Tiên, vì trước khi Ngài chưa ra trấn-nhậm thì cầu Tiên rất khó khăn, cầu 5-3 lần mới có Tiên-Ông giáng-cơ một lần. Còn khi Ngài ra Phú-Quốc, khi thiết đàn, mỗi lần Ngài đứng vái, đọc bài cầu là có Tiên giáng. Ngài cầu Tiên cũng đã nhiều lần. Sau có một vị Tiên-Ông chẳng chịu xưng danh biểu Ngài phải chịu làm đệ-tử thì sẽ dạy Đạo, và biểu Ngài thôi đừng tụng kinh Minh-Thánh nữa. Về sau nầy, Ngài mới biết Tiên-Ông đó tức là Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế. Một bữa kia Tiên-Ông giáng-cơ dạy Ngài phải lo tu và ăn chay thêm cho được 10 ngày trong một tháng, Ngài nghĩ: "Mình đương làm quan, nay người nầy mời mai người khác thỉnh, nếu chịu ăn 10 ngày rồi sau rủi quên ăn mặn, thì có tội với Trời Phật. Nhưng nếu theo lời dạy mà được có kết quả gì thì cũng rán mà ăn. Nếu mà ăn chay 10 ngày rồi, chết còn phải chịu luân-hồi thì thà là ăn hai ngày còn hơn, miễn là mình lo tu-nhơn tích-đức, chẳng làm trái với lương-tâm thì thôi." Trong trí Ngài định để có dịp cầu Tiên, Ngài sẽ bạch lại như vậy.

____________

Đàn-cơ mùng 1 Tết Tân-Dậu (8-2-1921)

Tiên-Ông giáng-cơ.

Bữa ấy có Ngài chứng đàn thiết tại Chùa Quan-Âm-Tự. Ngài chưa kịp bạch hỏi tâm-sự thì cơ viết như vầy:

CHIÊU, tam-niên trường-trai
Thấy vậy Ngài rất bối rối vì Ngài chưa chịu ăn chay 10 ngày mà nay Tiên-Ông lại bảo trường chay 3 năm. Ngài mới bạch rằng:

"Bạch Tiên-Ông, Tiên-Ông đã dạy thì đệ-tử phải vâng, song xin Tiên-Ông phải bảo-hộ đệ-tử, chớ trường chay 3 năm lâu quá chẳng biết đệ-tử có chịu nổi hay không và xin Tiên-Ông bảo-lãnh, nếu đệ-tử vưng theo lời dạy thì phải có chứng-quả chi mới được."

Tiên-Ông bảo cứ giữ theo lời dạy sau đệ-tử sẽ hiểu rõ.

Quan Phủ NGÔ-VĂN-CHIÊU khởi sự trường chay và hành-đạo là kể từ "Mùng một Tết năm Tân-Dậu" (8 Février 1921), sau đàn-cơ thiết lập tại Chùa Quan-Âm-Tự. [7]

Tiên-Ông thường giáng-cơ truyền đạo cho Ngài tu và dặn phải giữ kín bí-truyền chừng nào tới thời-kỳ khai-đạo thì Tiên-Ông sẽ dạy.

Tuy Ngài mới ăn trường chay nhưng Ngài hiểu lý trường-trai lắm. Một độ nọ có Ông Đốc-Phủ Sự đi công-cán với Ông Tỉnh-Trưởng ra Phú-Quốc. Ngài mời Ông Sự ăn cơm. Ngài thì ăn chay và bảo dọn cho Ông Sự một mâm mặn kế bên đó, hai người cùng ăn và đàm-đạo chơi. Vốn vui tánh, Ông Sự giả vờ vói gắp đũa mặn qua mâm chay. Ngài thân mật nói: "Chay lòng chớ không phải đồ ăn chay là đủ đâu." Và sau nầy Ngài thường dạy những người trực tiếp thọ pháp Ngài đừng quá nê-chấp về hình-thức bề ngoài.

Nguyên Chùa Quan-Âm-Tự của Ông Huỳnh-Đăng-Khoa tạo lập với sự chung góp của Ông Đổ-Minh-Châu tục gọi là Ông Cả Bốn. Hai Ông trên qui liễu rồi thì con Ông Cả Bốn là Ông Đổ-Kim-Cự thay thế trông nom. Sau giao lại cho Ông Đổ-Văn-Đồ tục gọi là Ông Tám Gia. Ông nầy có tánh khật khùng nên ăn nói không dè-dặt phải quấy. Ngài hầu cơ và cúng nơi Quan-Âm-Tự cũng 7-8 tháng trời, một hôm, đang lo sửa soạn bông trái cúng thì Ông Tám Gia la lối không kiêng dè lễ độ và không cho cúng tại đó nữa. Ngài hiền lắm cũng hơi buồn vậy thôi, và hối bà con dọn đi xuống chùa dưới là chùa Sùng-Hưng-Tự, nói với Ông Hòa-Thượng mượn chỗ cầu cơ. Từ đó sắp sau là cầu Tiên nơi Chùa Sùng-Hưng-Tự vậy, cách Chùa Quan-Âm-Tự cỡ 500 thước.

____________

III. THỜ THIÊN-NHÃN:

Tuy Ngài chịu làm đệ-tử của Tiên-Ông chớ chưa lập bàn thờ để thờ Tiên-Ông, vì không biết phải thờ làm sao? Một bữa kia Tiên-Ông dạy Ngài phải tạo ra một cái dấu hiệu gì riêng để thờ. Ngài bèn chọn chữ Thập. Tiên-Ông nói chữ Thập cũng được song đó là dấu hiệu riêng của một nền Đạo đã có rồi. Phải suy-nghĩ mà tầm cho ra, có Tiên-Ông giúp sức, Ngài xin huỡn lại một tuần lễ để có ngày giờ suy-nghiệm. Mãn tuần Ngài tầm cũng chưa ra.

Một bữa sớm mai, lối tám giờ, Ngài đương ngồi trên võng phía sau Dinh Quận, bỗng đâu Ngài thấy trước mặt cách xa độ hai thước tây, lộ ra một con mắt thiệt lớn, rất tinh-thần, chói ngời như mặt Trời, Ngài lấy làm sợ-hãi hết sức, lấy hai tay đậy mắt lại không dám nhìn nữa, đâu độ chừng nửa phút đồng hồ Ngài mở mắt ra thì cũng còn thấy con mắt ấy mà lại càng chói hơn nữa.

Ngài bèn chấp tay vái rằng:

"Bạch Tiên-Ông đệ-tử rõ biết cái huyền-diệu của Tiên-Ông rồi, đệ-tử xin Tiên-Ông đừng làm vậy đệ-tử sợ lắm. Như phải Tiên-Ông bảo thờ Thiên-Nhãn thì xin cho biến mất tức thì." Vái xong thì con mắt lu lần lần rồi mất.

Như vậy mà Ngài cũng chưa thiệt tin, nên chưa tạo Thiên-Nhãn mà thờ. Cách vài ngày sau Ngài cũng thấy y như lần trước nữa. Ngài cũng nguyện sẽ tạo Thiên-Nhãn mà thờ thì con mắt tự nhiên biến mất.

Đức Cao-Đài Tiên-Ông xưng danh tại Quan-Âm-Tự
Năm 1921, sau khi thấy Thiên-Nhãn hiện 2 lần, Ngài cầu cơ hỏi cách thờ phượng thì Tiên-Ông dạy vẽ con mắt theo như Ngài đã thấy mà thờ và xưng tên là "Cao-Đài Tiên-Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát" và dạy Ngài phải kêu Tiên-Ông bằng THẦY mà thôi. Từ đó Ngài chánh thức trở nên người đệ-tử đầu tiên của Đức Cao-Đài Tiên-Ông.

Chư-nho hầu đàn thảy đều lấy làm lạ vì thuở nay chẳng hề thấy kinh sách nào nói đến danh Cao-Đài Tiên-Ông. Duy có mình Ngài xem ý tứ trong mấy bài thi của Đức Cao-Đài cho thì Ngài đoán chắc rằng Thượng-Đế giá lâm, Chúa-Tể Càn-khôn võ-trụ, Cha chung của nhân-loại, mới dạy như thế mà thôi.

Thường thường Ngài thiết đàn riêng để học Đạo. Lần lần Đức Cao-Đài truyền Đạo cho Ngài. Chừng Ngài đã quyết-chí tu-trì trường-trai giới-sát thì Ngài nguyện với Đức Cao-Đài rằng: Nếu độ cho Ngài thành-Đạo thì Ngài sẽ lo độ lại chúng-sanh tùy theo phước-đức của mỗi người.

Lễ dưng rượu Champagne
Khi Ngài tu được vài năm rồi thì Đức Cao-Đài giáng-cơ nói với Ngài như vầy:

"Thầy đã hứa với chư Tiên, chư Phật rằng Thầy sẽ đem đệ-tử về, ngày nay đệ-tử gặp đặng chơn truyền cũng nên đền ơn chư Tiên, chư Phật, vì đã dày công hộ độ."

Ngài bèn bạch rằng: "Bạch Thầy, đệ-tử ở chốn phàm-trần nầy biết lấy chi mà đền ơn chư Tiên chư Phật cho xứng đáng. Vậy đệ-tử xin dâng cho chư Tiên chư Phật một tiệc rượu Champagne chẳng biết được hay không? Xin Thầy dạy cho đệ-tử rõ."

Thầy bèn trả lời rằng: "Tự nơi lòng đệ-tử."

Qua bữa sau, thấy trên bàn thờ có những ly rượu Champagne. Ấy là bữa lễ Ngài đền ơn chư Tiên chư Phật vậy.

Lúc Ngài tu được 3 năm rồi thì Đức Thượng-Đế có khuyên Ngài như vầy:

Ba năm lao-khổ độ nhứt nhơn

Mắt Thầy xem rõ lòng dạ chắc

Thương vì con trẻ hãy còn thơ

Gắng chí tầm phương biết đạo mầu.

Đức Chí-Tôn dạy Ngài lý kín về đạo-pháp.

IV. CẢNH BỒNG-LAI [8]:

Lúc ấy Ngài tu cũng được 3 năm rồi. Tiên-Ông thường khen Ngài tu kỹ, Đạo phát, lắm công-phu. Một bữa kia Đức Cao-Đài Tiên-Ông giáng-cơ, mới ban đặc-ân hỏi Ngài muốn chi sẽ ban cho. Ngài mới bạch rằng: "Bạch Thầy, nghe rằng cảnh Bồng-Lai xinh đẹp vô cùng, Thầy có thể nào cho đệ-tử thấy cảnh ấy không?"

Cơ gõ một cái mạnh chớ không trả lời.

Cách ít lâu, một bữa chiều kia nhằm lối cuối tháng giêng âm-lịch năm Giáp-Tý (Fév. 1924) Ngài ra hứng mát ngoài mé biển, Ngài trèo lên một hòn đá ngoài Dinh Cậu ngồi ngó mong ra biển thấy biệt mù trời nước, sóng dợn ba-đào. Bỗng chút Ngài trông thấy lần lần từ chỗ trời nước giáp nhau, lộ ra một cảnh chẳng biết là cảnh nào mà thiệt là xinh đẹp, cảnh ấy vừa khuất, lại lộ ra cảnh khác. Chót hết Ngài thấy cảnh trên có Thiên-Nhãn sổ ngay xuống một hàng có Nhựt-Nguyệt-Tinh [9] cũng đẹp đẽ vô cùng. Ngài ngồi coi mê-mẩn, quên lửng rằng thân còn ở chốn phàm-trần. Được chừng lối 15 phút đồng-hồ thì cảnh ấy lu lần lần rồi tiêu mất.

Sau hầu cơ, Đức Cao-Đài Tiên-Ông mới cho Ngài biết ấy là cảnh Bồng-Lai. Theo lời của Ngài ước-nguyện nên cho Ngài thấy cho nong-chí mà lo tu.

Vì Ngài hay khuyên dân đừng ham tranh-tụng và Ngài thường hay đứng ra hòa-giải đôi bên, nên có một ít người không ưa, xúi dục dân kiện Ngài, Ngài đắc-lịnh đổi về Sài-Gòn. Khi xảy ra vụ kiện Ngài, Ngài hầu đàn-cơ Đức Cao-Đài Tiên-Ông dạy như vầy:

"Trường trai cửu cửu họa vô ưu

Lập chí như đồng sự như như

Sanh sự tại nhơn, nhơn sanh sự

Học Đạo Vô-Vi ngã tâm tu."

Khi sắp đổi về Sài-Gòn thì Đức Cao-Đài có cho Ngài bài trường-thiên như vầy:

Kín ngoài rồi lại kín trong

Đường xa phong cẩn thưởng lòng để vui

Công đầu chịu cực đừng lui

Thiên-Tào thăng thưởng đạo mùi ngọt ngon

Ba năm lòng sáng như son

Trèo non xuống biển vuông tròn công-phu

Chớ phiền mỏi mệt lòng tu

Trăng kia mây vẹt Đường Ngu gặp hiền

Mựa toan vụ thấy thanh Thiên

Các đào rõ biết mối truyền chánh tông

Giờ nầy Thầy điểm thâm công,

Ngày sau con sẽ cỡi Rồng về Nguyên

Ngoài trong, sạch tợ bạch-liên

Khá hòng gìn giữ mối giềng chớ xao

CHIÊU chiêu nguyệt thấu thanh thao,

Trên đầu cũng có Thiên-Tào xét xem

Thắm mùi con biết lân nem

Đề-hồ con uống Thầy xem ân cần

Đạo luyện khắc kỷ phục thân

CHIÊU con khá giữ Thầy phân cạn lời.

Lại dạy rằng: "Con đổi về Sài-Gòn, đồng-tử không thể đi theo con được. Vậy con phải rót một ly rượu, uống đi phân nửa, còn phân nửa thì cho đồng-tử uống, gọi là lễ tiễn biệt nhau."

Ngài bèn làm y theo lời dạy. (Lúc đó đồng-tử Ngưng đương mê mà đôi hàng nước Mắt chảy tuôn, tỏ nỗi đau lòng kẻ đi người ở. Thấy vậy Ngài cũng khó mà cầm lòng cho được.)

V. KHI THUYÊN CHUYỂN VỀ SÀI-GÒN

a) Thời kỳ gầy dựng Cơ Phổ-Độ của Cao Đài Đại-Đạo.


Thời-kỳ truyền-bá Đạo Cao-Đài đã đến và năm 1924 được Ngài gọi là năm 1 Cao-Đài Đại-Đạo. Về tới Sài-Gòn, trước nhứt Ngài ở tại Bá-Huê-Lầu đường Pellerin (nay là đường Pasteur), sau lên ở Đakao đường Paul-Bert bây giờ Trần-Quang-Khải sau nữa đường d'Espagne (Lê-Thánh-Tôn) rồi đường Bonnard số 110, trên từng lầu nhì (nay là Lê-Lợi) tới ngày chót.

Ngài thường tới lui chơi ở Chùa Ngọc-Hoàng (Đakao), mỗi ngày đi làm việc hai buổi về Ngài đóng cửa tu-hành ít giao thiệp với người thế.

Gần rốt năm Ất-Sửu (1925) Đức Cao-Đài mới dạy Ngài đem mối Đạo truyền ra.


Ở Sài-Gòn, Ngài gặp trước hết là Quan-Phủ Vương-Quan-Kỳ là bạn đồng-song tâm-đầu ý-hiệp. Ngài mới khuyên Ông Kỳ lo tu-tâm dưỡng-tánh và thờ Đức Cao-Đài. Ngài độ trước hết bốn Ông sau đây:

Nhóm thứ nhất:

Ông Phủ Vương-Quan-Kỳ

Ông Phán Nguyễn-Văn-Hoài

Ông Phán Võ-Văn-Sang

Ông Đốc-Học Đoàn-Văn-Bản.


Phần Ông Phủ Vương-Quan-Kỳ thì Ông cũng khuyên được nhiều Ông vào Đạo như là:


Ông Nguyễn-Thành-Cương

Ông Nguyễn-Thành-Diêu

Ông Nguyễn-Hữu-Đ¡c

Ông Lê-Văn-Bảy dit Tý

Ông Võ-Văn-Mân


Nhóm thứ nhì:

Đằng nầy Ông Cao-Quỳnh Cư [10], Ông Phạm-Công-Tắc và Ông Cao-Hoài-Sang, và quí Ông Diêu - Đức - Thân - Nguyên trước hết vào hạ tuần tháng 7-1925 tập xây bàn chơi tại nhà Ông Cao-Hoài-Sang. Ban đầu thì là hồn người quá-vãng nhập vào họa-thi chơi, như con Ông Cao-Quỳnh-Cư là Cao-Quỳnh-Lương, kế đó Cụ Cao-Quỳnh-Tuân là thân-sinh Ông Cư.

Sau có một vị Tiên-Ông xuống cơ xưng A Ă Â. Cũng làm thi cũng họa-vận. Và Đức A Ă Â bảo mấy Ông Sang, Cư, Tắc phải kêu bằng Thầy cho tiện bề đối-đãi. Ngược lại Đức A Ă Â kêu mấy Ông là "Các con."

Rồi kế đó có vị Tiên-Cô xưng là Thất-Nương dạy phải kiếm Ngọc-cơ mà dùng cho tiện.

Nhờ sự giải-thích và dẫn-dắt của Tiên-Cô lần lần các Ông tin-tưởng, tôn-kính Thần Tiên, Tiên-Cô còn nói có thể cầu Đức Kim-Mẫu nhưng phải trai giới 3 ngày, Tiên-Cô lại chỉ dẫn cho cách phò ngọc-cơ nữa. May lúc đó mấy Ông mượn được ngọc-cơ của Ông Tý cũng ở chung đường Bourdais (nay đường Calmette).

Đến đêm Lễ Sanh-Nhựt (Noel 24-12-1925) thì Thất-Nương giáng cơ dạy phải chỉnh đàn cho nghiêm mà tiếp giá. Nghe vậy mấy Ông Cư, Tắc, Sang nửa mừng, nửa sợ lật đật sắm hương-đăng trà quả, chỉnh-đàn cho có nghi-tiết. Hai Ông Cư, Tắc ngồi lại phò-loan thì cơ viết như vầy:

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Giáo-Đạo Nam-Phương.

THI

Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,

Vui lòng tu-niệm hưởng ơn Thiên,

Đạo mầu rưới khắp nơi trần-thế,

Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.


Đêm nay phải mừng vì là ngày Ta đã xuống trần dạy Đạo bên Thái-Tây (Europe) Ta rất vui lòng mà đặng thấy chư đệ-tử kính mến Ta như vậy. Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền-diệu đặng kính mến Ta hơn nữa.

Bấy lâu Thầy vẫn tá-danh A Ă Â là để dìu-dắt các con vào đường đạo-đức hầu chẳng bao lâu đây các con sẽ ra giúp Thầy mà khai-Đạo. Các con thấy Thầy khiêm-nhượng dường nào chưa? Các con nên bắt chước Thầy trong mảy mún thì mới xứng đáng là người đạo-đức.

Sau đây là sự thu-phục Ông Lê-Văn-Trung của Đức Cao-Đài Thượng-Đế.

Vào khoảng tháng 6 dl. 1925 trên Chợ-Gạo (Phú-Lâm) thường đêm có thiết-đàn cầu Tiên. Ông Hội-Đồng Nguyễn-Hữu-Đắc một hôm gặp Ông Lê-Văn-Trung bèn rủ đi hầu đàn trên Chợ-Gạo. Biết chỗ rồi sau mỗi kỳ cúng đàn có cầu cơ thì Ông Trung tới. Lần lần Ông thâm-nhiễm mùi đạo rồi trường-trai giữ-giới mà lo việc tu-hành.

Sau khi Thầy độ được Ông Trung rồi thì có lịnh bế đàn Chợ-Gạo làm chư-nho thảy đều ngơ-ngẩn không rõ cớ chi. Mãi đến mùng 5 tháng chạp Ất-Sửu (28-1-1926) Đức Cao-Đài Thượng-Đế giáng-cơ dạy hai Ông Cư-Tắc đem cơ vô nhà Ông Trung đường Quai Testard Chợ-Lớn cho Thầy dạy việc. Hai Ông lấy làm bợ-ngợ vì chưa hề quen biết với Ông Trung nhưng lịnh trên dạy phải khâm-tuân.

Khi đến nhà Ông Trung rồi, Ông Cư thuật rõ đầu đuôi thì Ông Trung lộ nét vui mừng, lật đật lo thiết đàn. Đức Thượng-Đế giáng-cơ dạy Đạo và khuyên việc tu-hành. Thầy phán rằng chính Thầy đã sai Đức Lý-Thái-Bạch dìu-dắt Ông Trung nơi đàn Chợ-Gạo lâu rồi.

Thầy dạy: "Trung, nhứt tâm nghe con. Sống cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy mà đọa cũng nơi Thầy. Con lấy sự sáng-suốt của con mà suy lấy."

Một Trời, một Đất, một nhà riêng,

Dạy dỗ nhơn-sanh đặng dạ hiền,

Cầm mối Thiên-cơ lo cứu chúng,

Đạo người vẹn vẽ mới là Tiên.

Từ đây Ông Trung ngửa vâng Thánh-Ý, thu xếp việc nhà, xả-thân hành-đạo. Đó là Thầy lựa chọn thành-lập đầu tiên những nhóm đệ-tử về Cơ Phổ-Hóa sau nầy.


Sự hiệp-tác giữa nhóm 1 và 2.

Quí Ông: Cư - Tắc - Sang xin Đức Thượng-Đế chỉ bảo cách thức đặng thờ Ngài thì Đức Cao-Đài Thượng-Đế dạy: mấy con phải đến hỏi Chiêu thì rõ [11].

Một hôm vào hạ-tuần tháng chạp năm Ất-Sửu, Đức Cao-Đài Thượng-Đế giáng-cơ dạy mấy Ông Trung, Cư, Sang, Hậu, Đức phải theo lịnh Đức Thượng-Đế lại chung hiệp với Quan-Phủ Ngô-Văn-Chiêu mà lo mở Đạo. Đức Cao-Đài Thượng-Đế lại dạy rằng mọi việc phải do nơi Chiêu là anh Cả. Theo lời Ông Nguyễn-Trung-Hậu thì lúc bấy giờ, ngoài Đức Ngô-Minh-Chiêu còn có 12 người đệ-tử của Đức Cao-Đài là:

1.- - Ông Vương-Quan-Kỳ

2.- - Nguyễn-Văn-Hoài

3.- - Võ-Văn-Sang

4.- - Đoàn-Văn-Bản

5.- - Lê-Văn-Trung

6.- - Lê-Văn-Giảng

7.- - Lý-Trọng-Quí

8.- - Cao-Quỳnh-Cư

9.- - Phạm-Công-Tắc

10.- - Cao-Hoài-Sang

11.- - Nguyễn-Trung-Hậu

12.- - Trương-Hữu-Đức


Đêm 30 tháng chạp năm Ất-Sửu (12-2-1926) Quan Phủ Ngô-Văn-Chiêu đi với hai Ông Cư - Tắc đến nhà mỗi vị đặng chúc mừng Tân-Xuân Ngài dặn hễ tới nhà mỗi vị thì hai Ông Cư và Tắc phò cơ cho Đức Thượng-Đế cho thì dạy bảo. Trước hết lại nhà Ông Phán Võ-Văn-Sang rồi lần lượt tới chót hết là nhà Ông Lê-Văn-Trung

BÀI THI CHO ÔNG VÕ-VĂN-SANG:

Tân dân hỉ kiến đắc tân niên,

Phổ-Độ Tam-Kỳ bá thế hiền,

Nhứt tịnh chủ tâm chơn đạo lý,

Thăng thiên huợt địa chỉ như nhiên.


BÀI THI CHO ÔNG CAO-QUỲNH-CƯ:

Sắp út thương hơn cũng thế thường,

Cái yêu cái dạy ấy là thương,

Thương không nghiêm trị là thương dối,

Dối dạ vì chưng yếu dạ thương.

Cư, trong năm mới nầy Thầy trông mong con rõ thấu đạo-đức hơn nữa, Gắng chí nghe!


BÀI KỆ CHO ÔNG VƯƠNG-QUAN-KỲ:

Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt tân,

Niên đáo tân hề đạo giữ tân,

Vô lao công quả tu đương tác,

Niên quá niên hề đạo tối tân.


BÀI THI CHO ÔNG LÊ-VĂN-GIẢNG:

Trần-tục là nơi chỗ biển buồn,

Nghe nơi Đại-Đạo rán nghe luôn,

Ở trong nhà sẵn Thầy đưa khó,

Ách nạn chi chi cũng chảy tuôn.


BÀI THI CHO ÔNG NGUYỄN-TRUNG-HẬU tự THUẦN-ĐỨC:

Thuần-phong mỹ-tục giáo nhơn sanh,

Đức hóa thường lao mạc vị danh,

Hậu thế lưu truyền gia pháp quí,

Giáo dân bất lậu, tán thời manh.


BÀI THI CHO ÔNG NGUYỄN-VĂN-HOÀI:

Vô-vi tối yếu đạo đương cầu,

Đệ-tử tâm thành bất viễn ưu,

Thế-sự vô duyên, vô thế-sự,

Tiêu tư bất xuất ngoại giang đầu.


BÀI THI CHO ÔNG PHẠM-CÔNG-TẮC:

Ngao ngán không phân lẽ thiệt không,

Thấy thằng áp út quá buồn lòng,

Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,

Cái của cái công phải trả đồng.


Tắc, rán học Đạo, không Thầy biểu Chiêu đánh.


BÀI THI CHO ÔNG ĐOÀN-VĂN-BẢN:

Thương thay trung tín một lòng thành,

Chẳng kể quan mà chẳng kể danh,

Thiệt thòi bấy phận không con nối,

Thấy rứa lòng Ta cũng chẳng đành.


BÀI THI CHO ÔNG LÝ-TRỌNG-QUÍ:

Lỡ một bước, lướt một ngày,

Một lòng thành thật chớ đơn sai,

Lôi thôi buổi trước nhiều ân xá,

Lấp lửng đừng làm tội bữa nay.


BÀI THI CHO ÔNG LÊ-VĂN-TRUNG:

Đã thấy ven mây lố mặt Dương,

Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường,

Đạo cao phó có tay cao độ,

Gần gũi sau ra vạn dặm trường.


Thăng [12]

Khuya mùng một Tết năm Bính-Dần (13-2-1926) giờ Tý tái cầu thì Đức Thượng-Đế giáng dạy rằng:

Chư đệ-tử nghe: "CHIÊU - Buổi trước hứa lời truyền-đạo cứu-vớt chúng-sanh, nay phải y lời mà làm chủ mối Đạo, dìu-dắt cả môn-đệ Ta vào đường đạo-đức đến buổi chúng nó thành-công, chẳng nên tháo-trúc. Phải thay mặt Ta mà dạy dỗ chúng nó."

"Trung Kỳ Hoài, ba con phải lo thay mặt cho Chiêu mà đi độ người. Nghe và tuân theo."

"Bản - Sang - Giảng - Quí, lo dọn mình đạo-đức đặng truyền-bá cho chúng-sanh. Nghe và tuân theo."

"Đức, Hậu, tập cơ; sau theo mấy anh con mà độ người. Nghe và tuân theo."


Ấy là lời Thánh-Giáo đầu tiên - Và là ngày kỷ-niệm Khai-Đạo Cao-Đài về Cơ Phổ-Hóa: ngày mùng một năm Bính-Dần giờ Tý vậy (13 Février 1926)


Qua đến ngày mùng 9 tháng Giêng (21-2-1926) nhằm ngày vía Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế. Quan-Phủ Vương-Quan-Kỳ có thiết-đàn riêng tại nhà Ông, số 80 đường Lagrandière (bây giờ là đường Gia-Long.) Đêm ấy có mời chư-nhu và mấy vị đạo-hữu hầu đàn.

Thượng-Đế giáng-cơ dạy như vầy:

Bửu Tòa thơ thới trỗ thêm hoa,

Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà,

Chung hiệp rán vun nền đạo-đức,

Bền lòng son-sắt đến cùng Ta.


"Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu. Thầy vui muốn cho các con thuận-hòa nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trọng. Phải chung lo cho Đạo Thầy. Đạo Thầy tức là các con, các con tức là THẦY. Phải làm cho nhau đặng thế-lực, đừng ganh gổ nghe. Các con giữ phận làm tùy ý Thầy muốn. Ngày kia sẽ rõ ý muốn của Thầy."

Khi ấy Quan Phủ Ngô-Văn-Chiêu xin Thượng-Đế lấy tên mấy người đệ-tử mà cho một bài thi kỷ-niệm.

Thượng-Đế bèn cho bốn câu như vầy :

Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh,

Bản đạo khai Sang Quí Giảng thành,

Hậu Đức Tắc Cư Thiên địa cảnh,

Quờn Minh Mân đáo thủ đài danh.


Thượng-Đế lại phán: "Quờn Minh Mân, sau sẽ rõ"...


Nguyên 12 chữ lớn trong 3 câu trên là tên của 13 vị môn-đệ trước hết của Thượng-Đế. Có hai tên Sang: Võ-Văn-Sang và Cao-Hoài-Sang. Thầy điểm-danh chung một tên Sang. Còn 3 chữ lớn câu chót là tên ba vị hầu đàn.

Vì Quan Phủ Ngô-Văn-Chiêu không thể đi chỗ nầy chỗ kia đặng nên Đức Thượng-Đế mới dạy: "Trung - Kỳ - Hoài phải lo thay mặt cho Chiêu mà đi độ người."

Thường khi hễ tới bữa thứ bảy thì Ngài có thiết một tiệc chay tại căn phố Ngài ở 110 đường Bonnard (bây giờ là Lê-Lợi) trên lầu hai, mà đã các vị đã thay mặt Ngài đi giảng-đạo. Luôn dịp đó Ngài cũng bàn bạc và chỉ vẽ điều cần-thiết để phổ-thông Cơ Đạo. Ngài nói rất khiêm-nhường, đó là công quả chút it', chung góp ý-kiến với anh em trong việc truyền-bá Đạo Cao-Đài.

Ngài lại còn xuất tiền may cho một ít vị áo xuyến đen hoặc áo hàng trắng để bận mà làm việc cho Đạo.

Nhóm thứ ba:

Sau đêm Khai-Đạo, Đức Cao-Đài Thượng-Đế đã thu phục được nhiều vị đệ-tử mới nữa như quí Ông: Lê Bá Trang - Nguyễn Ngọc Tương - Lê Văn Hóa - Mạc Văn Nghĩa - Nguyễn Ngọc Thơ - Lê Văn Lịch - Trần Đạo Quang - Nguyễn Văn Kinh - Lâm Quang Bính - Nguyễn Văn Tường. Phần phò loan ngoài các Ông: Cư - Tắc - Sang - Hậu - Đức có thêm Ông Cao Quỳnh Diêu - Cao Minh Chương - Phạm Tấn Đài - Trần Duy Nghĩa v.v...[13]

Ban đầu mấy Ông: Kỳ - Cư - Tắc - Trung - Sang - Hậu - Đức - Bản - Giảng mỗi đêm đều lưu lại nhà Ông Trung, khi nơi nhà Ông Cư, khi nơi Ông Bản (Cầu-Kho) để cầu cơ. Về sau đàn ở Cầu-Kho thành ra đàn lệ.

Trong lúc quí Ông: Kỳ - Bản - Hậu - Giảng - Thành (Tuyết Tân Thành) Giáo - Hiến - Vĩnh (Lê Thế Vĩnh) lo thiết đàn ở Sàigòn thì quí Ông Trung Cư Tắc Nghĩa lại xuống miệt Cần-Giuộc lập đàn khi ở Chùa Vĩnh-Nguyên, khi lại ở Chùa Hội-Phước. Nơi ấy có quí Ông Phủ Nguyễn-Ngọc-Tương. Lê-Văn-Hóa với quí Ông Lê-Văn-Lịch. Ngô-Văn-Kim giúp sức vào nên mấy Quận Cần-Giuộc, Cần-Đước thiên-hạ nhập môn nườm-nượp, mỗi kỳ đàn, người cầu Đạo có số ngàn.

Phần Đạo: Cơ Phổ-Độ bắt đầu phát-triển.

b) Cơ Phổ-Độ bắt đầu phát-triển.



Qua năm Bính-Dần (1926) Cơ Phổ-Độ qua khỏi thời-kỳ phôi-thai và vừa có đủ vây cánh để tiến-triển.



Ngày 14-4-1926, Thánh-Ngôn dạy quí Ông Cư - Tắc - Trung phải lập tức cho Ngài Ngô-Minh-Chiêu hay rằng Thầy đã sắc-phong cho Ngài chức Giáo-Tông và bảo sắm một bộ thiên-phục màu trắng có chữ Càn của Bác-Quái. Mặc dầu Ngài không chịu nhận chức Giáo-Tông nhưng Ngài cũng xuất tiền ra huờn lại bộ đồ Giáo-Tông mà quí Ông Cư - Tắc - Trung đã sắm sẵn đem xuống.



Ngài gởi bộ đồ ấy trở về Tòa-Thánh Tây-Ninh và đã để thờ tại Tòa-Thánh tới nay.



Ngày 23 tháng 8 Bính-Dần (29-9-1926) Ông Lê-Văn-Trung vâng Thánh-Ý hiệp với chư đạo-hữu hết thảy là 247 người tại nhà Ông Tường đứng tên vào tịch đạo để Khai-Đạo (Cơ Phổ-Hóa) với Chánh-Phủ.



Ngày 7-10-1926 tờ Khai-Đạo được gởi lên Quan Thống-Đốc Nam-Kỳ là Ông Le Fol (Toàn-Quyền Đông-Pháp là Ông Pierre Pasquier nhằm Triều Bảo-Đại). Trong tờ ấy có 28 người ký tên.



Quí Ông: Lê-Văn-Trung, Lê-Văn-Lịch, Trần-Đạo-Quang, Nguyễn-Ngọc-Tương, Nguyễn-Ngọc-Thơ, Lê-Bá-Trang, Vương-Quang-Kỳ, Đoàn-Văn-Bản, Lê-Văn-Giảng, Cao-Quỳnh-Cư, Phạm-Công-Tắc, Cao-Hoài-Sang, Nguyễn-Trung-Hậu v.v...



Quan Phủ Ngô-Văn-Chiêu biết bấy giờ Ngài đã xong nhiệm-vụ trong việc xây-dựng nền tảng Cơ Phổ-Độ của Cao-Đài Đại-Đạo.



Ngài cũng thấy trước những cơn khảo-đảo và cũng có tiên-tri cho vài người (trong đó có Ông Mai-Thọ-Truyền) biết trước cuộc đại-náo đêm 14 tháng 10 Bính-Dần (18-11-1926) tại Từ-Lâm-Tự (Gò-Kén – Tây-Ninh).



Vì có cuộc đại-náo trên đây nên vị Hòa-Thượng Như-Nhãn, chủ nhân ngôi Chùa Từ-Lâm-Tự đòi lại ngôi Chùa. Do đó mới có cuộc dời Tòa Đạo về làng Long-Thành tại một sở rừng 100 mẫu mới khai phá được 10 mẫu, mua với giá 25.000$00. Đó là nền móng cơ-sở đầu tiên của Tòa-Thánh Tây-Ninh mà nhà nhà đều lợp bằng tranh với lá.



c) Hoàn-thành sứ -mạng: Lập cơ-tuyển-độ Chiếu-Minh Tam-Thanh Vô-Vi.



Vả lại Ngài còn phải đảm-đương một sứ-mạng khác, rất quan-trọng của Đức Chí-Tôn giao-phó, là phần việc lập-thành và điều-khiển Cơ Tuyển-Độ “Chiếu-Minh Tam-Thanh Vô-Vi”.



Trọn đời, hành-động của Ngài về mặt Đạo nhứt nhứt đều thuận-tùng Thiên-ý, chẳng hề cố dụng tư-tâm.

____________



Ngày 18 tháng 5 Bính-Dần (27-6-1926) tại Chiếu-Minh-Đàn Cần-Thơ, Đức Thượng-Đế giáng-cơ dạy Ngài như vầy:



“Tại lời nguyện của con khi trước, nay Thầy đã hứa cho con ngồi yên-tịnh đặng Thầy dìu-dắt con theo Thầy, nhưng còn phải độ cả chúng-sanh cho kịp Hội Long-Hoa.[14]



Thầy cho con một bài thi coi theo đó mà làm.



CHIÊU an bá tánh khả hồi tâm,

NGHI thức Thiên-cơ, Đạo dị tầm,

ĐỘ thế giai do công mẫn cán,

MÔN thành duy hữu đức hoàng thâm,

SANH phùng Đại-Đạo tu cần bộ,

CHÍ ngộ chơn truyền khả tốc lâm,

LONG hổ tùng vân cu đẳng hội,

HOA khai hựu nhựt báo giai âm.



Cho chữ nho:



Ta là Chúa cả Thánh—Thần—Tiên,

Cho khắp nhơn gian rõ Đạo Thiền,

Khá học theo CHIÊU lời dạy bảo,

Hễ vào một Đạo chớ nên phiền.



Qua ngày 18 tháng 11 năm Bính-Dần (21-12-1926) Ngài xuống bái Đàn Tiên Cái-Khế Cần-Thơ, Ông Huyện Bảy Cần-Thơ có hầu đàn bữa đó, thuật chuyện lại như sau:



Bữa ấy trong đàn, cơ đương dạy thì cơ gõ mạnh và bảo người ra ngoài đón vị “Tiên-Tịnh Hữu-Danh” vào. Có người chạy ra cửa ngõ thì gặp Ngài bận bộ đồ vải đen, vai vuông tay rộng, giống như người Tàu. Không thấy ai khác nữa, y mới vô thì cơ lại gõ bảo ra rước. Ngài bèn thay lễ-phục (áo tràng khăn đen) vào hầu đàn. Bề Trên cho Ngài bốn bài thi và một bài Trường-Thiên như vầy:



Đạo tâm tự giác, giác nguyên tâm,

Kiệt lực bồ-đề thức đảnh tầm,

Ngoạn cẩm đương sơn Thiên thị ứng,

Biến du tạm kiểng lịch triều thâm,

Thất hườn thế cuộc an qui chánh,

Cửu chuyển trần tâm bát diển cầm,

Tinh đẩu Càn khôn canh hóa cổ,

Quân minh lập tấn yết toàn khâm.



Diệu lý hoằng khai diệu lý tâm,

Sơ quân ký tích chuyển khoan tầm,

Đề lao chánh niệm tùng kim cổ,

Nhã đạo tự an giác hậu thâm,

Lạc đức qui mô ban ứng tại,

Lưu nhơn tông chỉ khởi tương cầm,

Minh y cố lý minh y phục,

Vọng thủ hoài lai vọng thủ khâm.



Từ đây mới biết Đạo mầu linh,

Nghe thấy không con, hoại giáo trinh,

Mối đạo đâu vầy tranh nghĩa vậy,

Pháp môn cũng lạ gọi nhơn minh,

Biết rằng Tôn-Giáo sanh nhiều ngả,

Trong luật tu hành nhẫn nhục thinh,

Chê cũng dầu mà khen cũng thế,

Mặc ai tai mắt giữ công-bình.



Trời mù tối mắt biết chi linh,

Nỗi sống trò cười khắp nẻo trình,

Lúc thúc miệng trương trong giếng ếch,

Se sua mắt thế chốn hang minh,

Sông sâu sào vắn chưa tường đáy,

Non cạn khôn đương ỏi tiếng thinh,

Mắt nghó coi con kia thấy Đạo,

Đạo cao ngàn thước nổi vang bình.

____________



TRƯỜNG – THIÊN



Đạo là đường cả chông gai,

Biết thời lần mõ dốc mài ắt khi,

Một lòng quyết Đạo huyền-vi,

Có thân có phận chi chi phải dè.

Thầy nói thì con biết nghe,

Ông địch không lỗ gọi the là đời.

Làm cho trò lánh mặt hơi,

Có công có của biết tời nẻo kia.

Làm con cách mặt xa chia,

Van lưu bốn phía người chia Đạo lành.

CHIÊU con đừng tưởng chớ tranh,

Trước con có thấy đường quanh việc đời.

Tu hành nhẫn tiếng các nơi,

CHIÊU con khá biết trên đời kiết-hung.

Giữ lòng niệm chữ thiên tùng,

Mặc ai đua sự giáo tùng bớ CHIÊU.

Còn trời còn nước Thuấn-Nghiêu,

Vào ra lừa lọc đừng kiêu chử long.

Ngày sau thê-tử ấm-phong,

Phật, Tiên phổ-hóa con phòng hậu lai.

Thấy con luyện thuốc Thiên-Đài,

Lòng lo cầu nguyện hồng-thai giữ mình.

Ngày cơm hai bữa cho tinh,

Sớm lo việc nước chiều trình công-phu.

Một lòng một dạ rèn tu,

Dây lèo tay bánh rừng nhu tầm vào.

Ngọn đèn con tỏ như sao,

Con ôi! giữ lấy khéo trao tay người.

Ở trong Cửu-lục sáng ngời,

Chiếc thoàn biển khổ Phật, Trời vượt qua.

Khắp trong trần thế ta-bà,

Khuyên con chăm bước Thiên-Tòa đề lai.

Thiện tai! Thiện tai! mặc ai,

Bồ-Đề nhứt cú luận bài siêu thăng.

Xét câu Nhựt, Nguyệt đồng đăng,

Hai vừng mây chiếu ngọc hằng bản danh.

Tưởng trong lưỡng hổ đấu tranh,

Phiêu phiêu chánh giáo khó hành thiện căn.

Mau mau xét lấy ăn năn,

Phản hồi cựu ước định hằng bổn tâm.

Thiên thính hề tịnh vô âm,

Bớ kia bốn đệ đạo cầm phổ thong.

Hai mắt ngó thấy vừng hồng,

Vẹt mây cung Quảng quang đồng nhơn gian.

Sanh sự thiệt sự không an,

Chi bằng hết dạ Tây-bàng lộc thân.

Thấy trong trần-thế tu cần,

Tu không nhằm nẻo dành phần công cao.

Làm cho thấu tới Thiên-Tào
Hô phong thiện ác sắc giao bốn thần.

Dưới đời sanh sự chẳng cân,

Cuồng phong lâm nhiễm một lần cuồng ngôn.

Thấy con Thầy tỏ chánh tôn,

Kìa kìa tứ đệ cho tồn qui mô.

____________



Qua ngày 17 tháng 3 Đinh-Mão (18-4-1927) Đức Thượng-Đế có khuyên Ngài như vầy:



Mối Đạo gầy nên vốn bởi con

Trước sau, sau trước gắng công tròn

Tuy nay tứ-đệ đồ nơi tệ

Con học lòng Tiên sửa lại còn.

____________



Trong tuần tháng 5 dl, 1927, Đạo-Hữu Chiếu-Minh-Đàn Cần-Thơ lập-thành một sở Nghĩa-Địa, và có thiết-đàn cầu Tiên đặt tên Nghĩa-Địa và phê cho ít bài để làm kỷ-niệm.



Ngày nay đọc kỹ lại, mới thấy trong mấy bài thi ấy có nói phần nhiều là việc tương-lai của Đức ngô-văn-Chiêu vậy.



Đây là mấy bài liên-hườn nói trên:

(Lý-Đại-Tiên)



Chiếu gương nhựt nguyệt rõ tâm thành

Minh cảnh đài trung rạng giá thanh

Nghĩa tụ ngàn năm bia tạc để

Địa trường hai chữ tặng môn-sanh.



Môn-sanh một dạ đẹp lòng Ta,

Dị tánh đồng môn tỷ một nhà,

Sống lập tâm kinh làm Đạo-Đức,

Thác về Nghĩa-Địa khỏe thân già.



Thân già an giấc bỡi tu hành,

Tham Đạo không màng nẻo lợi danh,

Sống kể ngày năm đời gọi yểu,

Thác về Tiên-cảnh mới trường-sanh.



Trường-sanh dưới thế tính sai lầm,

Lẩn bẩn dương trần đặng mấy lăm,

Một giấc quang-âm dường lửa nháng,

Về miền Cực-Lạc khỏe muôn năm.



Muôn năm Nghĩa-Địa chẳng phai mòn,

Ngọc-Đế hồng ân tạc sử son,

Hai chữ Chiếu-Minh làm kỷ-niệm,

Lưu truyền vạn kiếp vững bền còn.



(CỬU-THIÊN HUYỀN-NỮ)

____________



Bền còn hai chữ Chiếu-Minh-Đàn,

Hiệp lực đồng tâm nghĩa mộ an,

Lập chí tu hành cho phải phép,

Ngàn năm xác dấu phách không tàn.



Không tàn phước lộc bỡi dày công,

Đạo-đức vuông tròn rạng núi sông,

Khỏe mắt sanh tiền xem Nghĩa-Địa,

Vui lòng tử hậu đến non Bồng.



Non Bồng cõi thọ diệu hoằng thâm,

Muốn thoát trầm luân khổ chí tầm,

Một nắm xương tàn an Nghĩa-Địa,

Hồn về Tiên cảnh khỏe muôn năm.



Muôn năm giữ trọn tánh thiêng-liêng,

Muốn thấy Như-Lai Phật tại tiền,

Vui bữa tương rau ròng sám kệ,

Xác về Nghĩa-Địa phách phi thiên.



Phi thiên bửu pháp luyện thông đường,

Đắc lộ tinh thân rạng tợ gương,

Chư sĩ nhớ ghi lời dặn bảo,

Cầu cho Nghĩa-Địa phước miên trường.



Bữa rằm tháng chạp năm Đinh-Mão (7-1-1928) thì Quan Phủ Ngô-Văn-Chiêu tu gần được bảy năm, Đức Thượng-Đế cho Ngài hai bài thi như vầy:

Thất niên dĩ cận thiểu nhơn tri,

CHIÊU dụ hồi tâm nhựt sở vi,

Tùng thử Tam-kỳ hành chánh đạo,

Trì nghi nan đắc Đạo Vô-Vi.



Thích nôm


Bảy thu lấp xấp đã gần bên,

CHIÊU đốc các con gắng chí bền,

Muôn kiếp hội may gần Chánh-Giáo,

Trì nghi khó gặp nẻo mò lên.



Bước qua năm Mậu-Thìn nhằm ngày mồng hai tháng Giêng (24-1-1928) Đức Bạch-Nhẫn Tiên-Trưởng cho chư đạo hữu Cần-Thơ một bài thi chỉ rõ cái kiếp của Quan Phủ Ngô-Văn-Chiêu:



Nhựt triệu [15] tiên duyên nhứt vị cao,

Nãi lai thử kiếp thọ tân tao,

Kỷ niên dĩ mãn hồi Tiên-cảnh,

Nhựt dạ cần tu bất nại lao.



Ngày 16 tháng Giêng năm Mậu-Thìn (7 Février 1928) Ngài xuống bái đàn Hiệp-Minh (Cái-Khế), Bề-Trên cho Ngài 6 bài thi và một bài trường-thiên như vầy:

Nguyệt Minh cao Chiếu thượng nguơn quang,

Chánh khí huyền đô Tử-Phủ đàn,

Nam kiệt huy đằng nhơn đạo chấp,

Bát Vương tá chánh giác khôn Càn,

Cửu-trùng hạc cáo Từ-Hàng giá,

Ngũ vọng đương lai thích-lịch gian,

Tri cổ Phan-Khê trung trực thế,

Hòa bình võ trụ tạc danh nhàn.



Nhựt CHIÊU đản tiết điểm xuân quang,

Đồ ảnh diêu phong khí hiệp đàng,

Huỳnh giá Minh khai quân Chiếu hội,

Bạch-san băng võ diệu qui Càn,

Thanh thiên yến nguyệt quang lai giá,

Bạch lộ nhựt qui khán cảnh gian,

Lạc hóa thi đề ban đức tánh,

Ngao du thù tửu chúng môn nhàn.



Thiên phong suy trục tấn minh quang,

Thủy tọa vân hoành náo động đàng,

Giai cú lãng ngâm hoan chước tửu,

Gia-đình vô dạng bảo nguơn Càn,

Võ thâu tịnh hấp thiên lam tẩy,

Tiết chí khâm lư bá khả gian,

Hồ điệp bất tri xuân dĩ khứ,

Suy tâm du tự luyến thi nhàn.



Đường trường khiu khúc bóng dương quang,

Vẻ ngọc đêm rằm chói rỡ đàng,

Mây phủ chín từng xanh mặt núi,

Tuyết phê muôn dặm trắng sông Càn,

Tiếng ngâm thảnh thót hoà phong thủy,

Chén rượu ngạt ngào đối tuyệt gian,

Trăng cảnh nước người bao xiết nói,

Trai lành gái tốt hưởng an nhàn.



Rừng xanh rậm nẻo vẽ hào quang,

Bóng phất ngày xuân chiếu dặm đàng,

Một túi quỳnh tương đưa ngọn gió,

Đôi bầu linh dược trải ơn Càn,

Tiếng phơi cửa Phật trăm năm tạc,

Nhuận đặc nhà tiên chính cõi gian,

Tỏ sáng trên đời màu bát-ngát,

Gái trai thong thả cuộc phong nhàn.



Tiên bồng vừa mở tiệc phong quang,

Chào khách bốn phang hiệp một đàng,

Thoan thoản ngoài đường tai rực rỡ,

Lăng xăng trong cửa tiếng ăn càng,

Chòm sao liễn chớp trên không nháy,

Luồn gió đùa mây dưới thế-gian,

Sơ dã thất trùng mê mãn nhãn,

Nửa về nửa ở cảnh u-nhàn.

____________



TRƯỜNG – THIÊN



Khắp trong Đệ-tử đâu đâu,

Một lòng cách trí ban đầu sơ giao.

Ngày kia sẽ thấu Thiên-Tào,

Gái trai chớ có khoe màu đục trong,

Tu hành để dạ đề phòng,

Chớ cho thất lật long đong việc đời.

Chớ đừng cái giọng hết hơi,

Phần hồn là khổ nợ đời thấy không?

Phải minh luật pháp chánh tông,

Chớ cho Xiển-Giáo chẳng đồng thấp cao,

Phải cho hòa huỡn đừng mau,

Khí trì tất chú khôn bao vận hành,

Xét coi tỏ Đạo chiếu danh,

Ta-bà huyền mật lòng thành hoàn cung,

Cam-lồ nhứt điểm sáng cùng,

Một vòng tóm sạch tùy tùng Thánh-Tiên,

Ra công quét sạch hồng duyên,

Khỏi vào lục-đạo phước hiền siêu thăng,

Sớm khuya ghi chữ thiện năng,

Bồ đề an phận lòng hằng hôm mai,

Thấy trong trai gái dồi mài
Mười phần có một hoa khai trên đời,

Gái lo gắng nhuận an nơi,

Trau công bồi quả chớ lời tranh đua,

Việc trong Phật giáo phép chùa,

Đừng suy vinh nhục đừng mua tiếng đồn,

Gái ôi phải xét cho khôn,

Công danh phú quới phần hồn đâu siêu,

Vô đàn ngó thấy người Chiêu,

Ai đời sấm nổ đường tiều lấp chông,

Nhiều nơi diễn thuyết xưng ông,

Tam-Hoàng, Ngũ-Đế, Thần-Đồng nêu danh,

Phần đời phải biết tồn-sanh,

Sảng Đạo tông giáo khó thành ngày sau,

Năm rồi chỉ sắc làm sao?
Trò ôi! lập chí là bao nhưng là,

Làm sao ẩn phục vào ra,

Miên miên gió thổi tài qua mắt người,

Rằng đây rằng khuyết dạ khươi,

Hành tàng uẩn ảo kẻ cười người chê,

Khắp trong huờn nội bốn bề,

Vào ra chật ngõ sanh lê biết đồng

Tới đâu để đó như không,

Ai gầy, ai đát, ai trồng bỏ đây,

Rằng đi du lịch tiếng Thầy,

Tiên thành kỳ ý lời nầy bớ con,

Vì lời kim thạch sắt son,

Bất tri bất lẫn Đạo còn trung dung,

Biết rằng chỉ phải kim tùng,

Đục trong sách lấy thỉ chung Thấy trò.

____________



Qua bữa sau (17 tháng Giêng năm Mậu-Thìn = 8-2-1928) Ngài bái Đàn Chiếu-Minh, Đức Ngọc-Đế dạy rằng :



Linh-Tiêu thích lịch Đạo hoằng khai,

Xuất thủy bạch liên lục pháp đài,

Vạn đại hưng điều cam võ lộ,

Thử thân bất nhiễm lộng trần ai.

CHIÊU,

Thử lai thiên hạ xảo đa ngôn,

Tiền nhựt dĩ truyền nhứt phái tôn,

Vạn sự chung qui giai hiệp nhứt,

Khuyến quân mạt nại thế gian ngôn.



Nghi giảm khẩu, mạc tần lai chi nhuệ xứ, khả an bần thủ phận, thần hôn luyện đạo, chỉ giáo hiền lương chi sĩ, tùng hành chánh đạo, đãi mãn công quả phản hồi cựu vị, mạc lậu Thiên-cơ, mạc giữ thố truyền, mạc tín tha nhơn, lưỡng tâm nhiễu sự.



Tại Nam-Thiên-Cung đã ghi bộ công khai Đạo, hà nhựt thành công phi đằng tùng quyền cựu chủ. Khuyến nhữ khả chủ ý chăm tâm, bất khả bán đồ nhi phế, tội dĩ phản huờn ư nhữ.



CHIÊU con khá giữ mấy lời khuyên,

Chử dạ kiên tâm bất thố truyền,

Hiện thế nhơn tình đa lãnh noãn,

Bất nghi nhi điển thính cuồng điên.



Bữa 18 tháng Giêng Mậu-Thìn (9-2-1928), Thượng-Đế có cho Ngài mấy bài thi như vầy :



Ta là Ngọc-Đế chốn Linh-Tiêu,

Thương bấy chúng-sanh phải dắt dìu,

Khuyên trẻ lo tu cho kịp hội,

Các con tua giữ của lời CHIÊU.



Tạo vẽ giang-san một cảnh Trời,

Hoằng khai Đại-Đạo độ cùng nơi,

CHIÊU con hãy nhớ lời khuyên trước,

Bảo hộ dân lành đặng thảnh thơi.



CHIÊU,

Thay mặt cho Thấy chớ thở than,

Khá đem chư sĩ lại chung đàng,

Lánh nơi tà-mị giùm người chánh,

Mới phải là người độ chúng an,



Cũng bữa đó có Đức Thành-Hoàng Bổn-Cảnh Hàn-Dũ, có cho hai bài thi mừng Ngài như vầy :



HÀN huyên gặp gỡ thị tiền duyên,

Dũ hậu thùy tri cọng kỷ hiền,

BỔN tích Đào-Nguyên đào lý hữu,

CẢNH Tiên phàm tục lưỡng chi duyên.



Thích – nôm:



Ta là Hàn-Dũ xuất Cao-Tiên,

Gặp gỡ nhau đây thiệt bạn hiền,

Buổi trước Đào-Nguyên thường tửu hứng,

Nay chia người tục kẻ non Tiên.



Có một vị Tiên xưng là “Đệ-tử của một vị Đại-Tiên” cũng cho một bài thi mừng Ngài như vầy:



Tặng người đạo-đức thiệt dày công,

Nhựt tiếp thiên ân triệu ý đồng, [16]

Hữu kiếp tiền duyên lai tái thế,

Ngày sau độ chúng mở đường thông.



Đêm rằm tháng 8 Mậu-Thìn (28-9-1928) có lập Đàn tại nhà Ông Nhung ở Sàigòn. Bữa đó Ngài đến chứng đàn. Tiên-Ông giáng-cơ, viết :



Tầm sư học Đạo chốn Linh-Tiêu,

Từ thuở Tam-Hoàng Minh-Nguyệt triều,

Đài nội Minh-Hoàng lên viếng cảnh,

Trăng thu vọng tưởng chỗ Minh-Chiêu.



Ta cho chư-sĩ hay: đúng Tý thời Thượng-Đế giá-lâm, phải túc kỉnh, hai bên nghinh, đồng-tử phải đứng, đẳng-đẳng phải có bông nhang cặm trên đầu.

____________



Khi Thượng-Đế giá-lâm chớ nên dùng chữ Tiên-Ông, phải dùng chữ Linh-Tiêu.



THƯỢNG-ĐẾ GIÁ-LÂM


Trăng thu thưởng nguyệt tạm đàn chơi,

Tử-đệ lòng thành gắng vó mời,

Nam nữ hai bên đồng túc kỉnh,

Lóng tai nghe dạy thử đôi lời.

____________



Đêm thu trăng dọi sáng ngời,

Tòng reo gió thổi trên Trời sao giăng.

Thỏa lòng hứng cảnh bóng Hằng,

Vừng mây đỡ gót giáng thăng chốn trần.

Thương con Thầy chỉ Đạo bần,

Quản chi trần thế lao thân ích gì.

Toan lo đầu Phật qui y,

Ngày ngày mộ chữ tu trì hay hơn.

Nhọc nhằn đừng để dạ sờn,

Tiêu diêu chốn cũ linh đơn độ về.

Một lòng chớ khá tê mê,

Ba từng chậu úp bốn bề chạy ra.

Lánh vòng chói sáng ánh lòa,

Chuột kêu tí tục gà đà gáy rân.

Rồng kia ẩn bóng sông Ngân,

Chờ cho trăng lặn lần lần phung châu.

Bớ con cho rõ đuôi đầu,

Phụng nằm ấp trứng minh châu chờ ngày.

Huê thơm nhụy nở liên đài,

Sang thu huê nở bệ giai có Thầy.

Ai hay cho gã lưng đầy,

Huỳnh lương con nhớ anh tài khi xưa.

Căn duyên ngày trước cũng vừa,

Lòng toan giữ lấy múi dưa vào lòng.

Vừng mây cung hạc chực mong,

Kiếm nơi gió mát trăng trong khỏe mình.

Trần-Tô xưa luyện chơn kinh,

Đến khi thành đạo minh minh trở về.

Nay con rõ vậy phụng đề,

Ba năm tám tháng dựa kề Bồng-Lai.

Đôi lời cạn tỏ cho ai,

Bề trong khuôn đúc bề ngoài ra sao?



Vì lời dạy của Đức Thượng-Đế nên Ngài ít hay thù tạc với ai hết.
d) Những cuộc du-lịch.

Du-lịch Trà-Lơn. - Lối tháng tư năm Mậu-Thìn (1928) Ngài xin nghỉ được 6 tháng, thong-thả đi du-lịch theo lịnh Đức Cao-Đài Thượng-Đế dạy.



Cuộc du-lịch theo Thánh-Ý đến nay không ai hiểu rõ lý-do chỉ biết đó là cuộc du-ngoạn có tánh-cách thần-bí do lịnh Trên dạy. Trong dịp nầy chư đệ tử theo Ngài rất đông kể có ngót 30 người. Các Ông Hội-Đồng Huy và Ông Tư Huỳnh lo sắp đặt phần công quả nầy. Ông Phán Quí cũng có đi theo.



Đây là chuyến đi xa của Ngài, đường đi thấy nhiều sự tai nạn bất ngờ, khổ cực, gian lao nhưng đều qua khỏi. Ban ngày đi khúc nào vắng vẻ ngừng xe công phu ăn uống rồi tiếp tục, ban đêm kiếm chùa chiền tá túc.



Trước khi đi Ngài có ghé Cần Thơ. Bữa mùng 6 tháng tư Đức Thành-Hoàng Bổn-Cảnh có giáng-cơ tại đàn Chiếu-Minh. Khi đọc bài Mừng thay tới câu: "Đèn lòa ngọn lửa tợ rồng phung châu" thì Đức Thành-Hoàng tả một bài như vầy:



Phung châu nhả ngọc ngộ giai kỳ

Chư-sĩ hoan phùng hội khả vi,

Phổ-độ Tam-kỳ huờn cựu luật

Thành-Hoàng báo hỉ thử âm thi.



Khi hiến tửu đọc đến câu "Tiên-Ông hoan-lạc kiết trinh tường" thì Đức Thành-Hoàng lại tả một bài thi nữa như vầy:



Trinh tường hai chữ tặng tri âm [17]

Cựu cảnh tuy xa thế dễ tầm

Nhớ lúc Đào-Nguyên lòng vẹn giữ

Từ đây qua đó chẳng bao lăm.



Ngài khởi sự đi du lịch nhằm ngày 26 tháng tư Mậu-Thìn (13-6-1928) qua 28 thì tới Hà-Tiên. Ngài bảo ghé lại chùa Tiên-Sơn-Tự ở Thạch-Động nghỉ. Đêm ấy cầu cơ, Sơn-Thần giáng cho bài thi như vầy:



SƠN tiên bửu cảnh thế kỳ trân,

THẦN thánh kim triêu giáng hạ trần,

LAI hữu Hoàng-gia truyền chỉ dụ

BÁO kỳ Thánh-Giá ngự trùng ân,



Ta Sơn-Thần Phù-sứ, phụng-chỉ đến báo tin Ngọc-Đế giá-lâm. Ta xin mừng:

Đại Đức (là Quan Phủ Ngô-Văn-Chiêu)

Từ-Huệ (hiệu đồng-tử là Ông Phán Quí)



Chư-khanh thiền-công du-lịch - Ta kỉnh tặng Đại-Đức một bài công quả:



Thử khứ hậu lai đắc lộ trình,

Từ nhiên lãng nguyệt hữu CHIÊU minh,

Đương thời thiên vận kỳ luân chuyển,

Mãn tải công phu sự thái bình.



Ngọc Đế giá lâm :



Khá khen một dạ giúp dân lành,

Công quả ngày sau tạc sử xanh,

Mấy trẻ tùng CHIÊU bồi vực hẳm,

Nên cồn biến khổ lấp đàng quanh.



CHIÊU, con kể ngày nay là ngày lập sổ công quả cho các em con tại Tiên-Sơn-Tự, cho đúng nhị-ngoạt chi-tuần Thầy sẽ cho điểm công. Thầy cho các con ngồi.



Kể từ Sơn-Tự ngày nay,

Cấp thêm sứ giả theo rày hộ an.

Ngày sau đến lúc khoa tràng,

Giữ tròn công-quả tràng phan rước về.

Độ dân mau tỉnh giấc mê,

CHIÊU con tua khá mựa hề đơn sai.

Quí theo phụ-tá hôm mai,

Cũng đồng mấy trẻ chớ nài mỏi mê.

Nhớ xưa Thế-Mẫn, Trương-Huề,

Đôi người chịu khó sau về Tòa-Sen.

Đêm lo luyện tập cho quen,

Ngày qua Bắc lãnh mở then đưa người.

Giữ lòng dường thể hoa tươi,

Thế chê mặc thế ta cười làm ngơ.

Miễn đưa chúng khổ đến bờ,

Công thành hai trẻ ban sơ đến cùng.

Làm người hữu thỉ hữu chung,

Ngày sau mới đặng trùng phùng cựu ngôi.



THI



Cạn lời dặn bảo các con ôi,

Khổ hạnh đừng than chịu một hồi,

Trong lúc lộ trình Thần, Thánh trợ,

Giữ bền công quả đặng cao ngôi.



Cũng đêm đó Đức Thánh Hoàng có cho một bài trường thiên như vầy:



Thành tâm Trời, Phật chứng tri,

Hoằng khai mối đạo kịp kỳ điểm công.

Bảo dân kinh sám cho ròng,

Hộ đoàn chúng khổ khỏi vòng trần ai.

Chiếu gương thắng cảnh Phật Đài,

Qui y sau cũng bệ giai chực hầu.

Phương danh mối đạo bền lâu,

Huy dương Tiên bút ngỏ hầu dạy răng.

Huỳnh mai cửa khuyết nở giăng,

Thanh thao mùi vị thoạt lằn khí Tiên.

Đông nam gió quạt cửa thiền,

Hộ người lương thiện qua miền Lôi-Âm.

Trọng câu chánh giáo lo tầm,

Bít đàng biển ái chớ lầm lủi vô.

Mọn lòng mẫn ác lân cô,

Kình đàng tu niệm lánh đàng lợi danh.

Ngữ ngôn mặc thế chớ tranh,

Hồng tâm từ thiệt phước dành ngày sau.

Vàng cao gặp lửa càng cao,

Nhãn tiền sau cũng Thiên-Tào đề lai.

Đăng sơn hạ đảnh mựa nài,

Trình câu đại lễ Phật-Đài chứng minh.

Bình tâm thiện chí đinh ninh,

Yên lòng hội hữu đăng trình độ dân. [18]



Bữa mùng một tháng năm Mậu-Thìn (18-6-1928) Ngài ghé tại chùa Kim-Cang (Đế-Thiên Đế-Thích), đêm đó cầu cơ tại chùa. Đức Thích-Ca Như-Lai có cho hai bài thi như vầy:



NHƯ kim Ngọc-Đế ngự trần gian,

LAI vãng phổ an chúng hội đoàn.

THÍCH lý bồ-đề khuyên trược cảnh,

CA hồi Đại-Đạo diệc hân hoan.



CHO hay Phật giúp kẻ tâm nguyền,

HỒ thủy thu thì mới gặp duyên,

VINH diệu cửa thiền vừa phỉ nguyện,

QUÍ thiên thất thập kỷ hồi nguyên.



Bữa mồng ba tháng năm (20-6-1928) cầu tại núi Bà-Khen có Đức Ẩn-Nguyệt Thiền-Sư cho hai bài thi như vầy:



CHIÊU an bá tánh cải lòng manh,

QUÍ củ tiên gia đã sẳn dành,

PHƯỢNG tiện cho tròn nền đạo lý,

HUY hoàng cửa Phật mới là nhanh,

THANH thao mùi Đạo âu men tới,

ĐỒNG chí hầu qua bặt gió thanh,

HỘ tống Đường-Tăng qua Khứu-lãnh,

HUỲNH luông đưa đón vẹt mây xanh.



CHIÊU minh Đạo lý dắt người mê,

HỒNG hộc đàng xưa khá lộn về,

KÌNH chống theo người đàng Đạo-Đức,

MỌN lời khuê kịch tiếng khen chê,

NGỮ ngôn theo bực thầy tròn bạn,

VÀNG thiệt lửa lò tánh chẳng ghê,

NHÃN huệ cầu người tương chỉ dẫn,

QUÍ đưa sĩ nữ quá đàng khê.



Đi du-lịch trên Đế-Thiên, Đế-Thích xong rồi Ngài bèn trở về. Đến mãn phép Ngài làm việc lại và cũng được ở Sài-Gòn như trước.



Chuyến đi du-lịch nầy có Ông Bùi-Hà-Thanh con Ông Hội-Đồng Huy đi theo chơi. Ông kể lại rằng: nhân bài Thánh-Ngôn của Ông Thành-Hoàng điểm danh mấy vị du-lịch, có vị hỏi Ngài "Sao Ông Thành-Hoàng mà dám điểm tên Ngài, vị Thành-Hoàng là thần coi một địa-phương mà". Ngài cười bảo: "Cõi vô-hình không phân cấp-bực, các em chưa hiểu chỗ mầu-nhiệm đâu".



Du-lịch Lục-Tỉnh



Hiện nay không ai còn nhớ vào năm nào nhưng biết rõ sau cuộc du lịch Trà-Lơn còn hai chuyến đi nữa. Chuyến thứ nhứt đi Gò-Công - Mỹ-Tho - Bến-Tre v.v... chuyến thứ nhì Cần-Thơ – Sóc-Trăng - Bạc-Liêu. Chuyến đi nầy có Ông Bà Tư Huỳnh - Bà Hai Ngữ - Cô Ký Út - Ông Bà Hội-Đồng Huy - đồng Ngưng. Bà Tư Huỳnh kể: xe đang chạy Ngài biểu ngừng, xuống xe Ngài lấy trong túi ra cái địa-bàn nhỏ đặt trên đầu xe coi rồi biên vào sổ nhỏ rồi đi nữa. Bà Tư hỏi sao đi hấp tấp quá, Ngài nói "Rải thuốc rồi đi chớ còn ở làm gì nữa". [19]



Du-lịch Trà-Lơn lần thứ 2. -



Lối cuối năm 1931, Ngày mệt nhiều, nên xin phép ở nhà dưỡng bịnh.



Qua ngày 30 Mars 1932, Ngài đi núi Trà-Lơn và ý định bỏ xác nơi đó, nên không muốn về. Các đệ-tử theo hầu Ngài hết sức khẩn-khoản Ngài mới chịu về .



Bận về Ngài ghé Cần-Thơ vào ngày mùng 5 tháng 3 và ở luôn đó cho tới ngày liễu-đạo là ngày 13 tháng 3 Nhâm-Thân (18-4-1932).



e) Cách ngài hành trì



Cách tu của Ngài thiệt là hết sức khổ-hạnh. Ngài đi làm việc hai buổi, hết giờ làm việc, khi ai nấy đều ngơi nghỉ thì Ngài lại lo cúng kiến và công-phu, vì vậy mà Ngài không có ngày giờ rảnh.



Một đều lạ là Ngài ít hay chịu nằm, cứ ngồi ròng rã năm nầy sang năm kia, ngủ cũng ngồi mà ngủ, cho tới khi liễu đạo thì cũng còn ngồi.



Cuộc sống của Ngài trong giai đoạn nầy có phần bí ẩn. Số người tìm học Đạo Vô-Vi cũng khá đông nhưng Ngài lựa và chỉ có vài ba chục người đệ-tử [20] chánh-thức thôi (Tiền-Giang và Hậu-Giang), bởi vì theo việc tu hành của Ngài rất khó. Phải có can đảm và bền chí lắm mới được vì hễ muốn tu phải trường-trai tuyệt-dục lập đại-thệ đại-nguyện với Đức Thượng Đế. Chừng nào Thượng Đế cho phép Ngài mới chỉ Đạo cho. Hễ tu thì phải có gan chịu khảo, "vì hễ vô ma khảo bất thành Đại Đạo."



Ngài ăn uống rất thanh đạm. Ngài nói: "Miễn ăn no bụng thì thôi."



Chỗ Ngài ở không chưng dọn chi hết, miễn sạch sẽ là đủ. Trong nhà, ngoài ngôi thờ ra, chỉ có vài cái ghế ngồi tu, vài cái ghế ngồi ngủ và bàn ăn cơm, đơn sơ ít món vậy thôi.



Ở nhà, việc ăn mặc, Ngài dùng đồ bô vải nhưng cũng sạch-sẽ.



Trên vách tường tại căn lầu mà Ngài tạm ở Sàigòn Ngài có biên mấy bài thi khuyến-đạo như vầy:



Khuyến quân học đạo mạc tham

Vạn sự vô tâm đạo hiệp đầu,

Vô tâm thủy thể vô tâm đạo,

Thể đắc vô tâm đạo dã hưu.



Học Đạo tiên tu thức tự tâm,

Tự tâm thâm xứ tối nan tầm,

Nhược huờn tầm đạo vô tầm xứ,

Phương ngộ phàm tâm tức Phật tâm.



Phật tại Linh-Sơn mạc viễn cầu,

Linh-Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu,

Nhơn nhơn hữu cá Linh-Sơn tháp,

Háo hướng Linh-Sơn thấp hạ tu.



Theo lời Ông Đốc-Phủ Sự nói, một hôm Ông Sự và Ông Nguyễn-Thành-Diêu lại thăm Ngài, lên hết nất thang lại nghe hơi roi mây quất trót trót. Hai Ông quày về và mai đón Ngài tại sở cố gạn hỏi. Ngài không nói, chỉ cười thôi. Điều nầy được Ông Cai-Tổng Trương-Vinh-Qui ở Xóm-Gà xác nhận, vì sau đó vài hôm Ngài có đến nhà Ông Qui chơi. Cụ Cai-Tổng có nghe Ông Sự nói trước nên mới hỏi Ngài. Ngài dở áo cho Ông Cai-Tổng coi thấy bầm nát cả lưng. Ông Qui khóc vì thương Ngài lắm, mới hỏi lý-do. Ngài mới nói rằng: "Tôi không muốn cho nó đi con đường đó nhưng nó lại dục tôi đi nên tôi mới đánh nó 100 roi. Anh hỏi tôi mới đưa anh xem chớ đừng nói cho ai biết."



Nhằm lúc chúng tôi vô thăm Ông Cai-Tổng Qui lại có luôn Ông Đốc-Phủ ở đó (1959). Nhắc lại câu chuyện xưa, Ông Sự mới nói:



"Ông là một người hết sức dè-dặt: muốn hỏi gì cho tận tường cũng chỉ cười chớ không hề nói rõ."



Ngài dạy thờ phượng và cúng kiến theo một cách giản-dị chẳng chịu bày nhiều chuyện.



Khi Ngài khai Đạo, cách thờ phượng và cúng kiến làm sao thì Ngài cũng giữ y như vậy cho đến cuối cùng.



Ngài dạy cúng đọc mấy bài sau đây và kinh Cảm-Ứng.



1 - BÀI CỬU-THIÊN



Cửu-Thiên Đại-Lang,

Thân phi bạch y,

Nhựt-Nguyệt chiếu diệu,

Càn-khôn hoát trì,

Huỳnh-Lão, Đơn Ngươn,

Giữ niệm hiệp nghi,

Ngũ Thần vệ thủ,

Bát Thánh hộ trì,

Vạn Thần phó triệu,

Bút trận vân trì,

Cửu-Thiên khai hoá,

Vạn chưởng đồng vi,

Ngươn-Hoàng Thượng-Đế,

Vật khể, vật trì,

Ngô phụng Tiên-Hạc, Đồng-Tử,

Cấp cấp như luật lịnh.

____________



2 - BÀI NHỤY CHÂU



Nhụy châu Chơn-võ du du,

Chiêu minh nghĩa lý lạc thù lương năng.

Bồng-Lai nhứt giáng nhứt thăng,

Giao-lê, hỏa-táo đơn đằng hộ dân.

Tịch triêu giảng hoán ân cần,

Đàn trung túc kỉnh thân cần vãng lai.

Hương yên viễn thấu Thiên-Thai,

Tiên-Ông cấp giáng vân-đài khinh khinh.

Phiêu phong phưởng phất phi tinh,

Đằng vân giá võ kinh dinh thốn thành.

Nguy nguy dưỡng vật thinh danh,

Mâu đình phước ấm ca canh thi nhàn.

Liên đào lan quế nhứt đoàn,

Kỳ vi tửu hội cuộc nhàn thanh tân.

Tại minh minh đức tân dân,

Chỉ ư chí thiện tinh thần phong quang.

Bửu sơn tốc giáng Tiên đàn,

Linh-cơ quí bút văn toàn phú thi.

Tâm thành mạc hiển hồ vi,

Điễn quang chiếu thấu nhứt thì giáng linh.

Thi ân tế chúng thanh minh,

Ách tiêu tai tán hộ tình nhơn gian.

Huy dương Tiên bút sổ hàng,

Tập hi kỉnh chỉ trai đàn thung dung.

Linh-Sơn Tử-Phủ Tiên-Cung,

Tiêu diêu ngoạn cảnh cầm chung hàng cù.

Động châu cúc tửu nhàn du,

Truyền bôi hội ẩm thiên thu viên đào.

Bà sa thế giái đàm giao,

Dương chi thủy sái quản cao diệu huyền.

Tây quang viễn thấu Cửu-Thiên,

Dinh khê động khẩu phong truyền thiên hương.

Bồng-Lai khuyết hạ phi thường,

Sơn đầu tòng bá nhiếp phương ma đằng.

Võ vu độc lập nhi đăng,

Kim môn tố ứng giáng thăng Tiên đàn.

Án tiền xa cái huy hoàng,

Ngọc-lầu cấp giáng nhứt bàn Liên-Hoa.

Viên khai hội cuộc Tiên-gia,

Tiêu thiều hóa nhựt mỹ ca tương phùng.

Hạnh quì thể thục phù dung,

Liên hà dược thạch điểm trung linh phù.

Tâm thành viễn thấu thanh u,

Đơn đình hữu cảm thiên thu thanh nhàn.

Hốt nhiên võ hóa huỳnh quang,

Trường tương tư ức Từ-Hàng lân phô.

Lan-Đài thạch thất Đình-Hồ,

Thái-sơn, Bắc-Đẩu điễn mô dũ kỳ.

Hà thu nguyệt lộ vân trì,

Kim-tương, Ngọc-lệ, Tử-vi đương đồng.

Phú thi Tiên bút thần thông,

Phụ cơ hỏa cấp Tiên-Ông lai kỳ.

Tâm thành đệ-tử qui y,

Đàn trung phước ấm thanh my miên trường.

____________



3 - BÀI ĐẠI-LA (Ngọc-Hoàng Bửu cáo)



Đại-La Thiên-Đế,

Thái-Cực Thánh-Hoàng.

Hóa dục quần sanh,

Thống ngự vạn vật.

Diệu-diệu Huỳnh-Kim-Khuyết

Nguy-nguy Bạch-Ngọc-Kinh,

Nhược thiệt nhược hư,

Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.

Thị không thị sắc,

Vô-Vi nhi dịch sử quần linh.

Thời thừa lục long,

Du hành bất tức.

Khí phân tứ tượng,

Quảng truyền vô biên.

Kiền kiện cao minh,

Vạn loại thiện ác tất kiến.

Huyền phạm quảng đại,

Nhứt toán họa phước lập phân,

Thượng chưởng tam thập lục thiên,

Tam thiên thế giái,

Hạ ốc thất thập nhị địa,

Tứ đại bộ châu.

Tiên thiên hậu thiên,

Tịnh dục Đại-Từ-Phụ.

Cổ ngưỡng, kim ngưỡng,

Phổ tế tổng pháp tông.

Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh thần chi quân,

Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ.

Trạm tịch chơn đạo,

Khôi mịch tôn nghiêm.

Biến hóa vô cùng,

Lũ truyền bửu kinh dĩ giác thế,

Linh oai mạc trắc,

Thường thi thần giáo dĩ lợi sanh.

Hồng oai, hồng từ

Vô cực, vô thượng.

Đại-Thánh, Đại-Nguyện, Đại-Tạo, Đại-bi,

Huyền khung Cao-Thượng-Đế.

Ngọc-Hoàng tích phước hựu tội Đại-Thiên-Tôn.

____________



4 - DÂNG BÔNG



Hoa tươi năm sắc, sắc thiên nhiên,

Đầu cúi xin dâng lễ kỉnh thiền,

Cảm Đức Cao-Đài lòng đoái tưởng,

Từ bi cứu thế xuống đàn Tiên.

____________



5 - DÂNG RƯỢU BỒ-ĐÀO



Bồ-đào cam giá tửu Tây-phương,

Bả trản cung trần mỹ vị hương,

Đệ-tử thành tâm kiền phụng hiến,

Cao-Đài hoan lạc kiết trinh tường.

____________



6 - DÂNG RƯỢU TRẮNG



Tửu vị hương hề tửu vị hương,

Khấu đầu cung hiến chước hồ trường,

Cao-Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,

Đệ-tử cung trần mỹ vị hương.

____________

7 - DÂNG TRÀ

Đông-Độ thanh trà mỹ vị hương,

Khấu đầu cung hiến chước hồ trường,

Cao-Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,

Đệ-tử cung trần mỹ vị hương.

____________

8 - BÀI CẦU TIÊN

Trời còn sông biển đều còn,

Khắp xem cõi dưới núi non đượm nhuần.

Thanh-Minh trong tiết vườn xuân,

Phụng chầu hạc múa gà rừng gáy reo.

Đường đi trên núi dưới đèo,

Lặn tìm cao thấp ải trèo chông gai.

Phận làm con thảo há nài,

Biết phương Tiên, Phật, Bồng-Lai mà tìm.

Xem qua xét lại cổ kim,

Một bầu Trời, Đất thanh-liêm chín mười.

Vàng trau ngọc chuốt càng tươi,

Bền lòng theo Phật cho người xét suy.

Thần, Tiên vốn chẳng xa chi,

Có lòng triêm ngưỡng nhứt thì giáng linh.

____________

9 - BÀI MỪNG TIÊN (Thúc-Cơ)

Mừng thay chi xiết nỗi mừng,

Hào quang chiếu diệu ngàn từng khôn trung.

Hạc reo bay khắp dạo cùng,

Càn-khôn thế-giái cũng chung một bầu.

Môn sanh thành kỉnh chực hầu,

Tửu trà hoa quả mừng cầu Tiên-Ông,

Nhang thơm tốc đốt nực nồng,

Đèn lòa ngọn lửa tợ rồng phun châu.

____________

10 - BÀI TỐNG TIÊN

Tiên-Ông chẳng nại xuống mây xanh,

Vì xót chúng-sanh ý chẳng lành,

Chấp bút lên cơ tua phải giữ,

Môn-sanh cảm tạ bái Tam-Thanh.

____________

1) Ngài lập Đạo ra từ lễ-phục đến cách sắp đặt thờ cúng, mỗi mỗi đều đã phân-minh, xác-định hết. Ngài đã nói hồi còn sanh tiền mọi việc từ trong đến ngoài đều biên vào Thiên-Thơ, bất-di bất-dịch. Những lời của Ngài, gương mẫu của Ngài khi còn tại tiền phù-hợp với giáo-lý của Ngài.

2) Khi Ngài gần qui-liễu còn ghi "mấy lời kim-thạch" lưu lại cho các đệ-tử.

3) Rồi sau khi qui-vị, Ngài còn xuống cơ bắt buộc mấy người đệ-tử cấp nhứt (Phú-Lâm – Sài-Gòn - Chợ-Lớn) phải lập thệ-nguyện lại, cứng rắn hơn, phải giữ y qui-củ của Ngài để lại.

Ngài nói: cái xác phàm hay làm phách lắm, hay chế-biến canh-cải, vì thế nên tu mãn kiếp không thành. Cứ giữ y cái kiểu tu dốt đó mà hành là trúng.

Và từ năm 1937 - 1938 - 1939 v.v... Ngài đều nhắc đi nhắc lại ở Đàn Chiếu-Minh Cần-Thơ, Trước-Tiết Tàng-Thơ, Đàn nhà đạo Truyện-Cũng không ngoài việc khuyên phải giữ y qui-củ.

____________

f) Lúc còn sanh-tiền, Ngài giáng-cơ lần đầu tiên. -

Tuy Quan Phủ tu-hành khổ-hạnh nhưng Ngài rất an vui tự-toại trong cảnh thanh-bần, vì Ngài đã thành Đạo tại thế. Xuất thần vân-du giáng-cơ đôi nơi như những việc sau đây:

Năm Canh-Ngũ (1930) nhằm ngày mùng năm tháng 3 ở Đàn Hiệp-Minh Cái-Khế Cần-Thơ, chư-nho hội nhau cúng Trời Phật và phò-loan. Lúc ấy nhằm giờ Ngọ. Quan Phủ đương ngồi tịnh ở đơn-phòng của Ngài ở số 110 đường Bonnard Sài-Gòn trên lầu 3, Ngài xuất thần đi dạo chơi với Đức Vân-Trung-Tử Đại-Tiên. Ngang qua Đàn Hiệp-Minh thấy chư-nho thành kính trong việc cúng kiến và có người nhắc đến Ngài nên Ngài và Đức Vân-Trung-Tử giáng-điễn cho chung bài thi như sau:

Xuân giao phưởng phất hạ phùng nhiên,

Ngoạn cẩm Vân-Trung thạch-động tiền

Võ-Trụ hoằng khai thành giác cố

Đống lương đạo mỹ nghiệp hoàng duyên

Thành tâm thủ lễ sanh CHIÊU ĐỊA

Lạc ý quang nhơn vận đạt thiên

Minh hóa di thân triêm phổ chúng

Anh linh hàm vịnh cổ kim truyền.

Trong bài thi có tên của Đức Vân-Trung-Tử và tên Ngài "CHIÊU ĐỊA" vì lúc sanh-tiền Ngài được nhiều người thân tặng cho danh hiệu ấy vì cái bụng lớn của Ngài. Sau có người hỏi lại, Ngài xác-nhận đó là sự thật.

Bài thi kỷ-niệm trên đây được các đệ-tử Ngài học thuộc lòng và từ khi Ngài liễu tới nay thường năm đến ngày mùng năm tháng 3 là lập lễ kỷ-niệm Ngài hiển Đạo tại thế mà khi Ngài còn tại tiền Ngài công-nhận.

Ngài cũng có giáng-cơ Đàn Phú-Lâm và cho bài sau đây:

Đàn Phú-Lâm 13 tháng Giêng năm Nhâm-Thân (18-2-1932).

THIÊN-MẠNG TIÊN ÔNG, NGÔ-MINH-CHIÊU

Bài:

Nghĩ cuộc thế mà buồn cho thế

Hiển theo Tiên thế mới lạ kỳ

Non Tiên sớm Lão hồi qui

Dựng nền Đại Đạo trường thi lựa tài,

May mắn kẻ lánh đời bay nhảy

Sớm hồi đầu, ác cải thiện tùng

Lần theo mối Đạo Trung Dung

Ngày đêm tứ tiết, khôn trung một bầu.

sau Lão sẽ tiếp [21]

____________

g) Trước khi Ngài qui liễu. -

Lối đầu năm 1931 thì Ngài đã tu đúng 11 năm. Lúc đó Ngài khởi sự ít ăn uống lắm, nên càng ngày càng ốm. Tuy đau mặc dầu chớ Ngài không có chút gì buồn hết. Ngài cười và nói chẳng ai biết được căn bịnh của Ngài. Ngài lại viết trên vách tường câu nầy và thường lập đi lập lại hoài:

Cao-Đài ứng hóa theo lòng chúng-sanh.

Đố ai có biết cái danh Cao-Đài?

Đến cuối năm 1931, Ngài mệt nhiều nên xin phép ở nhà dưỡng bịnh. Khi đi Trà-Lơn lần thứ 2, chuyến về Ngài ghé Cần-Thơ vào ngày mùng 5 tháng 3 Nhâm-Thân (10-4-1932). Các đệ-tử của Ngài có cầu cơ đặng hỏi thăm căn bịnh của Ngài, chớ còn Ngài chẳng hề nói thiệt sợ e các đệ-tử theo bịn rịn làm trễ ngày giờ Ngài. Đức Đại-Từ-Phụ có giáng-cơ dạy như vầy:

"Xác phàm cư tại thử xứ, còn linh-hồn du diễn Tứ-Châu phổ-hóa."

Bữa 12 tháng 3 Nhâm-Thân Đức Văn-Xương Đế-Quân cho như vầy:

Chung qui rồi nợ ấy tiêu diêu

Đủ đức hạc đưa giữa nhạc thiều

Phới phới gót son lên chín bực

Vui miền thanh nhã trí phong phiêu.

Ở Cần-Thơ Ngài không chịu ở nhà ai hết. Các đệ-tử Ngài bèn cất cho Ngài cái am cách Châu thành Cần-Thơ 3 ngàn thước trước Chiếu-Minh Nghĩa-Địa. Ngài dạy phải làm bằng cây lợp lá đơn sơ thôi, bỡi chỉ dùng có chừng một tuần nhựt, làm tử tế không ích gì lại tốn kém. Trong lúc cất am Ngài tạm ở cái am của Bà Tư Huỳnh kế bên.

Những ngày ở Cần-Thơ có những điều đặc-biệt sau đây:

1. - Ngài dạy dùng vải để chép những bài Thánh-Giáo dạy giữ y qui-củ của Ngài khai Đạo kỳ ba nầy.

Một ít bài thi chép trên vải còn giữ lại tại nhà Bà Đốc Lý ở Thủ-Đức hiện giờ.

2. - Hai ngày trước khi liễu-đạo Ngài kêu Bà Hội-Đồng Thơm dặn như sau và phải truyền nháy lại lời của Ngài.

a) Trước Đàn hay Chùa phải làm tám cái bồn trồng bông, tròn vuông dài gì cũng được để trồng 8 thứ bông khác nhau. Nếu có viền cỏ chung quanh bồn thì cũng phải cho phân minh, không được lộn một bồn mà hai ba thứ bông.

b) Bông chưng trên Thiên-Bàn cúng thì phải chưng 3 thứ: bông sen, cây trước và cây dương-liễu, không có dương-liễu thì dương thường cũng được. Vì là ý Đạo sẽ dùng ngày sau.

c) Chưng trái cây cũng chỉ năm thứ mà thôi không được sáu hay bảy, vì năm thứ ấy tượng-trưng cho ngũ-hành trong cơ-thể mình tức là ý Đạo.

d) Là Đại-Đạo Vô-Vi nên ý Ngài muốn bảo mua cái vỏ trái bầu khô treo giữa nhà rồi thắp nhang cặm cúng được rồi. Nhưng trong lúc ấy Ông Hội-Đồng Huy và Ông Tư Huỳnh lại mua xong cái ghế thờ chở vô và xin Thầy dạy cách sắp đặt đặng thờ cho đúng. Ngài thấy chở vô là có ý buồn rồi, Ngài nói với Bà Thơm: sau nầy sẽ có cơn khảo-đảo về việc sắp đặt Thiên-Bàn [22] .

Giờ Tý ngày 13, tại nhà Ông Tư Huỳnh có đàn. Bạch-Hạc Đồng-Tử báo riêng rằng Ông Tư Huỳnh có lỗi với Ngài và hiện Ngài còn đó mau vô xin lỗi để Ngài qui rồi thì khó xin được. Lối bốn năm giờ sáng thì Ông Tư Huỳnh áo khăn đường hoàng vào quì ngay tại Thảo-Lư trước màn vừa thưa vừa khóc xin lỗi Ngài. Một hồi lâu Ngài bảo Ông Tư Huỳnh ra sau lấy con dao xắt chuối. Ông Tư cũng không hiểu ất giáp gì đi lấy con dao chuối đem lên. Ngài biểu: Anh Tư Huỳnh lấy con dao chuối đó chặt tôi ít dao cho rồi. Ông Tư hoảng sợ bỏ dao, lạy Ngài xin tha thứ, và Ngài bảo Ông Tư về, Ông Tư mới đứng dậy vái dài rồi ra về. [23]

(Theo lời Bà Tư Huỳnh thì Ngài biết sau nầy Ông Tư nghe lời Ông Phán Quí mà đổi Tam-Thanh ra Tam-Giáo.)

Khi Ông Tư ra về thì Ngài kêu Bà Thơm và Bà Huỳnh lại nói rằng: "Anh Tư bảo tôi đi đấy." Các đệ-tử sau nầy mới biết rằng lời nói ý kín trên đây ứng lời Thánh-Ngôn tại nhà Ông Tư.

____________

h) Liễu-đạo trên Cửu-Long-Giang (Tiền-Giang). -

Ngài thường nói rằng: Đức Đại-Từ-Phụ đã định cho Ngài bỏ xác trên sông Cửu-Long; nên mới có câu:

Giờ nầy Thầy điểm thâm công

Ngài sau con sẽ cởi Rồng về Nguyên.

Sáng ra Ngài nhắc chừng Bà Tư Huỳnh lo dùm xe cộ cho Ngài về Tân-An, và cứ nói hoài câu sợ trễ giờ. Bà Tư kỉnh trọng Ngài lắm nên muốn dần dà lưu Ngài lại. Thấy vậy Ngài biểu mời Ông Hội-Đồng Thơm vô, Ông Hội-Đồng khăn áo bước lên Thảo-Lư lại quỳ trước Ngài rồi Ngài dạy chi không biết và dùng tiếng Pháp không, làm mấy bà lén nghe mà không hiểu gì hết. Chỉ thấy Ông Hội-Đồng quỳ khoanh tay và kính cẩn nghe, vâng vâng dạ dạ.

Đến khi Ông Thơm về đem xe vô các Bà bàn tán xôn xao. Ngài nói: "đi quanh đây rồi trở lại chớ không đi đâu xa."

Lúc ấy Cô Năm Nguyệt hỏi Ngài "Cha đi về Tân-An phải không?" Ngài cười bảo "Cha đi bí-mật." Giờ Ngọ ngày 13 Ngài triệu tập tất cả đệ-tử hiện diện công-phu và sắp đặt: Ngài ngồi trên giữa. Hai hàng hai bên:

Bà Hội Đồng Thơm Bà Tư Huỳnh

Cô Tám Lưu Cô Năm Nguyệt

Bà Đốc Thượng Bà Niệm

Ông Đốc Thượng Ông Hội Đồng Huy

Sau giờ công-phu anh đồng Ngưng cõng Ngài ra xe đi theo có Bà Thơm, Bà Huỳnh, Cô Năm Nguyệt và anh đồng Ngưng.

Ngài thì ngồi một mình băng sau, còn Bà Tư, Bà Thơm ngồi sụp xuống hai bên dưới chân Ngài.

Da mặt và mình mẩy Ngài từ từ đổi ra vàng như nghệ. Xe đến bến đò Cần-Thơ, ngừng để mua vé đò, bọn trẻ nhỏ xúm lại xem hỏi: Ông đau chi mà vàng luờm như vậy Ông? Bà Thơm lấy mấy tấm màn xe che lại thì Ngài gỡ xuống mà không nói. Đến đò Mỹ-Thuận, Bà Tư vào chờ mua vé, mấy đứa nhỏ cũng bu xem và hỏi như ban nãy. Ngài bảo: đã đến giờ rồi mà chưa đi, kêu chị Tư ra đi. Cô Năm Nguyệt thưa còn chờ mua giấy đò rồi đi liền. Xe xuống đò Mỹ-Thuận xong, đò xô ra độ hai ba phút đồng hồ tại sông Tiền-Giang [24] thì hồn Ngài lìa xác. Ngài xuất hồn đi êm ru không ai hay cả, cho đến mấy người đệ-tử theo trên xe hầu Ngài cũng chẳng hay.

Tới chừng đó có người làm ở dưới đò Mỹ-Thuận thấy tri-hô lên nói: Mấy Bà đi đâu mà đem Ông già chết đi theo, có giấy phép hay không? Mấy Bà hoảng hốt, khóc và xin quày đò trở lại.

Thế Ngài liễu-đạo nhằm ngày 13 tháng 3 năm Nhâm-Thân lối 3 giờ chiều (18 Avril 1932).

Đò quay lại, xe lên bờ thì vừa kịp lúc xe của Ông Tư Huỳnh và Ông Hội-Đồng Huy vừa đến. Tất cả hay sự việc đều quay trở lại THẢO-LƯ Cần-Thơ. Đến nơi phò xác vô đặt ngồi tại Thảo-Lư lúc bấy giờ nước da mặt Ngài trở lại trắng và con mắt bên trái bắt đầu mở to ra, có đủ tinh thần như khi còn sống còn con mắt bên mặt thì nhắm như thường.

____________

i) Đám táng. -

Tờ di-chúc. -

Khi Ngài liễu-đạo rồi các đệ-tử tìm thấy ở Thảo-Lư một phong-thư do Ngài để lại có mấy lời:

Thôi, các em nhứt tâm

Thầy chẳng quên ta, ta hằng tại

Chẳng đặng nhiều lời.

Bần-Đạo

Ký tên,



Ngoài ra còn trong bao thơ 100 đồng bạc, bảo lo việc tang tế trong bao nhiêu đó thôi. Làm cho đơn giản, bày ra nhiều thì phải chịu và không nhận điếu tang, bởi Ngài đã nguyện cùng Thầy: "Nhứt hào vô phạm". Ngài dạy các đệ-tử Ngài đẩy xe đưa Ngài ra phần mộ.

Cuộc tẩn liệm.

Qua ngày Rằm (giờ Ngọ) các đệ-tử của Ngài thiết đàn cầu cơ và được bài Thánh-Giáo như vầy:

Bạch-Ngọc ngự lâm chỉ các nơi

Hạc khuyên chư sĩ khá ghi lời

Đồng tâm thiện niệm gìn noi dấu

Tử đệ khá xem chớ đổi dời



Chiếu coi thế giái để làm gương

Ghi nhớ huấn ngôn tiếng tận tường

Ngũ nhựt y kỳ sau thủ lễ

Trần gian xem rõ thấy Thiên-Đường



Đường Đại-Đạo khuyên người chí kỉnh

Giữ lời vàng chớ phỉnh tiếng chi

Hòa nhau hội đã đến kỳ

CHIÊU hồi Thiên-Thượng, chép ghi nhơn hiền.

Long-Hoa xem rõ đàn tiền

Khuyên người khả giữ lời truyền của Ta.

Giã người Ta lại Thiên-Tòa

Nhớ lời huấn dụ sau mà rõ thông.



Theo bài Thánh-Ngôn ấy, Bạch-Hạc Đồng-Tử dặn để đúng 5 ngày mới liệm.

Nhưng sau khi để được 3 ngày tại Thảo-Lư nhà chức-trách phái Bác-sĩ đến khán-nghiệm. Thấy con mắt trái mở, Bác-sĩ kéo mí xuống, khi buông ra mí cũng bật lên như cũ. Còn con mắt bên mặt kéo mí lên khi buông ra mí cứ sụp xuống như trước. Sắc diện Ngài còn tươi, mình mẩy tay chơn vẫn còn dịu.

Sau khi khám-nghiệm, Bác-sĩ khuyên nên tẩn liệm đừng để lâu nữa e trái phép nước.

Nguyên hồi sanh tiền Ngài có dạy các đệ-tử khi Ngài liễu-đạo rồi phải dùng lục-giác mà liệm ngồi. Lục-giác là theo lục-tự Cao-Đài "Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông" bề kinh tâm lối 8 tất tây và bề cao lối một thước hai.

Tất cả công việc khâm-liệm đều do các đệ-tử Ngài tự tay đảm-nhiệm.

Cuộc điếu tang. -

Khi Quan Phủ Ngô-Văn-Chiêu liễu-đạo rồi thì trong bửu-quyến và các đệ-tử của Ngài lo thọ tang, chứ còn có tín-đồ thì chưa nhứt định. Tới chừng thấy xác của Ngài đã dứt hơi 3 ngày rồi mà khí sắc chẳng đổi, mới coi, tưởng Ngài còn sống, lại thêm vì Ngài mở con mắt phía trái giống theo Thiên-Nhãn vẽ thờ cho nên các tín-đồ bất luận lớn nhỏ đều xin cư-tang có cả trên ngàn người tại đó. Mấy người chung quanh Thảo-Lư và ngoài chợ cũng tự động mua vải xé khăn tang [25]. Vì sự thình lình nên chợ Cần-Thơ hết vải trắng phải vô chợ Cái-Răng mới có.

Khi đặng tin Quan Phủ Ngô-Văn-Chiêu đã liễu-đạo thì Bà Sương-phụ Tổng-Đốc Tươi liền in thiệp cho các đạo-hữu ở Sài Gòn hay. Nếu ai có lòng tưởng Ngài thì chiều 20-4-1932 tựu tại nhà Bà mà lo cuộc đi lễ điếu [26].

Qua ngày 16 thì Chi Minh-Lý (Tam-Tông-Miếu) có phái Ông Lê-Văn-Ngọc và Ông Võ-Văn-Thạnh xuống lễ điếu.

Chi Minh-Thiện (Thủ-Dầu-Một) thì phái Ông Trần-Hiển-Vinh và Ông Nguyễn-Văn-Trượng xuống lễ điếu. Chi Minh-Tân cũng có phái người xuống điếu.

Bà Sương-phụ Tổng-Đốc Tươi, Ông Phủ Lượng, Ông Trương-Duy-Toản cúng lễ điếu.

Trên Soái-Phủ thì Ông Phán Chiếu thay mặt đi lễ điếu. (Ông Phán Chiếu cũng xin thọ tang cho Ngài). Còn các Ông Thiên-Phong trên Tòa-Thánh Tây-Ninh thì có gởi giây thép chia buồn cùng các đạo-hữu Chiếu-Minh-Đàn chớ không có phái ai đi hết, viện lẽ rằng các Ông đều đau hết thảy [27]. Phần nhiều các đạo-hữu bất bình lắm, nhứt là Quan Phủ Vương-Quang-Kỳ, Ông nói rằng: "Không lẽ trên Tòa-Thánh mấy trăm người đều đau hết, không phái được một người thay mặt đi đưa đám hay sao?"

Còn 12 người cố-cựu mà Đức Cao-Đài đã thâu khi khai-đạo thì có mặt Ông Phủ Vương-Quang-Kỳ, Ông Phán Nguyễn-Văn-Hoài, Ông Phán Lý-Trọng-Quí. Ba Ông nầy đều để tang cho Ngài.

Ông Phán Võ-Văn-Sang vì được giây thép trễ, nên 6 giờ chiều bữa 16 Ông mới xuống tới.

Cuộc đưa đám và mai-táng. -

Cái nếp sống của Ngài lặng lẽ im lìm bao nhiêu thì buổi đưa đám tang của Ngài ra phần mộ, cũng đơn-giản êm-tịnh bấy nhiêu. Ngoài gia-quyến Ngài, người còn thấy hầu hết các đệ-tử của Ngài, các tín-đồ quanh vùng Cần-Thơ, đạo-hữu trong Đạo Cao-Đài Sài-Gòn, kể có mấy ngàn người.

Đám táng không trống không kèn, cũng chẳng có đọc kinh kệ gì hết. Vì Ngài đã có dạy rằng: Lúc sanh tiền mỗi ngày đã có cầu cho Ngài rồi. Ngài đã biết Ngài là ai, đến chết Ngài sẽ đi đâu nên khỏi đọc kinh cầu nguyện cho Ngài lúc đó.

Khi động-quan đem lục-giác của Ngài ra xe thì các đệ-tử y theo lời dạy chẫm rãi đẩy xe đưa Ngài qua Nghĩa Địa.

Đường đi chẳng bao xa, cỡ 200 thước. Người đi đưa đám cũng đông mà người đi coi cũng chẳng ít, bởi vì đám táng nầy lạ mắt bấy lâu nay chưa từng có.

Có Quan Phó Chủ-Tỉnh Cần-Thơ thay mặt Chánh-Phủ đi đưa đám. Ông lấy làm lạ vì thấy cái quan-tài khác thường. Khi ấy Ông Hội-Đồng Võ-Văn-Thơm cắt nghĩa là theo lời di-chúc của Ngài phải làm như vậy.

Khi xe tang qua tới phần mộ rồi thì các đệ-tử của Ngài bèn phụ đem quan-tài ra để trên một cái nền đã xây sẵn rồi tiếp tục xây gạch bao quanh khuất hết. Vòng ngoài thì sẽ xây một cái tháp.



--------------------------------------------------------------------------------

1 Ông Giáo Nguyễn-Văn-Vân hiện giờ làm Đầu-Sư ở Tòa-Thánh Định-Tường (Mỹ-Tho)

[2] Chùa Ông Thầy Tịnh là Chùa nghèo.

[3] Bốn câu sau nầy của Ngài thêm vô cho đủ nghĩa để khi nào cầu cơ thì đọc.

[4] Lâm gia là họ của Bà Thân Ngài.

[5] Theo lời Ông Giáo Nguyễn-Văn-Vân thuật lại

[6] Mấy người kể trên bây giờ còn sống đều ở Dương-Đông. Như Ông Nhơn hiện là Đại Diện xã Dương Đông. Mười Đức làm Xã-Trưởng. Ba Xuân v.v...

[7] Sau 40 năm cây bị mối mục bởi nắng mưa, giặc giả không người tu sửa nên Chùa bị sập đổ. Qua năm 1961 đệ tử của Ngài mới dựng ngôi Chùa Cao-Đài lại chỗ nền cũ Quan-Âm-Tự đặng thờ Ngài và kỷ niệm nơi phát nguyên Cao-Đài Đại-Đạo; và cùng lúc dựng lại cái am để kỷ niệm Quan-Âm-Tự.

[8] Lời của Ông Đạo-Đức Kim-Tiên đọc lại cho mấy anh em Long-Ẩn-Đàn cũ nghe.

[9] Về Sài-Gòn Ngài bảo một người đệ-tử cấp nhứt của Ngài là Ông Đốc Học Thới vẽ lại y như của Ngài thấy để mà thờ . Ông Đốc Học Thới có đọc lại cho đạo hữu Truyện-Tượng nghe lại một lần nữa lúc ông còn ở tại Trường học Bình-Tây, Chợ-Lớn mới (1961).

[10] Ông Cư, Thơ-ký Sở Hỏa-Xa . Ông Tắc Thơ-ký Sở Thương-Chánh và Ông Sang kêu Ông Cư bằng chú, Thơ-Ký Sở Thương-Chánh.

[11] Đạo-mạch tri-nguyên của Ông Huệ-Chương trang 22

[12] Đêm ấy hai Ông Trương Hữu Đức và Cao Hoài Sang vắng mặt.

[13] Đại-Đạo Căn-nguyên của Ông Nguyễn-Trung-Hậu.

[14] Cách hơn một tháng sau, Cơ Phổ-độ lại công-bố một bài Thánh-Ngôn trục xuất Ngài: ( Đàn 25 tháng 6 Bính-Dần 3-8-1926).

Nhưng, đừng nói chi tới Thánh-Ngôn các đàn cơ từ 1926 tới nay. Chỉ đem mấy bài Thánh-Giáo ghi nơi quyển “Lịch-Sử” nầy, ra mà đối-chiếu thì cũng dư thấy rõ câu truyện “trục-xuất” kia hư thiệt thế nào rồi!

[15] Chữ Nhựt hiệp với chữ Triệu thành ra chữ Chiêu.

[16] Chữ nhựt với chữ triệu là chữ Chiêu.

[17] Tri-âm là Quan Phủ Ngô-Văn-Chiêu

[18] Bốn câu đầu và hai câu chót là Thành-Hoàng bảo hộ bình yên: còn mấy chữ ở mấy đầu câu kia là tên các tín đồ theo Quan Phủ Ngô-Văn-Chiêu đi du lịch.

[19] "Ngài nói đi du-lịch đó là rải thuốc."

[20] Về sau Ngài nói với Ông Tám Trọng đàn Chợ-Lớn. Mấy người đệ-tử mà Thầy lựa đó là những người đại-căn tình-nguyện xuống thế làm công-quả theo Thầy truyền Đạo.

[21] Sau khi qui vị rồi Ngài có giáng cơ tại Đàn Phú Lâm ngày 29 tháng 3 Nhâm Thân (3-5-1932) mà cho tiếp bài nầy. (Xem đoạn "Sau khi Ngài qui liễu")

[22] Ngài tiên tri trước sau nầy có khảo đảo về sự sửa Thiên-Bàn.

[23] Ngài biết trước sau nầy Ông Tư Huỳnh nghe lời theo Ông Phán Quí sửa bỏ Tam-Thanh thờ theo Tam-Giáo của Ông Phán Quí. Nhờ ơn Bạch Hạc báo tin riêng Ông Tư Huỳnh vô lạy xin lỗi. Ngài tha cho, nên sau trở lại đặng tu thành chánh quả.

[24] Ngày Rằm tháng Giêng, Ông Đốc-Phủ Vương-Quang-Kỳ có xuống Tân-An thăm Ngài. Ngài có nói: tôi tuy đau nhiều mà không chết ở đây đâu, Thầy định cho tôi sẽ bỏ xác tại giữa sông Cửu-Long (Tiền-Giang).

[25] Lời Bà Tư Huỳnh thuật lại.

[26] Coi thiệp của Bà phía sau.

[27] Đã vậy lại còn ra một tờ châu-tri xem còn sai thất nữa.

Cước chú: Những ngày cuối cùng ở Cần-Thơ Ngài thường nói: Đáng lý ra tôi bỏ xác ở Trà-Lơn nhưng ngặt vì còn chút nợ với gia-đình anh Tư Huỳnh nên phải bỏ xác nơi nầy.

j) Báo Chí, Thiệp, Châu-Tri .

Rút trong ĐUỐC-NHÀ-NAM (Jeudi 21 Avril 1932)

____________

NHÀ SÁNG-LẬP ĐẠO CAO-ĐÀI LÀ

ÔNG PHỦ CHIÊU ĐÃ QUY TIÊN

____________

Bổn-báo mới tiếp được ai điện báo tin cho biết rằng Ông Phủ Ngô-Văn-Chiêu, là người sáng lập ra đạo Cao-Đài và có công lớn với đạo hơn hết, đã quy tiên ở Cần Thơ bữa kia. Chiều nay, 21 Avril tức là 16 tháng 3 ta, làm lễ táng theo phép đạo.

Ai biết lịch-sử phát-nguyên của Đạo Cao-Đài, thì đều biết Ông Phủ Chiêu.

Ông vốn là một nhà thần-học đã lâu, hồi trấn nhậm ở Hà-Tiên vẫn giữ mực khổ-hạnh trường-trai và thường phò-loan chấp-bút, bữa nọ Đức Cao-Đài giáng lâm ở đàn của Ông, rồi Đạo Cao-Đài thành lập ra từ đó.

Ông thật là một nhà đạo-đức tu hành cho nên những lúc còn ở trong quan-trường là vòng danh-lợi, mà Ông vẫn một niềm ăn chay mộ đạo, rất là nhiệt-thành tinh-khiết, ai cũng kính trọng. Nay nghe tin Ông quy tiên, những người biết Ông đều lấy làm thương tiếc, nhưng lại mừng cho Ông nay được tiêu-dao trên cõi hư-linh như chí nguyện sanh bình của Ông vậy.



Rút trong ĐUỐC NHÀ NAM (25 aVRIL 1932)

____________

ĐÁM TÁNG NHÀ SÁNG LẬP RA ĐẠO CAO-ĐÀI LÀ ÔNG PHỦ NGÔ-VĂN-CHIÊU Ở CẦN-THƠ

____________

Ông Phủ Chiêu, sáng lập ra Đạo Cao-Đài, tạ thế ở Cần-Thơ bổn báo đã đăng tin rồi. Vậy xin tường thuật đám táng cho độc giả biết, vì đám táng nầy khác thường lắm.

Mấy năm sau nầy nghe nói Ông Phủ Chiêu hết sức công-phu, không biết có kết quả gì không, song cái chết của Ông cũng có nhiều sự lạ.

Người ta có đưa coi lời di-chúc của Ông viết để lại, Ông căn dặn có hai điều trọng yếu; nhứt là đám táng phải làm đơn kiệm, nhì là không nhận lãnh tiền bạc của ai hết. Khi đang đau Ông lại có tiền định rằng Ông sẽ liễu-đạo tại Tiền Giang (Cửu Long-Giang). Lời tiền định nầy trước kia không ai hiểu nghĩa làm sao, đợi đến sau nầy mới biết. Nguyên khi Ông đau, coi cũng khá nặng thì bữa nọ Ông biểu phải đem Ông về Tân-An. Anh em trong đạo đều không vừa lòng song thấy Ông đòi quá, thì cũng phải mượn xe chở đi. Trên xe có đem theo hai người để săn sóc. Chừng xe tới bến đò Mỹ-Thuận, thì Ông ngồi xếp bằng trên nệm, hai tay để trong lòng bàn chơn, theo như mọi khi Ông ngồi tịnh vậy. Hai người theo Ông thấy vậy không dám làm động. Đến chừng đò tới nửa sông, bỗng có một người ở dười đò dòm vô, vùng la lên nói: "Ủa, ông già nầy đã chết rồi, sao hai chị nầy còn chở đi đâu?"

Nghe nói dựt mình, hai người kia coi kỹ thì quả là Ông Phủ Chiêu đã tắt hơi. Chừng đó mới vội-vã quày xe trở lại. Ai nấy mới hiểu lời Ông nói tiên-tri rằng liễu-đạo tại Tiền-Giang là thế.

Đến khi về tới Cần-Thơ thấy Ông ngồi yên như vậy thì anh em trong Đạo bồng Ông vô, rồi để trên cái ghế cho Ông ngồi luôn chớ không để nằm.

Một đều rất lạ là tuy đã tắt hơi mà thần sắc chẳng đổi, trong mình không cứng, rờ ngực thì nghe còn ấm luôn. Để Ông ngồi như vậy đến ba ngày rưỡi mà hơi nóng nơi ngực vẫn còn. Người ta để vậy cho tới bữa 20 Avril, theo lời Thầy Thuốc biểu liệm nên đạo hữu phải liệm.

Song không dùng hòm theo thế thường, vì từ tắt hơi thì Quan Phủ vẫn ngồi luôn; mà theo lời của Ngài dặn, thì Ngài biểu phải đóng cái quan-tài lục-giác mà liệm Ngài. Ngài lại có để lại một tấm giấy bạc một trăm đồng vô trong cái bao thơ dặn chừng nào Ngài tắt hơi sẽ dở ra, Ngài để tiền lại đặng anh em lấy đó mà lo hậu sự cho Ngài; bởi Ngài đã cấm, không cho lấy của ai một xu nhỏ nào hết.

Qua bữa 16 Annam nhằm 21 Avril thì anh em trong đạo ở các tỉnh tựu đến rất đông; cả thảy đều để tang mà đưa đám Ngài, nên có trót ngàn người chịu tang. Bữa ấy vì không nhằm ngày nghỉ, nên nhiều người muốn đi mà không sao đi được. Tuy vậy đâu đâu cũng có phái người đến đi đưa hết; duy có trên Tây-Ninh khi được tin rằng bữa 16 Annam nhằm 21 Avril sẽ an táng Quan Phủ Ngô-Văn-Chiêu, thì lại đánh giây thép xuống nói rằng: Cả thảy mấy Ngài trên Tòa-Thánh đều đau hết. Làm bữa đám táng nghe rất nhiều người nghị-luận về cái tin điễn ấy lắm. Họ nói có lẽ nào Ông Trung, Ông Trang, Ông Tương, Ông Thơ, gì đau hết sao? Mà dẫu cả bốn Ông ấy có rủi đau đi nữa, thì há lại chẳng còn ai, đặng mấy Ngài phái đi thay mặt cho mấy Ngài hay sao? Không lẽ cả mấy trăm con người ta trên ấy đều đau hết. Khi đúng năm giờ chiều ngày 21 Avril, thì có sáu người đệ tử của Quan Phủ Ngô vô động quang, rồi đem ra để trên một cái thớt xe hơi có kết hoa tươi chung quanh mà lẳng-lặng lần lần đẩy xe ấy thẳng qua Nghĩa-Địa Chiếu-Minh. Động quang và đẩy xe thì chọn nội trong môn-đệ của Quan Phủ mà thôi.

Chừng tới Nghĩa-Địa thì cái quan-tài chỉ để trên một cái nền gạch đã xây sẵn, rồi cứ xây gạch tứ phía lên cho thành một cái tháp mà thôi, chớ không chôn dưới đất.

Vì lời di-chúc, Ngài cấm sự ồn-ào, xa-hoa nên đám đi lẳng-lặng im lìm hết sức, chớ không nhạc, không đờn không tụng kinh ó ré như các đám khác. Nhờ có cả ngàn người quần trắng, áo trắng, khăn trắng, nên xem rất oai-nghi quá đỗi.

Lại tuy để tang là cốt tỏ cái nghĩa cùng nhau chớ ai ai cũng không có vẽ gì buồn hết. Hỏi họ thì họ nói vì họ biết là Quan Phủ nay đà đắc đạo rồi, nên họ rất mừng cho Ngài chớ họ không buồn.

Bổn-báo phái-viên.



Extrait de la TRIBUNE INDOCHINOISE du Mercredi 20-4-32
____________

LA MORT D’UN CAODAISTE DE MARQUE
____________

M. Ngô-Văn-Chiêu vient de mourir à Cầnthơ. On annonce ses obsèques pour demain.

Phủ Du Cadre du Gouvernement de la Cochinchine, le défunt peut être considéré comme l’initiateur du Caodaisme. Etant Délégué administrative à Dương-Đông, poste perdu dans le Golfe de Siam, il y organisa en effet des séances de spiritisme où les médiums enregistrèrent les premiers messages de Cao – Đài.

Quel que soit le jugement qu’on porte sur le Caodaisme, il est juste de render homage à la sincérité de la foi du Phủ Chiêu, qui mena, dès lors, conformément aux enseignements de son divin Maitre une véritable vie d’ascète consacrée aux prières et à un prosélytisme absolument désintéressé.

Nous adressons nos sincères condoléances à tous ceux que ce deuil afflige.



ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

(Đệ thất niên)

____________

Tòa Thánh, ngày 16 tháng ba năm Nhâm Thân
(21 Avril 1932)

CHÂU-TRI

Cho chư Chức-Sắc, Đầu-Họ đạo và chư vị chủ Thánh-Thất

____________

HIỀN-HỮU

Tôi lấy làm buồn mà cho Hiền-Hữu hay tin rằng: Ông Ngô-Văn-Chiêu, khi sanh tiền làm chủ mối Đạo Chiếu-Minh-Đàn tại tỉnh Cần-Thơ đã liễu đạo hôm ngày 14 tháng ba nầy.

Vậy xin Hiền-Hữu hiệp với Chư Đạo-Hữu mà cầu nguyện Đấng Chí Tôn ban ơn cho linh hồn người đặng qui hồi cựu vị.

Nay kính.

Chánh-Ngọc Phối Sư

NGỌC-TRANG-THANH


Saigon, le 20 Avril 1932
Kính Chư Đạo-Hữu,

Tôi lấy làm buồn mà cho Đạo-Hữu hay rằng:

Quan Phủ Ngô-Văn-Chiêu mới vừa từ trần.

Chiều ngày 16 tháng ba Annam nhằm 21 Avril 1932, an táng Ngài tại Cần-Thơ.

Vậy xin mời trong Chư Đạo-Hữu, ai có lòng tưởng Ngài, chiều nay tựu tại nhà tôi đặng sắp đặt việc đi điếu.

Mme. Vve. TỔNG-ĐỐC TƯƠI

51, Boulevard Galliéni.





SAU KHI NGÀI QUI VỊ
Giáng-cơ mấy lần đầu tiên.

(Chiếu-Minh-Đàn - Thảo-Lư Cần-Thơ) (Phú-Lâm - Chợ-Lớn)

Đàn Thảo-Lư Cần Thơ
Cách một ít lâu sau khi an táng Ngài, thì các đệ tử của Ngài hầu cơ được mấy bài thi như vầy:

Từ ngày xa thế đến Tiên-Bang,

Lo lắng nhơn gian bước lạc đàng,

Đức rộng đạo dày là quí báu,

Đặng lên Bồng-Cảnh chép biên hoàng.



Rồi kinh rồi sám gặp chơn truyền,

CHIÊU giáng độ phàm rõ ý Tiên,

Lo lắng e khi quên Đạo-Đức,

Chí thành chí kỉnh rõ lòng nguyền.



Chầu chực Ngọc-Hoàng tội phước ghi,

Kẻ lo tu niệm quyết lòng thi,

Chép biên những sĩ ơn và lỗi,

Thưởng phạt công bình chẳng sái chi.

Tuy Ngài không xưng tên chớ xem qua thì cũng đoán được là Ngài giáng cơ cho mấy bài thi đó.



Đàn Phú-Lâm (Chợ-Lớn)

Phú-Lâm, 9 tháng 3 Nhâm-Thân (3-5-1932)

NGÔ TIÊN-ÔNG
Lão chưa thọ sắc. Các con hãy mừng Lão một chung rượu ngon. Lão sẽ ân xá tội các con. Hôm trước Thầy không cho Lão nói làm cho các con không biết chi hết.



Bài tiếp [28] :

Nương mây thoát kiếp hồi đầu

Rồng xanh Lão cỡi về chầu Ngọc cung.

Tiền căn ai biết cạn cùng

Non sông tự hỏi với cùng Bề-Trên.

Tiền-Giang sớm cũng dựng nền

Sen vàng chín phẩm tạc tên danh đề.

Rày CHIÊU sớm dạo sơn khê

Tối về Bệ Ngọc dựa kề Thượng-Thiên.

Thấy con say đắm của tiền

Bán buôn mối đạo, người hiền lầm mưu.

Nhưng vì tình trước khó ưu

Lẽ thì đem tội nhưng còn dành sau.

Các con nghĩ việc làm sao. Thầy còn để chúng nó chuộc tội, các con chớ phâu ưu chi hết, bữa khác Lão sẽ tiếp việc tiền trình của mấy đứa.



Giáng-cơ các Đàn khác.--

Thất Bửu-Sơn (Châu-Đốc) ngày 30 tháng Ba Nhâm-Thân (5-5-1932)

Ngô kỳ huỳnh liễu đắc thành công,

Văn thượng Thiên-Đình lý luật đồng.

CHIÊU dắt nhơn sanh cơn kiếp khổ,

Giáng tường cho rõ hiểu hồn vong.

Chào các hiền-đệ. Hiểu ai chăng? Nay tôi đã từ trần, trong lúc Đạo còn đang nghịch lẫn nhau, là bởi nơi đâu? Các hiền-đệ có hiểu chi chăng? Cũng bởi vì tiền tài nó hại nhơn-sanh. Thầy có ban cho tôi một vị Tiên-Đồng độ chúng. Nay tôi vưng lịnh Thầy theo giáng đàn mà dạy anh em lúc khổ nầy.



KỆ

Qui liễu cõi trần đặng thảnh thơi,

Gẫm trong sự thế ngán cho đời,

Kiếp nầy lao khổ sau chung hưởng,

Trời đất hết lòng giáng khắp nơi.

Tôi kính lời thăm huynh Nguyện và Bần-Đạo Lắm đặng an vui nền chánh-lý mà rõ hiểu Thiên-cơ. Tôi mới học được bài phú vắn, nên tôi để lại cho chư Hiền-Huynh rõ biết.



PHÚ

Trời xoay chuyển nên lương tâm người dục khiến,

Cho nhơn sanh thuyết diễn trần lao,

Chung trí Đạo Thầy mà giúp cho kẻ đồng-bào,

Nay tôi đặng kết giao cùng Tiên, Thánh, Phật,

Sao chư hiền không lo bồi công âm-chất,

Giúp cho Thầy, cất Thất cho Thầy ?

Tôi qui-liễu là bỡi như vầy:

Hết kiếp trần oan dây theo ràng buộc.

Tôi tuổi nầy mà đi xem cõi hồng soi đuốc,

Dẫn nhơn sanh dắt tuốt Thiên-Đình,

Công mở Đạo là tại tỉnh Tây-Ninh,

Người bỡi quấy nên nhơn tình không đầu phục.

Thương Tổ-Đình nên theo một lúc,

Hại nhơn sanh cui cút tu hành,

Kính ít lời thăm Nguyện và Lắm gắng chí Đạo cho thành,

Tôi dời bước lưu danh cho anh em hậu thế.

Tôi chào Hiền-Huynh, cho tôi kiếu.

____________

Minh-Thiện Đàn Bạc-Liêu ngày mồng một tháng tư năm Nhâm-Thân (tại nhà Hội-Đồng Cân) (6-5-1932).

Thiên môn khai lịnh, hà tu cấp sự chi cầu?



THI

Ngô đồng lá rụng nhánh còn tươi,

Văn sĩ nhà Nam gẫm nực cười.

CHIÊU tập trời thu trăng sáng rỡ,

Lai đàn chào bạn nghĩa nhân mười.

Tôi mừng quí-vị đạo-hữu, tôi mới vỡ lòng, trong bốn câu còn sơ sót, xin quí đạo-hữu chỉnh giùm.

Bạch ...

Thiên-cơ tối trọng. Thầy ban ơn cho tôi hội nghĩa cùng quí đạo-hữu, Thiên Ngọc-An-Thanh sẽ đặng vui vẽ với tinh-thần mà khổ não với xác thịt.

Tôi xin kiếu.

Ngô Đại-Nhơn nhắc ngày 3-3-31 Lý-Đại-Tiên dắt Ngài giáng-cơ cho bài :

Phò nguy tế khổn nhứt danh nhơn,

Chiêu tập thu sang nhứt tự đơn,

Tắc thị kỳ trung thơ hoặc chúng,

Đáo đầu xuất diện diệt chơn nguơn.



Cao vô động thủ đắc thành công,

Vi khởi tiền đồ bất đắc thông,

Các đạo qui nguyên hồi nhứt mạch,

Kê đầu, hầu vĩ kiến Tiên-Ông.[29]



Đàn Lê-Phú-Hữu (Trà-Mơn) ngày mùng 1 tháng 4 Nhâm-Thân, giờ Ngọ (15-5-1932):

Ngô đồng gặp tiết rất màu tươi,

Minh đạo khuyên ai chớ mỉn cười,

CHIÊU tuấn phản hồi đề bảng hổ,

Chủ đàn vô phép để làm chơi,



Tịnh, giờ dậu tái cầu. Ta về dạy Đạo có các vị Đại-Tiên giáng. Chủ đàn vô lễ, nam nữ hầu đàn không tẩy uế.

____________



Giờ Dậu.

Thành-Hoàng Bổn-Cảnh

Các trò cho nghiêm chỉnh, Đại-Đức sẽ vào cơ.

____________

Giờ Tuất.



Ngô-Minh-Chiêu đắc chỉ Thiên-Hoàng,

Độ chúng tu hành khỏi trái oan

Mấy lúc gặp kỳ là hội lớn,

Khuyên ai mau bước đến Tiên-Bang

Nam, Nữ an tọa, nghe bài Trường-Thiên dạy Đạo như vầy :

Mấy năm mới gặp hội nầy,

Khuyên ai trở gót chớ gây nợ trần.

Ấy là kỳ hội phong vân,

Độ trong cõi thế sửa thân tu hành.

Giàu nghèo khuyên chớ cạnh tranh,

Nghe lời Thần, Thánh để dành ra thi.

Sớm khuya học chữ từ-bi,

Giữ tròn ngũ-giái, tam qui mới rằng.

Khá lo học chữ khuyên răn,

Sửa lần tâm muội ăn năn phản hồi.

Đạo lành khuyên chớ bỏ trôi,

Gìn lòng trong sạch cho rồi tầm Tiên.

Khuyên ai khá giữ tâm thiền,

Trọn bền đạo-đức mới yên buổi trần.

Nay đà mở hội tân dân,

Độ trong trần thế sửa lần tánh mê.

Tu sao cho thấy cảnh quê,

Tu sao cho vẹn mọi bề mới tu.

Ai ôi! khá vẹt ngõ mù,

Theo đàng chánh lý ám u khuyên chừa.

Gìn lòng hai chữ muối dưa,

Lo tu cho kịp chớ lừa khổ thân.

Khuyên đời mau lánh tao tân,

Thoát vòng biển khổ lại gần nhà xưa.

Hồng-trần là chốn nắng mưa,

Chẳng lo Đạo-Đức để ưa sự giàu.

Hồng-trần lận đận lao đao,

Không tầm đạo chánh để vào thị phi.

Hồng-trần là chốn sân si,

Không tầm chánh giáo để đi theo phàm.

Hồng-trần phú quí còn ham,

Không tầm chơn lý để tham việc tà.

Hồng-trần loài thiệt quỉ ma,

Không tầm Tiên, Thánh để ra ở đời.

Hồng-trần là chốn lưng vơi,

Không tầm Trời, Phật dạy lời Đạo-Cao.

____________

Cầu tại "Thảo-Lư" của Ngài

Đêm mùng sáu tháng Tư, Nhâm-Thân (6-5-1932)

CAO ĐÀI

Chào đệ-tử. Có Ta về, chẳng nên trái ý người ta. Đạo Vô-Vi có cũng như không, phải nhớ. Trước sau y như Ta, đừng quên lời dạy.

Các trò phải lo tu và giữ tròn Đạo-Đức. Khó lắm:

Như Ta hồi thuở sanh tiền chịu biết bao nhiêu khổ hạnh. Làm quan đương thời mà chẳng lạm của dân đặng nuôi thê tử, chỉ dùng lộc nước mà thôi, chịu nghèo hơn bạn tác, nên chúng nó ghét Ta, làm cho Ta đi Hà-Tiên. Sau ra Phú-Quốc mới gặp Tiên truyền Đạo. Có ai lo sự Đạo-Đức cho bằng Ta về nhơn đạo (trung, hiếu, liêm, sĩ). Lo tu bị người ta chê bai gièm-xiểm mà Ta chẳng lay động chút nào, giữ tròn phận sự.

Ngày nay các con tu, sự khổ-hạnh đâu có bao nhiêu, nên phải lo bồi âm-đức cho nhiều, mới được bền vững mối Đạo, chớ đừng để ngươi rớt lợt đợt.



THI:

Tu hành khổ lắm các con ôi!

Giữ chặt tấm lòng chớ thả trôi.

CHIÊU nhắc dạy trò tua giữ dạ,

Như lời vẹn vẽ mới theo Ta.

____________



Cầu tại "Thảo-Lư" của Ngài

Đêm 24 tháng Tư, Nhâm-Thân (29-5-1932)



Thành thiệt trì tu đặng phước ban,

Hoàng ân độ thế bước qua thoàn,

Phong vân lố bóng nhuần ơn học,

Phú quí công danh dặn chớ màng.



Điễn ký giải thử thi ấy Ta nghe ………………………………

Ta không phép chứng thệ nguyện của trò, vậy các sĩ nghiêm tịnh rước Đại-Tiên.

Thành-Hoàng: Đại-Tiên sắp tới, nghinh tiếp.

Đồ theo lý đạo đắc chơn truyền,

Tử Đệ thành tâm ngộ cảnh duyên,

Minh mẫn tấm lòng soi cổ tích,

Nguyệt thanh soi thế đã nhiều phiên.

Rước Chủ ta.



Minh châu vật báu có chi bằng,

CHIÊU tập hiền đồ giữa ánh trăng,

Mừng bấy chư nho lòng kỉnh bái,

Trò vưng lời ngọc giữ lòng măng.

Theo Thiên-ý tôi phải xưng Ta, vậy Ta cho chư-sĩ an tọa.

THI



Chứng lòng mộ đạo dạ đừng sai,

Nguyện thế lời châu nhắc nhở hoài,

Cho rõ Thiên cơ là báu trọng,

Thinh thinh trời rộng chớ lầm sai.



Trò nào cắt nghĩa câu thừa đặng? …………………………..



Lem nhem thi phú cũng nên cười,

Chư sĩ mê tâm phạt mấy mươi,

Đàn nội ngại nghi lòng chẳng kỉnh,

Mau dò kinh điển vở son tươi.



Phải kiếm hiểu, phải nhọc trí mới có công. Mấy mươi gì? Thượng biết chăng? Đọc.



Mấy mươi roi đòn.



Vô-vi son sắt nhớ lời Ta,

Chỉnh tánh ôn nhu mới gọi là,

Bổn phận tu hành che đậy mắt,

Trò mô nhớ dạy lỗi đều tha,


Cầu tại "Thảo-Lư" của Ngài

Đêm mùng tám tháng năm, Nhâm-Thân (11-6-1932).

Cầu tại "Thảo-Lư" của Ngài
Đêm mùng tám tháng năm, Nhâm-Thân (11-6-1932).

Tam hiệp nhứt chi huờn Đại-Đạo

Lập Long-Hoa mở cũi tháo lồng

Trời xuân gặp ngọn đông phong,

Tuyết rơi phủ đất, dòng sông nước tràn.

Thương ôi kẻ ngang tàng, giáng bút,

Tỏ kề tai mấy khúc gian truân.

Gà reo tỉnh giấc Trời hừng,

Ngọc lành bị vít chín từng teo gan.

Bóng thỏ xế giang san dời đổi,

Canh vừa tàn nhạc trổi hòa quyên.

Nam-Bang hữu phước Trời truyền,

Vô duyên trách bấy chẳng kiên oai Trời,

Tiên, Thánh, Phật vì đời xuống thế,

Kẻ trần quê vô lễ kiêu căng,

Để cho cỏ xụ lá oằn,

Quên nguồn bỏ gốc đa văn khó nhuần.

Bút ngọc tỏa mấy lần khuyên nhủ,

Sửa nền xưa qui-củ Cao-Xanh.

Đa mê mà phận cũng đành,

Học đòi lỗ mãng khoe danh bất tùng.

Cho hay lúc lâm chung là muộn,

Bỏ tự kiêu ham chuộng muội mê.

Chừng nào mở hội Long-Huê,

Rõ thông lợi hại khó bề ăn-năn.

Đau lòng Thánh khuyên răn nhỏ nhẹ,

Cảm Phật, Tiên phân lẽ tỏ tường,

Mau nghe phải trở bước đường,

Khư khư tự-đắc không phương chuộc trừ.

Ta trộm lịnh giáng bút phò đồng bày tỏ đôi lời. Ta không đặng phép ở lâu. Ta cho bài thi ấy, các ngươi nghĩ tình xét cạn. Ta thêm một bài thi nữa rồi giã các ngươi.

Khả tu lộng tánh học hiền lương,

Tư mộ Đạo Trời mới gặp duơn.

Mộc thảo cọc-còi sương rưới nhuận,

Bổn Tiên căn Phật lẽ là hơn.

____________

VI. - HỘI THANH-TÂN TẠI CAO-MINH-ĐÀN VĨNH-HỘI (SAIGON)
Đêm 20 tháng 8, Quí Dậu (9-10-1933).

Chào chư Mạng-lịnh.

Thập niên giáo hóa bát niên thông,

Nhứt cú Thánh-Ngôn tánh liễu đồng;

Chưởng lý tâm chơn cơ đại trí,

Khẩu truyền tự ngộ phát thiên công.

Lão vâng lịnh Đức Chí-Tôn cho chư Mạng-lịnh hay: Giờ nầy Công-Tào đại-hội, Tam-Giáo giáng cho kinh chúc tụng NGÔ-ĐẠI-TIÊN, vậy chư Mạng-lịnh thành tâm.
Lão kiếu.
(Lý Thái Bạch)

____________

KINH CHÚC TỤNG

TÂY-PHƯƠNG GIÁO-CHỦ

Bần-Đạo chào chư Môn-đồ.

Cúi đầu mừng Đức Đại-Tiên,

NGÔI HAI giáng thế ở miền trần-gian [30];

Thiên-ngôi Ngọc-Đế sắc ban,

Điểm linh cho xuống thế-gian cứu đời;

Gieo truyền Đại-Đạo khắp nơi,

Cứu nguy sanh-chúng biết thời Tam-Nguơn;

Mãn căn Ngọc-Đế ban ơn,

Đại-Tiên Ngọc-sắc Thiên-ân rõ-ràng. …

Thăng.

____________

NGÃ THÁI-THƯỢNG ĐẠO-QUÂN,

Chào chư Môn-Đồ,

Tam-Thanh chưởng hội thế-gian,

Long-Hoa sắc lịnh Đạo troàn độ an;

Phong thần lãnh mạng Thánh-Hoàng,

Trừ tà khử mị thiên phan đả thần.

Đại-Tiên xin độ nguyên nhân,

Trở về cựu vị lo phần chơn tâm.

Thăng.

____________

NGÃ KHỔNG-THÁNH TIÊN-SƯ

Chào chư Môn-đồ.

Chúng-sanh mờ ám tội thâm,

Cúi xin ân-đức chế châm lòng thiền;

Cúi đầu mừng Đức Đại-Tiên,

NGÔI HAI giáng-thế ở miền trần-gian.

Thăng.

____________

Tái cầu

Thầy các con,

Các con tịnh tâm nghe Thầy hỏi:

…………………………………………� �……………………………

Còn hai chữ Cao-Đài nghĩa là gì? K. Bạch …………………… Cười ... Cười ... Cao Đài ... Cười ... H ..., T ..., L ..., Thầy cấm các con bàn về hai chữ CAO-ĐÀI nghe. Chờ đến Long-Hoa đại-hội sẽ rõ.

Vậy từ nay các con biết Đạo, biết Thầy, nên chí tâm lo Đạo. Thầy cho các con rõ: Ngô-Đại-Tiên là một điểm linh-quang của Thầy cho xuống mở Đạo đó nghe, chớ lầm tưởng theo thế là Quan Phủ CHIÊU mà có lỗi đó. Rán mà thành tâm khẩn với người cho có lễ nghi, vì đương kỳ phổ-độ người tạm dùng lời dạy các con xưng là anh em, chớ đến ngày Long-Hoa Đại-Hội thì người là Thầy của các con đó. Khá tuân theo. …

Thăng.

VII - HỘI THANH CHIÊU

Hai năm sau khi Ngài liễu, nghĩa là ngày 13 tháng 3 năm Giáp-Tuất (26 Avril 1934), các đệ-tử của Ngài có làm lễ xả-tang, thì Bề-Trên có cho biết rằng kể từ ngày ấy (13 tháng 3 Giáp-Tuất) Ngài đắc lịnh du Địa-Phủ 100 ngày để phán đoán và châm chế cho các hồn đương chịu tội nơi Địa-Phủ. Mãn 100 ngày thì Ngài sẽ chứng vị NGÔI GIÁO-CHỦ. Ấy là Hội Thanh-Chiêu vậy. Dưới đây xin rút một bài Thánh-Ngôn khi hội Thanh-Chiêu tại Thảo-Lư (Cần-Thơ).

____________

a) Lễ lập vị Ngôi Hai.

LỄ CHÚC NGÔI ĐỨC NGÔ-ĐẠI-TIÊN

THẢO-LƯ (Cần-Thơ): Giờ Dậu 23 tháng Sáu năm Giáp-Tuất

(nhằm ngày 3 Aoùt 1934)

Thầy mừng các đệ-tử.

Các đệ-tử thành tâm nghe lịnh Thầy truyền. Tý-thời các đệ-tử sắp đặt sửa mình cho thanh-khiết đặng đảnh-lễ NGÔ-ĐẠI-TIÊN đăng đàn chứng vị, hôm nay các đệ-tử đủ mặt hội hiệp nơi đây để chia sớt sự cảm-hóa, nghĩa nặng ơn dày, cùng nhau lo báo lễ lập vị NGÔI-HAI. Thầy rất vui.

Thi Bài:

Đường diệu viễn lòng thành nên đến,

Bước xa xuôi chẳng đếm nắng mưa,

Chung lo việc cả cho vừa,

Tỏ lòng hẩm hút muối dưa lấy tình.

Hội Thanh-Chiêu, Chiếu-Minh tỏ rõ,

Lễ thứ-ba Thầy có tiên-tri:

NGÔI-HAI chứng vị đến kỳ,

Trăm ngày vừa mãn bước đi âm-Đài.

Mười cửa điện NGÔI-HAI đã trải,

Xét thưởng răn công quả dày công,

Tha cho khỏi chốn giam cầm,

Linh hồn thong thả lo chăm trở về.

Thầy chứng vị cựu ngôi giá bệ,

Độ hồn oan trở lại cựu quê,

Các hồn than khóc ủ ê,

Thấy Ngôi Cứu-Thế sắc phê tha hồn.

Ngày nay mãn Thiên-Môn trở lại,

Cửa Ngọc-Kinh khấu bái Hoàng-Ân,

Thầy phê lập vị cảnh trần,

Cho đời rõ đức oai chơn chí lành.

Ngôi-Hai được đắc thành quả vị,

Cứu vạn linh khỏi bị luân hồi,

Nhà nhà đạo đức an vui,

Lo chi trần-thế gặp hồi loạn ly.

Thầy dạy các đệ-tử rán lo phận sự. Thầy ban ơn các đệ-tử.

Thăng.

____________

b) Lễ chứng vị Ngôi Giáo-Chủ.

Tái cầu:

Phụng chỉ Thiên-Đình giáng báo tri,

Ngã danh Bạch-Hạc chốn cung vi,

Tịnh đàn nam nữ nghi hầu lịnh,

ĐẠI-ĐỨC giáng truyền tả bút thi.

Ta mừng chư nho nam nữ, khả nghi tịnh tâm hầu lịnh.

Thi:

Thế gian hữu phước ngộ chơn truyền,

Gặp hội Thanh-Chiêu rất hữu duyên,

Rán tịnh tâm thần hầu thánh-lịnh,

Nghe lời châu ngọc của Thần Tiên.



Nghinh Thánh-Giá ra cơ:

NGỌC ánh hào-quang vạn kiếp tồn,

HOÀNG khai Đại-Đạo Đấng Thiên-Tôn,

THƯỢNG thừa cứu thế mê tân khổ,

ĐẾ vị cao ban độ dẫn hồn.

THẦY mừng các con nam nữ.

Thi:

Mối Đạo hoằng khai độ các con,

Chung tâm lo liệu giữ cho tròn,

Ngôi Tiên có sẵn Thầy ban thưởng,

Vị cũ an bày Phật điểm son;

Gắng chí thẳng qua nơi bỉ ngạn.

Mau chơn bước tới chốn Bồng non,

Cạn lời Thầy dạy đoàn con thảo,

Mựa trễ Kỳ Ba vị chẳng còn.

____________

Đồng nhi nam nữ sắm đồ hàng trắng (thứ tố trắng). Bát Thánh Nam đồng nhi, áo trắng quần trắng khăn đen. Quì đối nhau giắt một nhánh bông bên trái ở mép tai (màu trắng).

28 vị nữ đồng nhi quì hàng đôi đối nhau. (bông màu kiến sen)

Ai lớn quì giữa, nhỏ hai bên. Chồng quì trước, vợ quì sau. Con đường Đạo chẳng ai được lớn hơn ai.

Chư đạo-hữu phải giắt bông gọi là tiếp nghinh Phật.

Còn trong 26 cặp Hội-tề, mỗi người một bình bông nhỏ, chung quanh bông chính giữa 1 cây hương, đến bài dưng-bông thì mổi người 1 bình bông dưng đọc rồi góp để trên bàn Phật, đầu thượng sắp huê nghinh Tiên-Nữ.

____________

Trong đạo-hữu luân phiên cúng tứ-thời trong đàn, mới số ít thì 2 người đi một ngày, như đông đi 4 người tùy theo số đông, còn như ai không đi thì phải mượn ai đi theo phiên.

Phải hiệp nhau đồng-nhi nam nữ dượt tập vài đêm.

Phải để cái chuông để làm hiệu lịnh.

Khắc 1 tiếng đầu gọi là kỳ nhứt cho đạo-hữu rửa mặt, súc miệng, rửa tay chơn trong 5 phút.

Kỳ nhì 2 tiếng, chư đạo-hữu nam nữ bịt khăn đóng đen, nam nữ phải bịt chung hết kẻo phân bì, bận áo quần trắng toàn hết.

Kỳ ba 5 phút kéo vô chánh-điện coi họa-đồ mà sắp đặt.

Số 2 người phe nam, nữ phát thâu huê, hương. Hai bên vách chùa phải hai bên nam nữ, chụp hình của mỗi người treo vào vách Hội-Thánh để làm kỷ-niệm cũng như bài vị vậy, sau người nào chết thì gạch chữ thập trên đầu.

____________

NGÀY CÚNG

Bữa chánh rằm, chánh mùng một, 8 giờ tối cúng tại đàn Hội-Thánh từ 9, 10 giờ, sắp đặt y như trước.

____________

CÁCH QUÌ CÚNG

Chư-nho và đồng-nhi phải chịu cực quì thẳng lưng và chắp tay để trước ngực nội hồi cúng đọc các bài. Đừng biếng nhác, trong 15 phút đồng-hồ xong việc, không lâu như các đàn khác, phải một hai giờ đồng-hồ mỏi mệt. Phải rán cung kỉnh, nghiêm-tịnh.

Chư-nho bổn-đạo phải niệm nho nhỏ: "Nam-mô Nam-Phương Giáo-Chủ Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát" 10 lần, nhiều càng tốt.

Hễ niệm phải nhìn Thiên-Nhãn.

____________

Y-PHỤC ĐỒNG-NHI

28 đồng-nhi gái mỗi đứa một sợi dây lụa nhiễu màu vàng, bề ngang một tấc lang-sa, bề dài 1m50; đứa nào nấy giữ đi đàn đêm, máng choàng sau cổ, 2 mối bỏ ngoài trước. Như muốn tốt làm bằng nhung, chung quanh kết tua kim tuyến vàng.

Đồng-nhi trai cũng mỗi đứa một sợi màu tím, tua vàng, đề vàng, như ai có tiền thì sắm làm công quả.

Đồng-nhi 12 tuổi sắp lên 18 tuổi xuống, mỗi kỳ phải có đồng-nhi nam hay nữ hầu cho đủ.

____________

CẦN KÍP

Mấy Ông mấy Bà Hội-tề phải sắm đồ tố trắng mà lạy THẦY. Còn đám xác thì đồ vải hay là đồ thường, dùng áo màu tùy theo nghèo giàu duy có được bịt khăn đen. Đờn bà như đờn ông, còn như chư đạo-hữu giàu có thì sắm giống in vậy, như không khá thì cứ như cũ không ép.

____________

CÁCH QUÌ

Quì thì tránh nhau mà lạy chớ nên để người sau cụng với người trước (coi chữ ngũ).

* * *

* *

* * *

____________

ĐÁM CƯỚI

Đám cưới đủ năm sắc, tùy nghèo giàu, duy có bịt khăn đen gọi là lễ. Còn mang đồ đại-lễ là hai người mới hiệp-hôn, Ông nào làm Sư thì cũng bận đồ đại-lễ.

Phần việc của mỗi người:

1. -- Lo tập đồng-nhi nữ.

2. -- Lo dạy 8 người đồng nam.

3. -- Coi về việc tang-tế.



Bên nam Chủ-sự:

Các Ông khác (đủ 25 vị) Chánh Chủ-sự cai-quản phe nam và nữ, 25 vị chứng các việc chớ chẳng đặng đổi thay, bổn-phận mỗi người có lỗi thì quở riêng trước bàn thờ THẦY, làm vậy cũng đủ xuôi.

Bên nữ Chủ-sự:

Hai Bà Chánh Chủ-sự về việc trong Hội-Thánh bên phe nữ. Ai có việc gì đến nói thì hai Bà lo cho. Các Bà xử không xong phải đem đến cho các Ông Hội-tề phân-đoán hòa-bình chớ nên rầy-rà mất sự yên-ổn. Hai Bà nầy được xin thêm 10 Bà ở các nơi xa phụ việc (có chồng trong Hội-tề).

Nhiều người nên việc,

Nhiều việc được yên,

Quan trưởng không phiền,

Nhà nhà vui Đạo.

CHIÊU.

____________

Đừng quên: Cúng y như cũ hồi sơ-khởi, vì Thầy dạy tu-tâm, chẳng cần lễ-nghĩa. Trong 15 phút xong sự quì lạy. Tôi xin chư Đạo-hữu để cho đồng-nhi ca điệu dạy người tu Tiên cho biết đạo Tiên-gia "Thầy có ra bài con quạ sổ lồng".

Con quạ ấy là hồn chúng ta, cái lồng là phần xác. Tu làm sao cho cái hồn lìa xác mà biết bay như con quạ mới gọi Thành-Đạo.

Cao-Đài Hội-Thánh, bỏ chữ giáo để chữ Thánh, vì chỗ hội những người hiền, tức là Thánh.

____________

BÀI CON QUẠ

Kìa kìa con quạ bên sông,

Bớ ai thả quạ, đem lồng chạy theo.

Chiếc đò vừa đã kéo neo,

Mau mau chạy tới lấy chèo bơi sang.

Bơi sao cho khỏi té hang,

Bơi qua vừa tới, leo ngang lên bờ,

Chú kia sao chú bơ-vơ,

Làm trai chớ khá, lảng-lơ việc mình.

Anh-hùng dạ sắt dạ đinh,

Hai vai gánh vác, minh-minh đầu gành.

Phận làm con thảo có danh,

Xóm làng yêu mến, mới đành dạ cho.

Ở ăn đừng có so đo,

Làm anh thợ vẽ, phải đo cái hình.

Ừ ừ vật lạ xinh xinh,

Làm sao cho tốt, cho xinh mới mầu.

Đứa nào học đạo ni-mâu

Ngày đêm cố niệm tụng câu bắt vần.

Sớm trưa lòng dạ ân cần,

Có thân phải khó, với thân phận mình.

Làm sao cho đặng hiển-vinh,

Cửu-huyền thất-tổ, minh-minh cõi nhàn.

Làm sao cho đặng nhặt khoan,

Người đem dạ mến, Tiên-bang cảnh mầu.

Việc đời phải xét cạn sâu,

Bần-cùng lạc-đạo thỉ-chung thanh-nhàn.

Chớ tham phú-quí chỗ sang,

Nhiều tiền ít phước, phải mang lấy sầu.

Quyền cao quới tước phải âu,

Có ngày thất-lộc, bực sâu té nhào.

Chữ bần có thuở ở cao,

Các con giữ lấy làm sao chữ bần.

Bần câu ác-đức viễn-thân,

Bần hung bần dữ phải cân chữ bần.

Bần theo bậc của Thánh-Nhân,

Trăm năm tỏ rạng mới phân chữ bần.

Câu rằng "lạc-đạo thanh-bần",

Ngàn vàng khó kiếm chữ bần của Ta.

Các con gắng chí học mà,

Làm sao cho đặng như cha mới mầu.



Con người chẳng khác bông tươi,

Làm sao cho đặng vẹn mười mới hay,

Bền lòng tụng niệm ăn chay,

Phước Trời rõ đặng lên ngai vững vàng.

Ngàn năm hứng cảnh lạc bang,

Biết sao rõ đặng cơ hàn nắng mưa.

Dồi lòng kinh kệ sớm trưa,

Ngày sau Phật độ mới vừa lòng son.

Dày lòng luyện Đạo bớ con,

Phước Thầy bủa khắp, như son thêm màu.

Các con gắng học mau mau,

Gắng lòng học Đạo như thau gắn vàng.

Đôi lời tỏ nói rõ ràng,

Làm sao cho đặng băng ngàn đường xưa.

Các con luyện tập muối dưa,

Ngày sau Thầy mới dạ vừa lòng son.

____________

IX - GƯƠNG LÀNH.

Phần nhiều gương Ngài dạy làm âm-chất (làm phước kín) đều là việc rất thông thường, ai ai noi gương cũng dễ. Ví dụ: (lúc ở Tân-An), thường thường ban đêm lối 10 giờ trở lên, Ngài mặc bộ đồ vải đen đi rong qua xóm nầy ấp nọ, nghe ngóng dân tình coi có điều chi dân chúng bất mãn đặng tìm cách giải quyết cho họ.

____________

Có một hôm Ngài đi khuya cỡ 12 giờ mới về tới nhà thì gặp một tên trộm đương đào ngạch nhà, Ngài bắt gặp trong mình có xâu chìa khóa và cái mác. Lính vào đòi bắt đem đi nhốt, Ngài không cho, rồi kêu tên trộm vào nhà giảng-giải lời phải lẽ quấy, đoạn cho tiền và bảo thôi đừng làm nghề nầy nữa, lựa nghề khác mà sinh-nhai. Lấy số tiền nầy làm vốn buôn bán mà sống. Rồi Ngài chỉ đường cho tên trộm đi tránh, khỏi phải bị lính bắt gặp. Cách ít tháng sau, nhà Ngài lại cũng xảy ra một vụ như vậy nữa, Ngài cũng giải-quyết như trên. Dân chúng trong hạt đồn-đãi đức-độ của Ngài người người đều cảm-xúc. Và từ đó về sau nhà Ngài không hề có trộm viếng nữa.

____________

Trong buổi tối chợ Tết, Ngài đi theo mấy gian hàng, thấy buôn bán leo heo quá, Ngài dừng lại hỏi thăm một người: Sao, bán khá không chú? Dạ, ế ẩm quá Ông ôi! - Ngài giả vờ mượn cây đèn đốt thuốc, kín đáo bỏ xuống hai đồng bạc. Khi Ngài đi khuất rồi chú kia mới hay. Sau mấy người con Ngài hay việc ấy. Ngài khuyên giải: "Các con đã có cơm ăn no, áo quần mặc ấm, còn đòi gì nữa. Cha nuôi người bần-khổ để dành cho tử-tôn đó".

____________

Ở Tòa-Bố Tân-An có một người bị phạt giam phải đi kéo quạt cho các viên quan (lúc bấy giờ chưa có quạt máy) đến bên Ngài than rằng:

"Con mới hay tin cha chết mà không biết làm sao đặng lo tang khó. Xin Ngài giúp đỡ xin phép dùm cho con trong ba bữa xong việc con trở lại". Ngài vì xét tình hiếu đạo nên đứng ra xin bảo đảm với quan trên dùm cho về, mặc dầu Ngài không biết tông tích ở đâu, sau ba ngày người ấy trở lại như cũ.

____________

Có một Ông Thầy thuốc bắc (Đông y-sĩ) khá-giả ở Tân-An tên là Ông Thầy Phòng, kể một câu chuyện như sau: Tánh tôi thích đi câu cá nên tối tối tôi hay ra ngồi cạnh phía sông Tân-An câu cá chơi . Vì trời khuya hơi lạnh nên tôi choàn kín cái khăn lông cho ấm đầu, trên lại đội cái nón lá buôn cũ. Tôi đang chăm-chỉ lo câu, Ngài đi qua trông thấy và chắc là không nhận ra tôi nên Ngài móc túi lấy 2 cắc bạc đưa cho tôi và bảo: "Cầm tiền về sáng đi chợ đừng ngồi khuya lạnh lẽo lắm." Tôi dạ khẽ và không dám nói ra sợ Ngài nhận được.

____________

Ngày 30 Tết là ngày chót của cuối năm, nhà nhà, giàu cũng như nghèo đều lo mua sắm đặng có cúng rước Ông Bà theo tục-lệ. Cỡ 11 giờ trưa rồi, Ngài đi rảo một vòng ngoài chợ thấy chú bán bông còn ngồi rũ rượi, mấy chậu bông bị lựa tới lựa lui ủ xào hết. Ngài biết không bán được nên không có tiền lo mua sắm về nhà cúng rước Ông Bà. Ngài lại hỏi qua loa rồi trả mua hết ráo, kêu xe kéo về nhà, và bảo với mấy người con: Con không biết, chớ cha mua là có ý giúp cho người ta chút tiền để mua sắm mà cúng Ông Bà, chớ Ba dư biết ở nhà chúng con đã mua rồi.

Và gương mẫu đã tóm tắt trong bản "Tánh đức" của Ngài hồi còn sanh tiền:

Ngài cư-trần mà bất nhiễm-trần

Không ham sự sang trọng, lại mến kẻ thấp hèn

Tánh ưa ẩn không chịu tựu hội đông đảo.

Không chịu ai tôn trọng. Ai nói xấu không giận.

Không chịu thọ lãnh lễ vật: Nhứt hào vô phạm.

Ngài ít nói và không xen vô việc người.

Không khoe-khoan cái Đạo, phô-bày và vẽ-viên.

Ngài dè-dặt, từ-bi, mà cương-quyết.

Mỗi việc định một lần, thì nhứt tâm không đổi ý.

Hay biết ơn, lo báo ơn đáp nghĩa.

Hay hạ mình, chìu ý người.

Hay làm âm-chất, hay bố-thí thầm. ...

____________


[28] Tiếp bài Ngài giáng-cơ tại Đàn Phú-Lâm bữa 13 tháng 1 Nhâm-Thân (18-2-1932) lúc Ngài còn tại thế. Xem trở lại trước " Cách hành-trì "
[29] Câu nầy nói Ngài tu năm Dậu, thành Đạo năm Thân.
Cước chú: Hai bài thi Ngài cho ngày 3-3-31 là lúc Ngài còn sanh tiền.
[30] Câu nầy sau tại Đại Hội Thanh Chiêu ở Thảo Lư Cần Thơ 23 tháng 6 năm Giáp Tuất nhằm 3 Aout 1934, Bề Trên sửa lại là "Ngôi Hai giáng thế ở miền trần gian." Còn trước tại Hội Thanh-Tân cho "Ngô Minh Chiêu tánh ở miền trần gian."

GIÁO-LÝ

(Enseignements - Doctrine)

____________

I – NGUYÊN-TẮC. -

Thời xưa, mỗi nền Tông-Giáo, mỗi vị Giáo-Chủ đều có một giáo-lý riêng thích-hợp với phong-tục, và tinh-thần tiến-hóa của dân-tộc đương thời. Các giáo-lý tuy có khác nhau ít nhiều về danh-từ, về chế-độ, về tín-điều ... nhưng tựu-trung, khi đi đến tuyệt-đỉnh, phần tinh-hoa vẫn tương-tự nhau. Vì Chơn-Như có một.

Ngày nay Giáo-lý CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO, do Đức NGÔ-MINH-CHIÊU hoằng-dương, cũng không đặt thêm vấn-đề chi mới lạ, song có phần giản-dị hơn, để ứng-biến theo sinh-hoạt, tâm-lý và trình-độ chịu kham-khổ của thời-đại. Ngoài ra, cũng đồng tong-chỉ với Tam-Giáo.

____________

II - CÁCH PHỔ-TRUYỀN GIÁO-LÝ.

Đức NGÔ-MINH-CHIÊU phổ-dương Giáo-lý CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO bằng ba cách:

1. – GƯƠNG-MẪU trong hành-vi của Ngài hằng bữa.

2. – LỜI NÓI, khi Ngài dạy bảo, nhắc-nhở, khuyên-răn.

3. – DI-BÚT do những bức thơ Ngài gởi cho mấy vị thọ-giáo

trực-tiếp với Ngài.

Ba phần nầy luôn luôn phải phù-hợp, tương-tiếp và bổ-túc cho nhau: ấy là Giáo-lý chánh-thống, uyên-nguyên, thuần-túy của CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO.

Lúc còn tại thế, Ngài có dạy rằng: Giáo-lý do Ngài truyền bá đây, đã ghi vào Thiên-Thơ nên bất-di, bất-dịch. Vậy từ đây về sau Ngài không sửa đổi điều chi cả và cũng không ai được phép canh-cải hết.

Lúc còn tại tiền Ngài chẳng khi nào thuyết-pháp và cũng chẳng có biên kinh sách lưu lại thế.

Bao giờ Ngài cũng chú-trọng về phần THỰC-HÀNH nhiều hơn phần LUẬN THUYẾT. Đó cũng là một đặc-điểm trong giáo-pháp của Ngài.

Còn một đặc-tính nữa, rất quan-trọng, là khác hơn xưa, Giáo-Pháp của Ngài bắt đầu từ chỗ hữu-hình mà đi lần lần đến chỗ Vô-Vi trừu-tượng: như thế tín-đồ thấu-đáo lý diệu-ẩn trong phần hữu-hình, khỏi lâm vào nẻo sắc-tướng, thinh-âm.

Cũng như các Tông-Giáo thuở xưa, trong Giáo-pháp của Ngài có hai khoa:

(1) - Khoa Công-truyền tiệm-giáo để độ đại-chúng lập-công bồi-đức.

(2) - Khoa Tâm-truyền đốn-giáo để bắt dẫn người hữu-căn muốn tìm đường siêu-xuất. (Nhưng vì qui-giới rất gắt-gao, nghiêm-nhặt, nên ít được phổ-biến).

____________

III - NGOẠI-GIÁO CÔNG-TRUYỀN.

Khoa Giáo-pháp công-truyền của Ngài có thể phân ra làm bốn phần cho dễ hiểu:



1. - Phần LUÂN LÝ (Ethique)

2. - Phần CHẾ ĐỘ (Régime, statuts, Discipline)

3. - Phần TRIẾT LÝ (Philosophie)

4. - Phần SIÊU HÌNH hay HUYỀN HỌC (Métaphysique)

Như đã nói qua đoạn trên, Ngài không có biện-luận bao nhiêu về các phần nầy, và quan-tâm về thực-hành nhiều hơn: vì thế các tầng trong xã-hội, cho đến hạng nghèo nàn ít học cũng tu theo được.

____________

1. Về phần LUÂN-LÝ.

Xưa nay bất cứ ở vào thời-đại nào, thuộc về Tông-Giáo nào, theo dân-tộc nào, phép-tắc định ra để khép người trong đường ngay lẽ chánh, (nhơn luân: lois morales) cũng chẳng khác nhau bao nhiêu.

Phần LUÂN-LÝ trong giáo-pháp của Đức NGÔ-MINH-CHIÊU truyền-bá, tựa hồ như có tánh-cách chiết-trung (éclectisme).

Ngài dạy:

(a) Rèn lòng TỪ-BI, BÁC-ÁI làm bản-tánh.

(b) Răn mình và hành-động theo KINH CẢM-ỨNG, là bộ giới-luật duy nhứt (Code moral).

(c) Lo tròn NHƠN-ĐẠO theo tam-cang ngũ-thường.

Lòng TỪ-BI, BÁC-ÁI luôn luôn phải thực sự, cụ-thể, tích-cực, nhưng hành-vi phải âm-thầm kín-đáo. Làm việc phước-đức cho thường, song chẳng cho người thấy biết. Thay vì dùng lời chỉ bảo, Ngài hằng lấy gương lành mà dạy rõ: về mặt luân-lý, chơn hạnh phúc gom ở trong việc tạo hạnh phúc cho người quanh mình.

Riêng ra Ngài dặn phải biết NHẪN-NHỤC, HẠ-MÌNH, TRỌNG NGƯỜI, luôn luôn (Khuất kỷ tôn nhơn, bình tâm hạ khí).

Một đặc-điểm khác là Ngài có dạy rằng: Đạo mở kỳ nầy là một mối Đạo chơn-thường. Người hành-trì phải giữ hai chữ ấy làm phương-châm (guide).

CHƠN là: lời nói CHƠN-THẬT (Vérité)

việc làm CHƠN-CHÁNH (Droiture)

ý tưởng CHƠN-THÀNH (Sincérité)

THƯỜNG là: phải hành-trì THƯỜNG-TRỰC không gián-đoạn.

ĐỀU-ĐẶN, không lúc nhặt hồi thưa, phải NHỨT TÂM NHỨT TRÍ.

TỰ-NHIÊN, UNG-DUNG không dục tốc không giải-đãi (Naturel - Régularité - Constance).

____________

2. Về phần CHẾ-ĐỘ.

(a) – Giáo-chức và Hệ-thống.

Mặc dầu lối tháng 9 dl. năm 1920 (lúc còn tại Hà-Tiên) Đức NGÔ-MINH-CHIÊU đã phụng lãnh thiên-mạng mở Đạo kỳ ba độ rỗi nhân-sanh, mặc dầu sau khi về Sàigòn (năm 1924) Ngài chỉ-huy, giám-định công việc xây dựng nền-tảng Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, mặc dầu Ngài ban truyền một Giáo-Lý qui-tắc phân-minh, mặc dầu Ngài điều-khiển Cơ-quan Vô-Vi Tâm-Pháp có ấn-chứng hiển-nhiên, nhưng Ngài chẳng thọ nhận chức Giáo-Tông, ân-phong tại Tòa-Thánh Tây-Ninh (14 tháng 4 dl. năm 1926). Chẳng những thế thôi, Ngài còn không nhận cho mấy vị học đạo trực-tiếp với Ngài, gọi là "Thầy" nữa.

Ngài nói ở trần-thế không người nào được làm thầy người nào hết. Ngài chỉ là người truyền-giáo mà thôi. Mấy người học đạo, là học đạo với Đức THƯỢNG-ĐẾ.

Phép tu-hành theo Ngài là phép "cư-sĩ, tu tại gia". Không lập Tòa lập Thất, không tạo Chùa-chiền, Đạo-viện. Không tổ-chức Giáo-Hội, Tập-Đoàn nơi Tu-viện (Monachisme).

Đạo của Ngài không có đặt ra Giáo-chức (Sacerdoce). Tất cả tín-đồ, nhứt thể đều là người còn đương học Đạo, không phân giai-cấp.

Khác nhau là cũ và mới: Tín-đồ cũ có nhiệm-vụ dẫn-dìu người mới, chỉ kiểu tu-hành cho tường-tận, cho họ được hiểu biết như mình. Song tuyệt nhiên không bao giờ được dùng tiếng "DẠY". Tín-đồ mới có phận-sự phải hành y theo lời chỉ vẽ, và xem người cũ như người thay mặt Giáo-chủ trao bản-đồ cho mình dò theo mà hành-đạo. Chính Ngài cũng không chịu ai tôn-trọng biệt-đãi mình.

Mỗi nhà là một cảnh Chùa.

Mỗi tín-đồ là một vị Mục-sư, có thể cảm thông trực-tiếp (en communion directe) với Thiêng-liêng.

Nếu người nào có đủ phương-tiện, muốn lập ra một ngôi thờ, để cho có chổ nơi rộng-rãi hội-hiệp, cúng kiến chung, thì cũng tốt vậy . Nhưng phải tự-túc, chớ chẳng đặng phép thâu chấp tiền bạc, nhận lãnh lễ vật chi hết.

Ngài thường dặn phải theo gương Ngài: NHỨT-HÀO VÔ-PHẠM.

____________

b) Cách Sinh-Hoạt.

Tín-đồ bề ngoài giữ như người thường: không cạo râu xuống tóc, đeo dấu hiệu, ăn-mặc cách riêng. Nâu-sòng trong thâm-tâm. Ngoài vẫn lẫn-lộn theo thế-tục.

Phải có kế sanh-nhai, tự nuôi thân, chớ chẳng được phép nhờ người giúp đỡ, cấp-dưỡng. (Lẽ cố-nhiên là trừ ra trường-hợp những người già cả phải nhờ con cháu phụng-dưỡng). Công ăn việc làm phải cố-gắng đừng cho trái nhơn-đạo.

Ngoài, phải giữ tròn phận công-dân, khâm-tuân pháp-luật, giúp ích xã-hội.

Trong gia-đình, sau việc cúng-kiến phượng-thờ, phải lo tròn nhiệm-vụ.

Chính lúc còn tại tiền, Ngài cũng vừa làm công-chức, vừa lo tu-hành như thường, không giãi-đãi trong phần nào hết. Ngài tu giữa chợ mà không ai biết.

Ngài cúng bốn thời (Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu). Cơm (ăn chay kỹ: toàn thảo-mộc) hai bữa như thường. Phép tu theo Ngài không chịu Sơn, Xuyên, Am, Cốc. Mà cũng chẳng dạy tịch-cốc, hành-thân.

Bất luận giàu nghèo sang hèn, ăn uống phải thanh-đạm, chỗ ở, cách sống phải đơn-giản. Như vậy mới đúng theo gương mẫu của Ngài và đúng theo câu Ngài thường nhắc: Hữu phước bất khả hưởng tận.

Tín-đồ cũng có gia đình như người. Cang-thường phải trọn thỉ-chung. Nhưng đến một thờI-kỳ, phải GIỮ NHƯ SEN MỌC DƯỚI BÙN KHÔNG NHƠ.

Còn câu "LY-GIA CẮT-ÁI" không có nghĩa lìa bỏ gia-đình, mà là phải đoạn căn-tâm: sống trong cảnh mà không đắm-mê tham-luyến.

____________

c) Cách Hành Trì -

Khởi đầu, tín-đồ chỉ giữ trai-kỳ (mỗi tháng hoặc 6 ngày, hoặc 10 ngày chay toàn đồ thảo-mộc) và tập cúng tứ-thời.

Tiến tới nữa thì tín-đồ phải trường-trai và cúng tứ-thời.

Tín-đồ phải biết tự kiểm-thúc lấy mình và phải thi-hành một lượt ba bản-sự:

1. CÔNG-PHU: là trau sửa tâm-tánh cho được trong sạch, thanh-tịnh.

2. CÔNG-QUẢ: là làm việc phước-đức, giúp ích cho đời bằng mọI phương-tiện.

3. CÔNG-TRÌNH: là phượng-thờ, cúng-kiến đúng phép qui-định với một lòng thành-tín.

Ba phần phải cho đồng-đều, không đặng biếng-lảng trong phần nào.

Tín-đồ chẳng đặng phép đi tuyên-truyền, hoặc rủ-ren, mời mọc người khác. Phận-sự phải luôn luôn làm gương-mẫu, là cố-gắng hành-đạo cho đúng qui-giới, hầu có thể cảm-hóa người trông vào. Đó là phép CHÁNH-KỶ HÓA-NHƠN.

Tín-đồ phải lấy câu "TỰ GIÁC GIÁC THA" làm châm-ngôn (Devise). Vì nếu không lĩnh-hội được Giáo-lý thì chỉ dẫn ai được (Ngô-thân bất-độ, hà thân độ).

Tín-đồ phải trầm-mặc. Chẳng nên bàn đến chánh-sự, chẳng nên luận đến Tông-giáo khác, chẳng nên xen vô việc đôi-chối của người.

Đức NGÔ-MINH-CHIÊU hằng dạy: "Làm thinh mà tu là hay nhứt". Càng tu lâu ngày, tín-đồ càng cương-quyết, càng trì chí, càng khép kỹ mình vào khuôn Đạo, cho đúng theo câu kệ của Ngài thường nhắc: "Người tu hành phải ĐạI-Hùng, Đại-Lực, Đại-Từ-Bi".

____________



d) Cách Thờ Phượng.

Giáo-lý của Ngài là Giáo-lý độc-tôn hay là Nhứt-thần-giáo (Monothéisme)

Ngài thường nói: Nhứt Kinh, nhứt Pháp,

Nhứt Kinh là chỉ dùng bộ kinh Cảm-Ứng làm căn-bản.

Nhứt Pháp là Giáo-pháp của Ngài.

Tín-đồ chỉ thờ Đức THƯỢNG-ĐẾ, là Đấng CHÍ-TÔN Chủ-Tể Càn-Khôn Vỏ-Trụ, quần-sanh, vạn-vật.

Nhưng THƯỢNG-ĐẾ là Ngôi THÁI-CỰC, là Nguyên-nhân (cause première) của Càn-Khôn, Nguyên-lý (Raison primordiale) của Võ-Trụ, vô-tướng, vô sắc, vô-lượng, vô-biên, thì làm sao hình-dung cho trúng được.

Nên tín-đồ phải vẽ Thiên-Nhãn (mắt tay trái) làm biểu-hiệu mà thờ, cho giống nhau một cách.

Họa Thiên-Nhãn tượng-trưng Ngôi Thái-Cực mà thờ: là vì kinh sách có câu: Phật tức Tâm. Nhãn thị chủ-Tâm. Vậy thấy mắt là thấy Tâm, mà thấy Tâm tức thấy Phật vậy.

Còn họa mắt bên trái vì bởi bên trái thuộc dương, DƯƠNG là Trời.

____________

3. Về phần TRIẾT-LÝ.

Triết-lý của Ngài cũng rất giản-dị, Ngài ít hay diễn-luận và có nói: "Đa lý lộng-hành". Nên thường dạy mấy vị thọ-đạo trực-tiếp với Ngài cứ xem cách-thức của Ngài mà làm y theo chớ ít khi giảng-giải nhiều.

Theo mấy quan-điểm của Ngài giải bày, thì thế-gian nầy chỉ là cõi GIẢ-TẠM, VÔ-THƯỜNG. Đường ĐỜI tỉ như cái sân-khấu. Con người là kép đóng trò: Công-Hầu Khanh-Tướng, Hỉ, Nộ, Ai, Lạc gì đến chừng vẫn hát chẳng còn chi. Vinh-Hoa, Phú-Quí ở đời, đến chung-qui rồi cũng: không (Néant).

Thêm nữa, cõi trần là nơi vay trả: con người phải trả cho tất oan-gia trái-chủ: Tiền-khiên, nghiệp-chướng đã gây ra, trải qua nhiều kiếp trước.

Cho nên người đời phải chịu bao nhiêu khổ-não để thanh-toán món nợ tiền-khiên ấy.

Muốn giải mối oan-nghiệt nầy chỉ có một biện-pháp duy-nhất là khép mình vào khuôn Đạo ban truyền, hành-y giới-luật. Chủ yếu là làm doan làm phước cho nhiều, và đừng vay thêm nợ mới.

Nợ oan-khiên nó đeo-đai theo kiếp con người chẳng rời, nó lại mang nhiều hình-trạng, dầu khôn lanh đến bực nào, dầu cao bay xa chạy tới đâu cũng không mong trốn tránh đặng.

Nên người tu-hành phải gần đời, để trả nợ đời. Nhưng lẫn-lộn theo thế mà không luyến thế: Cư trần bất nhiễm trần.

Bởi vậy Đức NGÔ-MINH-CHIÊU thường nhắc nhở câu "Nhứt tu thị, nhị tu sơn" và dặn luôn luôn nên nhớ: CÒN NỢ LÀ CÒN CHUYỂN KIẾP.

Còn một đặc-điểm khác là Ngài thường dạy: nên an-phận thủ-thường. Như thế Giáo-lý của Ngài không có tánh-cách YẾM-THẾ.

Tìm được mối Đạo, hiểu được lý Đạo, hành được đúng luật Đạo là một đều hạnh-phúc lớn của đời vậy.

____________

4. Về phần SIÊU-HÌNH, HUYỀN-HỌC.

a) Quan niệm về Ngôi THÁI-CỰC.

Ngài chẳng hề công-nhiên (publiquement) diễn-luận về Ngôi THÁI-CỰC và về cõi HƯ-LINH Ngài không xác định Ngôi THÁI-CỰC phải chăng là NGUYÊN-LÝ HỒN-NHIÊN của Càn-Khôn, Võ-trụ (Principe primordial Universel), hay là một QUYỀN-NĂNG vô-cực vô-hạn, toàn-tri toàn-thiện, đã khai Thiên lập Địa, điều-hòa Võ-Trụ.

Tuy nhiên, Ngài cũng có phớt qua rằng: Ngôi Thái-Cực là một khối ĐẠI-LINH-QUANG, trường-tồn bất-hoại vô-thủy vô-chung, vô-hình vô ảnh.

b) Quan niệm về HƯ-LINH.

Còn mỗi linh-hồn con người là một điểm linh-quang từ "TOÀN-THỂ" tủa ra, theo khí hậu-thiên mà sa lần xuống thế-giới hữu-hình. Càng lâu, càng xa lại càng tạo nhiều nghiệp-chướng, càng đọa-lạc trong bể dục, càng giam-hãm mình trong vòng luân-hồi, sanh-tử, tử sanh chẳng dứt.

Muốn giảI-thoát, con người phải lo trả sạch rồi nghiệp-chướng, đừng gây oan-trái khác, luyện mình chẳng nhiễm tục-lụy, phàm-duyên. Chẳng chi vương-vấn nơi trần-lao nữa, linh hồn mới được nhẹ-nhàng, trong sạch khỏi chuyển-kiếp để trở về nguyên-thủy.

Tóm lại, người hành đạo lấy sự hồI-nguyên, qui-bổn làm cứu cánh, việc giải oan, trả quả làm phương tiện.

c) Quan niệm về LUÂN-HỒI - NGHIỆP-BÁO

Khi Đức Ngô-Minh-Chiêu nói rằng CAO-ĐÀI-GIÁO cũng là PHẬT-GIÁO, tức nhiên là Ngài mặc-nhận (adopter tacitement) thuyết LUÂN-HỒI, NGHIỆP-BÁO. Tuy Ngài không có biện-luận đến, nhưng Ngài cũng có nhắc những luật ấy.

____________

IV - Khoa NỘI-GIÁO TÂM-TRUYỀN (Esotérisme).

Như đã nói ở đọan trước, khoa Tâm-Truyền để dẫn-dắt người hữu-căn, chán-đời, muốn ly-khai thế-cuộc, để tìm đường siêu-xuất.

Tín-đồ phải trường-trai, tuyệt-dục, tứ-thời thiền-định, phải chịu bao nhiêu sự khảo-đảo, thử-thách, chẳng nài khổ-hạnh. Nhứt trần bất nhiễm.

Công-phu, công-quả, công-trình phải đều-đặn.

Tóm-tắt, tín-đồ phải thấu-triệt lý huyền-vi diệu-ẩn, phải chính-tâm diệt-dục, vong-kỷ xả-thân: kể mình như đã chết chưa chôn.

Vì thế mà từ xưa đến nay, cơ NộI-Giáo Tâm-Truyền ít được phổ-dương trong đồ-chúng!

____________

V - PHỤ LỤC.

Giáo-lý thời-kỳ sau ngày Đức NGÔ-MINH-CHIÊU qui-liễu.

Bắt từ ngày qui-vị (năm 1932) Đức NGÔ-MINH-CHIÊU lại dùng huyền-diệu cơ-bút mà giáo-đạo, nhứt là tại các Đàn thuộc Cơ CHIẾU-MINH TAM-THANH VÔ-VI.

Nhưng lúc còn tại tiền Ngài có dặn trước phải thận-trọng cho lắm. Nếu còn vọng-niệm, ý-phàm chưa dứt, tâm không thanh-tịnh thì khó phân hư thiệt. Vậy điều chi trái lại, không phù-hợp, lien-quan, tương-tiếp với Giáo-pháp Ngài dạy khi còn sanh-tiền, thì là tà-cơ ngoạI-giáo. Đó là những tiêu-chuẩn để nhận xét, phân-biệt chỗ thiệt hư.

Các nhà Học-vấn, các bực Đạo-đức muốn nghiên-cứu thêm về phần Giáo-lý nầy thì nên tham-khảo bộ ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO. Quyển nầy gồm nhiều bài triết-luận về Giáo-Lý của Ngài và ghi đầy-đủ tài-liệu về phần Công-Truyền cùng là Tâm-Truyền.

Quyển ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO do Cơ-quan CHIẾU-MINH TAM-THANH VÔ-VI ấn tống.

ReTour