Đại thừa siêu phàm nhập thánh

Hạ quyển
Đại thừa siêu phàm nhập thánh pháp tam môn
Triêu nguyên luyện Khí đệ bát

[Siêu Nội Viện, luyện Khí thành hình, Tử Kim Đan,
luyện Dương Thần, đỉnh tụ tam hoa]

[Kim cáo] nói:
Nhất Khí mới phân, Đại Đạo có hình mà bày ra hai nghi ( 1). Hai nghi định vị, thì Đại Đạo hữu danh mà phân ra Ngũ Đế. Ngũ Đế tha hương, mỗi thứ chiếm một phương. Ngũ phương khác Khí, mỗi nơi giữ một con.
Con của Thanh Đế, được Giáp Ất nhận, thiên chân là Mộc Đức Cửu Khí.
Con của Bạch Đế, được Canh Tân nhận, thiên chân là Kim Đức Thất Khí.
Con của Hắc Đế, được Nhâm Quý nhận, thiên chân là Thủy Đức Ngũ Khí.
Con của Xích Đế, được Bính Đinh nhận, thiên chân là Hỏa Đức Tam Khí.
Con của Hoàng Đế, được Mậu Kỷ nhận, thiên chân là Thổ Đức Nhất Khí.
Từ Nhất Khí sinh Chân Nhất, Chân Nhất vì ra từ Thổ, nên vạn vật sinh thành tại Thổ, ngũ hành sinh thành tại Nhất. Chân Nguyên Chi Đạo đều là Nhất Khí mà sinh.
[Ngọc thư] nói:
1, 3, 5, 7, 9, là Đạo phân chia mà có số.
Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, là Đạo biến hóa mà có hình tượng.
Đông Tây Nam Bắc Trung, là Đạo bày ra nên có vị trí.
Thanh Bạch Xích Hoàng Hắc, là Đạo tản ra mà có chất.
Số quay về không có số, tượng phản về không có tượng, vị trí trở lại không có vị trí, chất hoàn về không có chất.
Muốn Đạo không có số, không phân chia thì không có số vậy.
Muốn Đạo không có tượng, không biến hóa thì không có tượng vậy.
Muốn Đạo không có vị trí, không bày ra thì không có vị trí vậy.
Muốn Đạo không có chất, không tản ra thì không có chất vậy.
Không có số là nguồn của Đạo, không có tượng là gốc của Đạo, không có vị trí là cái Chân của Đạo,

không có chất là Diệu của Đạo.
[Chân nguyên] nói:
Nguồn của Đạo đã phân thì giáng gốc lưu ngọn. Người ngộ được cái Chân của nó thì nhân cái Chân mà tu Chân, bên trong đã Chân thì bên ngoài cũng tự Chân ứng theo vậy. Người hiểu được cái Diệu của nó thì nhân cái Diệu mà tạo Diệu, bên trong đã Diệu thì bên ngoài cũng tự Diệu ứng theo vậy.
Trời Đất đắc cái Chân của Đạo, mà Chân đó chưa ứng, nên không tránh được có vị trí.
Trời Đất đắc cái Diệu của Đạo, mà Diệu đó chưa ứng, nên không tránh được có chất.
Có chất thì có thể tìm ra tượng, có vị trí thì có thể suy ra số. Trong khoảng Trời Đất, trong vạn vật, chỉ có người là quý nhất. Theo việc Trời Đất có tượng có thể tìm tòi, nên biết được chất khí và chất thủy của nó. Theo việc Trời Đất có số có thể suy đoán, nên biết vị trí xa và gần. Xem xét như thế thì Đạo cũng chẳng xa người đâu.
[Bỉ dụ] nói:
Trời Đất có Ngũ Đế, như con người có ngũ tạng.
Thanh Đế: Giáp Ất Mộc, Giáp là Dương, Ất là Âm, như là Khí và Dịch của Can.
Hắc Đế: Nhâm Quý Thủy, Nhâm là Dương, Quý là Âm, như là Khí và Dịch của Thận.
Hoàng Đế: Mậu Kỷ Thổ, Mậu là Dương, Kỷ là Âm, như là Khí và Dịch của Tì.
Xích Đế: Bính Đinh Hỏa, Bính là Dương, Đinh là Âm, như là Khí và Dịch của Tâm.
Bạch Đế: Canh Tân Kim, Canh là Dương, Tân là Âm, như là Khí và Dịch Phế.
Thường các mùa xuân hạ thu đông khác nhau, thì Tâm Phế Can Thận vượng theo tháng.
[Chân quyết] nói:
Phàm ba tháng mùa xuân, Can Khí vượng. Can vượng là phụ mẫu Chân Khí, theo độ số của trời mà vận chuyển ở Can. Nếu gặp ngày Mộc, Giáp Ất khắc Thổ, vào giờ Thìn Tuất Sửu Mùi, theo thời mà khởi Hỏa luyện Tì Khí. Lúc quẻ Đoài các ngày còn lại, tổn Kim mà hao Phế Khí, lúc này không thể hạ công. Vào lúc quẻ Khảm, y pháp khởi Hỏa luyện Thận Khí. Lúc quẻ Chấn thì nhập thất, vào nhiều ra ít, hơi thở trụ là hơn cả, dần dần bế lâu thêm, đếm đến 1.000 hơi làm hạn độ ( 2). Lúc đó nội quán như pháp, mặc cho minh tâm bế mục ( 3), màu xanh tự hiện. Dần dần dướn người để nhập Nê Hoàn, từ Dần đến Thìn mà đầy quẻ Chấn.
Phàm ba tháng mùa hè, Tâm Khí vượng. Tâm vượng là phụ mẫu Chân Khí, theo độ số của trời mà vận chuyển ở Tâm. Nếu gặp ngày Hỏa, Bính Đinh khắc Kim, lúc quẻ Đoài, y pháp khởi Hỏa luyện Phế Khí. Lúc quẻ Khảm các ngày còn lại, tổn Thủy mà hao Thận Khí, lúc này không thể hạ công. Lúc quẻ Chấn, y pháp khởi Hỏa luyện Can Khí. Lúc quẻ Li thì nhập thất, hành trì như trước, màu đỏ tự hiện. Dần dần dướn người để nhập Nê Hoàn, từ Tị đến Mùi mà đầy quẻ Li. (4)
Phàm ba tháng mùa thu, Phế Khí vượng. Phế vượng là phụ mẫu Chân Khí, theo độ số của trời mà vận chuyển ở Phế. Nếu gặp ngày Kim, Canh Tân khắc Mộc, lúc quẻ Chấn, y pháp khởi Hỏa luyện Can Khí. Lúc quẻ Li các ngày còn lại, tổn Hỏa mà hao Tâm Khí, lúc này không thể hạ công. Lúc quẻ Tốn, y pháp khởi Hỏa luyện Tì Khí. Lúc quẻ Đoài thì nhập thất, hành trì như trước, màu trắng tự hiện. Dần dần dướn người để nhập Nê Hoàn, từ Thân đến Tuất mà đầy quẻ Đoài. (5)
Phàm ba tháng mùa đông, Thận Khí vượng. Thận vượng là phụ mẫu Chân Khí, theo độ số của trời mà vận chuyển ở Thận. Nếu gặp ngày Thủy, Nhâm Quý khắc Hỏa, lúc quẻ Li, y pháp khởi Hỏa luyện Tâm Khí. Lúc giờ Thìn Tuất Sửu Mùi các ngày còn lại, tổn Thổ mà hao Tì Khí, lúc này không thể hạ công. Lúc quẻ Đoài, y pháp khởi Hỏa luyện Phế Khí. Lúc quẻ Khảm thì nhập thất, hành trì như trước, màu đen tự hiện. Dần dần dướn người để nhập Nê Hoàn, từ Hợi đến Sửu mà đầy quẻ Khảm (.6)
Giải nói:
Xuân luyện Can, ngàn hơi thở thì Thanh Khí-khí xanh xuất. 18 ngày cuối xuân, không cần hành trì như trước, chỉ lấy định tức làm pháp, suốt ngày tĩnh tọa, để bồi dưỡng Tì, mà luyện Chân Khí của mình. Mới có thể quẻ Khảm khởi Hỏa luyện Thận,

vì sợ hao Chân Khí đó.
Hè luyện Tâm, ngàn hơi thở thì Xích Khí-khí đỏ xuất. 18 ngày cuối hè, không cần hành trì như trước, chỉ lấy định tức làm pháp, suốt ngày tĩnh tọa, tu luyện như trước. Mới có thể lúc quẻ Chấn khởi Hỏa như trước.
Thu luyện Phế, ngàn hơi thở thì Bạch Khí-khí trắng xuất. 18 ngày cuối thu, không cần hành trì như trước, chỉ lấy định tức làm pháp, suốt ngày tĩnh tọa. Mới có thể lúc quẻ Tốn khởi Hỏa như trước.
Đông luyện Thận, ngàn hơi thở thì Hắc Khí-khí đen xuất. 18 ngày cuối đông, không cần hành trì như trước, chỉ lấy định tức làm pháp, suốt ngày tĩnh tọa, không cần hành trì như trước, chỉ lấy định hơi thở làm pháp, suốt ngày tĩnh tọa. Mới có thể lúc quẻ Đoài khởi Hỏa như trước.
Luyện cho đến khi Hoàng Khí­-khí vàng phát sáng, thầm quán vạn đạo, bao phủ toàn thân.
Phàm phép định tức, không phải là cưỡng lưu mà đóng chặt. Chỉ là miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần ( 7), từ hữu nhập vô, khiến nó tự trụ. Phép thái Dược, ngậm nước bọt giữ chặt để ép tâm, khiến Chân Khí không tán. Phàm nhập thất, cần đóng cửa, một mình nơi vắng vẻ tĩnh lặng, tránh xa gà chó đàn bà con gái và toàn bộ các vật mình không thích. Hơi mở tiểu khiếu [Hai mắt], để đủ sáng để phân rõ các vật, không để gió và ánh mặt trời thấu khí, không được để có tiếng động. Cần lạnh lòng dừng suy nghĩ, sự lụy đều bỏ, trong ngoài ngưng tịch, không để vật gì làm cho chú ý.
Vì là Dương Thần mới tụ, Chân Khí mới ngưng, phải coi như Anh Nhi-trẻ sơ sinh, còn chưa cứng cáp, sớm tới đốt hương, quỳ gối rập đầu: Một khấn trời, hai khấn Thiên Tiên, ba khấn Địa Tiên, ba lễ đã xong, tĩnh tọa vong cơ, mà thi hành phép này.
Vẫn cần phép trước, lần lượt kiến nghiệm. Nếu coi thường đạo này, thì sợ chỉ uổng công, cuối cùng cũng chẳng thành. Chỉ là Âm Phách xuất xác mà thành Quỷ Tiên.
[Đạo yếu] nói:
Phàm thi hành phép này, không giới hạn năm tháng ngày giờ. Cứ y theo phép trước, đến kiến nghiệm mới dừng. Khí đó tự hiện ra, cần là cẩn thận tỉ mỉ không biết mệt, bỏ hết ngoại sự. Chỉ ở trong mật thất dụng ý. Tính toán thời gian, dùng hai đứa bé Thuần Dương, hoặc kết giao môn sinh, thay nhau qua lại, giúp đỡ hơn nghìn ngày, có thể xong một lần. Một lần mà đoạt toàn bộ, 100 ngày kiến công, 500 ngày Khí đủ, có thể thi hành nội quán.
Sau đó tụ Dương Thần để nhập Thiên Thần, luyện Thần hợp Đạo, nhập thánh siêu phàm. Cái hiệu nghiệm của luyện Khí, chỉ thấy thân thể cực sướng, thường muốn bay lên, đan quang thấu cốt, hương lạ khắp phòng. Tiếp đó trong khi tĩnh thì ngoại quán, thấy ráng tím đầy mắt, trên đỉnh đầu nhìn xuống, Kim Quang trùm thân thể, kỳ quái chứng nghiệm không thể kể hết.

Nội quan giao hoán đệ cửu
[Tập Dương Thần, ma Thiên Hỏa giao hoán Tiên Phàm,
Chân không nhân gian, Thiên thượng Hoa Tư quốc]

[Kim cáo] nói:
Đại Đạo vốn vô thể-không có thể, ngụ ý ở khí thì Đạo lớn đến mức không có gì ở ngoài nó, không có vật gì có thể chứa được. Đại Đạo vốn vô dụng-không có dụng, vận vào vật thì độ sâu của Đạo không dò được, không có lý gì có thể đến tận cùng được.
Lấy thể mà nói Đạo, thì Đạo bắt đầu có phân biệt trong ngoài.
Lấy dụng mà nói Đạo, thì Đạo bắt đầu có cái nền của quan kiến ( 8).
Quán vào trong mà không quán ra ngoài, thì bên ngoài không có gì không đến tận cùng mà bên trong được sáng vậy. Quán vào Thần mà không quán vào hình, thì hình không gì không đủ mà Thần hiện được vậy.
[Chân nguyên] nói:
Lấy Nhất Tâm quán vạn vật, không ngờ vạn vật hữu dư.
Lấy vạn vật nhiễu Nhất Khí, không ngờ Nhất Khí không đủ.
Nhất Khí quy Nhất Tâm, Tâm không thể bị vật đoạt đi.
Nhất Tâm vận Nhất Khí, Khí không thể bị pháp sai khiến.
Nguồn của Tâm trong suốt, nhất chiếu vạn phá, thì không biết là có vật.
Khí tranh cương cường, vạn cảm mà ngừng lại, thì không biết là có pháp.
Vật vật vô vật, mà quay về bản lai hình tượng.
Pháp pháp vô pháp, mà hoàn toàn tự đắc được Chân.
[Bỉ dụ] nói:
Dựa vào tượng mà sinh hình, nhân hình mà lập danh. Hữu danh thì suy được số, có số thì đắc được lý. Vì cao thượng hư vô, không vật gì có thể làm tỉ dụ được.
Cái mà có thể mang ra so sánh được, là như sự tu luyện của con người. Thứ tự không sai, thì thành tựu sẽ lần lượt đến. Cái Khí xung hòa ngưng mà không tán. Chí Hư Chân Tính, điềm đạm vô vi, Thần hợp với Đạo, quy về tự nhiên.
Đương lúc này, coi vô tâm là tâm, thì làm sao mà nói là ứng vật được? Coi vô vật là vật, thì sao gọi là dụng pháp? Thực sự sung sướng vui vẻ, không biết ta có thân này, dần nhập vào Vô Vi Chi Đạo, để vào nơi Hi Di,

đó là thành nhập thánh siêu phàm khách.
[Chân quyết] nói:
Pháp hợp Đạo này, cũng như thường nói về cái lý tồn tưởng, cũng như lúc thiền tăng nhập định. Cần chọn đất lành mà làm mật thất, quỳ lễ đốt hương, ngồi xếp bằng ngay ngắn, xõa tóc nới lỏng y phục, tồn Thần chắc chắn, minh tâm bế mục.
Trước giờ Ngọ nhẹ nhàng dướn người, khởi Hỏa luyện Khí.
Sau giờ Ngọ nhẹ nhàng thu người, tụ Hỏa thiêu Đan.
Không phụ thuộc ngày đêm, Thần thanh Khí hợp, tự nhiên sung sướng.
Lúc tĩnh tọa nếu nghe thấy âm thanh thì không nghe, thấy cảnh vật thì không nhận, vật cảnh sẽ tự tán.
Nếu nhận vật cảnh, thì chuyển thành thêm ma chướng. Ma chướng không lui, thì nhanh chóng hướng ra phía trước, co người lại, co lại mà vươn vai, sau đó ưỡn ngực ra, ưỡn mà không vươn vai, đợi một chút thì trước sau Hỏa khởi đi lên cao, thân không được động, gọi là thiêu thân. Hỏa thoái thì ma chướng tự tán ra ngoài thân, Âm tà không nhập vào trong xác, cứ vậy hai ba lần là xong. Cần tưởng tượng là khắp khoảng Trời Đất, đều là lửa nóng, Hỏa hết thì thanh mát, không còn một vật.
Chỉ thấy xe ngựa ca múa, xe lọng lụa là, phú quý phồn hoa, người vật vui vẻ, thành đội thành hàng. Mây ngũ sắc bay lên, như đăng Thiên Giới. Đến giữa chỗ đó, lại thấy lâu đài chót vót, tự viện vòng quanh, trân châu kim ngọc, tràn đầy mặt đất, hoa quả ao đình, không biết là bao nhiêu nữa. Một lát thì dị hương khởi bốn bề, kĩ nhạc âm thanh, ríu ra ríu rít. Tân bằng mãn tọa, sơn hào hải vị đủ cả, vừa cười vừa nói, chúc mừng thái bình, đồ đạc trân quý, thay nhau hiến thụ.
Đương lúc này, dù không phải là Âm quỷ Ma quân, cũng không được nhận là việc tốt. Người tu chân, tuyệt hết ngoại sự, cam thụ tịch mịch. Hoặc tiềm tích nơi giang hồ, hoặc ẩn thân nơi vắng vẻ. Tuyệt niệm vong tình, cử động cẩn thận. Lâu ngày siêng năng, mà từ từ trải qua. Một ngày công thành pháp lập, khắp nơi đều là phồn hoa như vậy, lại không coi là Âm Ma, mà nhận lầm là thực đến Thiên Cung. Thực không biết thoát phàm thai, trong đỉnh đầu mình là bên trong Thiên Cung. Vì tham luyến mà coi là thực cảnh, không dùng phép siêu thoát, chỉ để ở trong thân. Dương Thần không xuất thì Thai Tiên không hóa. Mới nói là lên thoát bên trên con đường mê, là Lục Địa Thần Tiên, chỉ có thể trường sinh bất tử mà thôi, không thể thoát chất thăng Tiên, mà về Tam Đảo, mà thành Tiên Tử, đến đây thật là đáng tiếc!
Người học cần tự nghĩ siêu thoát tuy khó nhưng không thể không thi hành.
[Đạo yếu] nói:
Nếu không tận được pháp là do ít tỉnh ngộ vậy.

Siêu thoát phân hình đệ thập
[Xuất nhập phân hình, Thần Tiên thoát chất,
Siêu phàm nhập thánh]

[Kim cáo] nói:
Đạo vốn Vô, lấy Hữu mà nói thì không phải là Đạo.
Đạo vốn Hư, lấy Thực mà nói thì không phải là Đạo.
Đã là Vô Thể, thì hỏi đáp đều không thể vậy.
Đã là Vô Tượng, thì nghe nhìn đều không thể vậy.
Coi huyền vi là Đạo, thì huyền vi cũng không thoát khỏi liên quan đến vấn đáp.
Coi Hi Di là Đạo, thì Hi Di cũng không tránh khỏi liên quan đến nghe nhìn.
Hi Di huyền vi vẫn còn chưa là Đạo, thì Đạo cũng không biết tại sao lại vậy.
[Ngọc thư] nói:
Cái gì đến thì có chỗ bắt đầu, mà không biết cái bắt đầu của Đại Đạo, sao lại vậy?
Cái gì đi thì có chỗ kết thúc, mà không biết cái kết thúc của Đại Đạo, sao lại vậy?
Phía trên cao vòi vọi dù có cái bên trên, mà không biết phía trên của Đại Đạo thì không có tận cùng.
Phía dưới sâu thăm thẳm dù có cái ở dưới, mà không biết phía dưới Đại Đạo thì không có cực.
Mênh mông mờ mịt mạc trắc gọi là Đạo, tùy vật nào được mà bày ra các loại khác nhau, Vô Vi Chi Đạo,

không thể nghiên cứu đến tận cùng được.
[Chân quyết] nói:
Siêu là siêu xuất phàm thể mà nhập Thánh phẩm.
Thoát là thoát khỏi tục thai mà thành Tiên Tử.
Là Thần nhập Khí Thai, Khí toàn Chân Tính,

Công phu lúc trước cần phải được kiến nghiệm chính đáng tỉ mỉ, mới vào ở trong phòng thanh tĩnh, để nhập Hi Di cảnh. Nội quán nhận Dương Thần, tiếp là khởi Hỏa giáng Ma, thiêu thân tụ Khí, Chân Khí thăng tại Thiên Cung, trong xác thì thanh tĩnh, không còn một vật. Cần chọn nơi yên tĩnh, cứ thế mà nội quán.
Ba lễ đã xong, bình thân không cần dướn cao, ngồi ngay ngắn không cần thu người. Bế mục minh tâm, sau khi tĩnh cực triêu nguyên, thân thể như tại không trung, Thần Khí bồng bềnh, khó mà chế ngự. Cứ âm thầm nội quán, sáng rõ không mờ, sơn xuyên tú lệ, lâu các lờ mờ, Tử Khí ( 9) hồng quang, xôn xao bày đặt, tường loan thái phượng, âm thanh du dương. Dị cảnh phồn hoa, có thể nói là chân thú trong bầu, mà động thiên biệt cảnh, tiêu dao tự tại, bặt tăm không biết đến hệ lụy nơi trần thế. Là nơi Chân Không, Khí đó tự chuyển, không cần dụng pháp theo thời.
Nếu thấy Thanh Khí xuất phương đông, thì sáo sênh trong trẻo, cờ tiết xe ngựa, tả hữu tiền hậu, không biết nhiều ít. Chốc lát thì phương nam Xích Khí xuất, phương tây Bạch Khí xuất, phương bắc Hắc Khí xuất, trung ương Hoàng Khí xuất. Ngũ Khí kết tụ mà thành đám mây màu, nhạc khí ríu rít, hỉ khí vui vẻ, Kim Đồng Ngọc Nữ, phù ủng tự thân, hoặc cưỡi Hỏa Long, hoặc trên Huyền Hạc, hoặc cưỡi Thái Loan, hoặc kị Mãnh Hổ, thăng lên không trung, tự trên xuống dưới, những nơi ta gặp, lâu đài quán vũ, không thể kể hết, thần đất quan lại, không thể nói đủ.
Lại đến một chỗ, nữ nhạc vạn hàng, quan liêu xếp hàng, như nghi thức đế vương ở nhân gian, thánh hiền đến kín. Đương lúc này, có thấy cũng như không có ai, thừa giá mà thượng thăng, cho đến một cửa, binh vệ nghiêm túc, thì không được phạm. Phải trái trước sau, quan liêu nữ nhạc, lưu luyến không thôi, cuối cùng không qua đuợc cửa. Xe lọng lật nghiêng, từ trên xuống dưới, lại nhập vào nơi ở cũ. Cứ như vậy lên trên xuống dưới không ngại số lượng, là phép điều Thần xuất xác.
Tích dần thuần thục, thăng một cái là đến Thiên Cung, giáng một cái là về chỗ cũ. Trên dưới tuyệt không trở ngại, là từ dưới mà đi lên. Như là lên Bảo Tháp bẩy bậc, hoặc như lên ba tầng Quỳnh Lâu, bắt đầu thì một bậc rồi lại một bậc, lên hết bẩy bậc, đã tới trong đỉnh đầu, tức thì không được nhìn xuống, sợ Thần kinh hoảng mà lưu luyến thân thể không chịu xuất. Đã lên trên bẩy bậc, thì nhắm mắt liền qua, như ngủ như thức, thân ngoại hữu thân. Hình như Anh Nhi, thịt da trong trẻo, thần thái sáng láng. Nhìn lại thân thể cũ, cũng không thấy có, mà chỉ nhìn thấy, như là đống phân, cũng như khô mộc. Dù chán ghét vạn lần,

không thể tức thời bỏ ngay mà viễn du.
Vì Thần đó xuất chưa thuần thục, Thánh Khí ngưng kết mà thành. Cần là lại nhập bản thân, qua lại ra vào, tùy tiện ngao du. Bắt đầu thì một bước hai bước, tiếp thì hai dặm ba dặm. Tích dần thuần thục, mới như tráng sĩ duỗi tay, có thể ngàn dặm vạn dặm, mà hình Thần lớn mạnh, dũng khí kiên cố. Sau đó gửi thân phàm vào nơi danh sơn đại châu, ở bên ngoài qua lại ứng thế, không như bọn phàm tục tầm thường.
Hoặc hạnh đã đủ thì nhận Thiên Thư, cưỡi loan thừa phượng, cưỡi hổ kị long, tự đông tự tây, mà vào Tử Phủ. Đầu tiên gặp Thái Vi Chân Quân, tiếp đó xuống ở Đảo. Muốn lên Động Thiên, thì cần truyền đạo tích hạnh ở nhân gian, rồi nhận Thiên Thư mà thăng Động Thiên, mà thành Thiên Tiên.
Phàm thi hành phép này, cổ kim ít người thành:
- Vì công phu chưa đủ mà muốn thi hành nhanh chóng, coi thường đạo này.
- Hoặc công nghiệm chưa chứng, mà chỉ lo tĩnh tọa, mong cầu siêu thoát.
- Hoặc Âm Linh không tán, xuất thành Quỷ Tiên, người chẳng thấy hình, qua lại đi đứng, cuối cùng không có chỗ về. Chỉ có đầu thai mượn xác, đoạt thân xác của người, mà lại trở thành người.
- Hoặc xuất nhập không thuần thục, vãng lai vô pháp, một đi một đến, không biết cách mà quay lại thân thể, Thần Hồn không biết chỗ ở. Đó là sự tọa hóa của tăng lữ, là thi giải của đạo sĩ.
Cho nên thi hành Đạo này, cần là công phu lúc trước kiến nghiệm chính đáng, rồi tìm đất xây phòng, để tránh xa toàn bộ các vật tanh hôi, các khí xú ác, các âm thanh qua lại, sắc đẹp của phụ nữ. Không chỉ xúc phạm đến Chân Khí, mà Thần cũng chán ghét.
Đã xuất lại nhập, nhập mà không xuất, thì hình thần câu diệu, thọ cùng Trời Đất, mà gặp hạo kiếp thì không chết. Đã nhập lại xuất, xuất mà không nhập, thì như ve thoát vỏ, dời Thần nhập Thánh. Đây là siêu phàm thoát tục, mà thành Chân Nhân Tiên Tử, mà ở bên ngoài phong trần, ở nơi Tam Đảo vậy.
[Đạo yếu] nói:

Không tận được pháp là do diệt tức vậy.
Trên là bí quyết siêu phàm nhập thánh.
Trên là Đại Thừa tam môn, là Thiên Tiên.


1) Là nghi Âm và nghi Dương

 (2) 1.000 hơi trở lên càng tốt, lấy việc hơi thở nhẹ dần làm hạn độ, nếu hơi thở đã trụ thì không cần đếm tiếp.

3) Bế mục: nhắm mắt. Minh tâm: Thâm cư tĩnh thất, đoan củng mặc nhiên. Không bợn trần ai, không còn lo lắng, vi tư vô vi, nhiệm vận tự như, không thấy, không nghe, bão thần dĩ tĩnh, không trong không ngoài, ly tướng, ly không, ly mê, ly vọng, thể hàm hư tịch, thường giác, thường minh (trích Tính Mệnh Khuê Chỉ).

4) 1.000 hơi trở lên càng tốt, như trên đã nói.

5) 1.000 hơi trở lên càng tốt, như trên đã nói.

6) 1.000 hơi trở lên càng tốt, như trên đã nói.

7) Xem Đạo Đức Kinh

8) Quan Kiến: quan là nhìn xem, hình tượng đã xem, ý thức. Kiến là thấy. Quan kiến là quan sát nhìn thấy, tức là có phân biệt. (Theo Cao Đài từ điển)

9) Tử Khí: Khí màu tím.

Trở lại Mục Lục

Thư Viện 1      4   5