Ngọc Dịch Hoàn Đan

                                      

Ngọc Dịch Hoàn Đan đệ lục
[Phụ Ngọc Dịch Luyện Hình, Thai Tiên, Tiểu Hoàn Đan,
Đại Hoàn Đan, Thất Phản Đan, Cửu Chuyển Đan]

[Ngọc thư] nói:
Chân Âm Chân Dương, tương sinh tương thành. Hiện ra ở trên, tích Dương thành Thần, trong Thần có hình mà treo trên trời là nhật nguyệt. Hiện ra ở dưới, tích Âm thành hình, trong hình có Thần mà ở dưới đất là kim ngọc. Chất của kim ngọc ẩn ở sơn xuyên, tú mị ( 1) khí nổi lên bên trên. Với nhật nguyệt giao quang, thảo mộc nhận được nó thì trinh tường ( 2),

điểu thú được nó thì thành dị loại ( 3).
[Chân nguyên] nói:
Dương thăng đến trời, thái cực sinh Âm, Âm không đủ mà Dương có dư, vì thế tích Dương sinh Thần. Âm giáng đến đất, thái cực sinh Dương, Dương không đủ mà Âm có dư, vì thế tích Âm sinh hình. Trên thì nhật nguyệt, dưới thì kim ngọc, Chân Dương có Thần, Chân Âm có hình, Khí của chúng giao nhau, mà trên dưới chiếu xạ nhau, ánh sáng trùm Trời Đất, thì kim ngọc có thể thành quý giá, chính vì như vậy.
Thường biết Khí của kim ngọc ngưng ở trên không, thì thành thụy khí tường yên ( 4), nhập vào đất, thì biến thành lễ tuyền chi thảo ( 5), nhân dân nhận được nó thì thành anh kiệt, điểu thú được nó thì sinh kỳ dị. Vì chất của kim ngọc, tuy sinh ở hình của tích Âm, mà bên trong ôm ấp Khí của Chân Dương, lại cảm nhiễm nhật nguyệt của tích Dương thành Thần, Chân Âm Chân Dương bắn xuống mà bảo vật ngưng kết vậy.
[Bỉ dụ] nói:
Tích Âm thành hình, bên trong ôm ấp Chân Dương mà thành kim ngọc, như là tích Dược ôm ấp Chân Khí mà thành Thai Tiên. Khí của kim ngọc nhập vào đất, thì thành lễ tuyền chi thảo, như Ngọc Dịch hoàn Đan Điền vậy. Khí của kim ngọc ngưng trên không, mà thành thụy khí tường yên, như Khí luyện hình chất vậy.
Thường thì Khí của kim ngọc xung lên trời, theo Dương thăng mà khởi. Thường thì Khí của kim ngọc nhập vào đất, theo Âm giáng mà hoàn. Đã theo Âm Dương thăng giáng, thì tự có bốn mùa. Có thể Dịch hoàn Đan Điền, Khí luyện hình chất, như bốn mùa gia giảm, một ngày đổi thay.

[Chân quyết] nói:
Thái bổ kiến nghiệm, trong năm chọn tháng, trong tháng chọn ngày, trong ngày chọn giờ. Có ba thời gian dụng sự: 100 ngày thì Dược lực đầy đủ, 200 ngày thì Thánh Thai kiên cố, 300 ngày thì Chân Khí sinh, Thai Tiên tròn. Cẩn thận tỉ mỉ dụng công, gia giảm theo thời. Sau 300 ngày số đủ, mới thi hành phép Hoàn Đan Luyện Hình.
Phàm dùng quẻ Cấn phi kim tinh nhập não, chỉ đến quẻ Tốn mà thôi, đây là nói về phi kim tinh, 300 ngày sau. Quẻ Li thôi thái Dược, quẻ Khôn thôi siết Dương Quan, riêng chỗ này thì quẻ Đoài hạ thủ siết Dương Quan, đến quẻ Càn mới dừng. Đã thôi quẻ Li thì thêm vào phép nuốt Luyện Hình. Yết pháp-phép nuốt, dùng lưỡi khua khoắng giữa hàm trên và hai cằm, đầu tiên nuốt hết nước bọt ố trọc, tiếp đó lui đầu lưỡi lại để đầy tràn Ngọc Trì, nước bọt sinh thì không nhổ ra mà nuốt vào.
Phàm ba tháng mùa xuân, Can Khí vượng mà Tì Khí nhược, yết pháp hàng ngày dùng quẻ Li.
Phàm ba tháng mùa hè, Tâm Khí vượng mà Phế Khí nhược, yết pháp hàng ngày dùng quẻ Tốn.
Phàm ba tháng mùa thu, Phế Khí vượng mà Can Khí nhược, yết pháp hàng ngày dùng quẻ Cấn.
Phàm ba tháng mùa đông, Thận Khí vượng mà Tâm Khí nhược, yết pháp hàng ngày dùng quẻ Chấn (7).
Thường tứ quý chi nguyệt ( 8), Tì Khí vượng mà Thận Khí nhược, con người lấy Thận Khí làm căn nguyên, bốn mùa đều có suy nhược. 18 ngày sau cùng của quý nguyệt mỗi mùa, yết pháp hàng ngày dùng quẻ Đoài, vẫn cùng dùng với yết pháp trước. Độc có tháng cuối mùa thu chỉ dùng quẻ Đoài yết pháp, mà ngừng công phu quẻ Cấn.
Yết pháp trên, đầu tiên theo phép trước mà nuốt. Nếu như giữa răng và Ngọc Trì mà không sinh nước bọt, chỉ lấy lưỡi làm đầy trên dưới mà đóng Ngọc Trì, thu hai má, lấy nuốt suông làm phép, chỉ là nuốt Khí, trong Khí tự có Thủy.
Yết khí như một năm 36 đến 49 lần là số; lại một năm, 81 lần; lại thêm một năm, 181 lần, là kiến nghiệm,

mới là phép Ngọc Dịch Hoàn Đan.
Hành trì không quá ba năm, tưới tắm Đan Điền, Mộc Dục-tắm gội Thai Tiên, mà Chân Khí càng thịnh. Như thi hành phép Ngọc Dịch Hoàn Đan này, thì trong 300 ngày dưỡng thành Nội Đan, Chân Khí mới sinh.
Quẻ Cấn phi kim tinh, xung động Tam Quan, lên đến Nê Hoàn, liền thi hành phép Kim Dịch Hoàn Đan. Từ trong đỉnh đầu hạ xuống phía trước, Kim Thủy rót xuống, hạ về Hoàng Đình, biến Kim thành Đan, gọi là Kim Đan.
Thi hành Kim Dịch Hoàn Đan, cần ở phòng kín tĩnh lặng, nơi gió ánh sáng người thường không tới được. Đốt hương, chắp tay ngồi xếp bằng. Để thân cúi xuống mà phía sau thăng, vừa cảm thấy Hỏa khởi, chính tọa tuyệt niệm, vong tình nội quán. Đích xác quẻ Cấn phi kim tinh nhập đỉnh đầu, chỉ bớt nghển đầu ưỡn cổ, thả lỏng để dưới cổ như lửa đốt, mới gật đầu hướng ra trước, cúi đầu gập cổ, thoái đầu lưỡi tiến ra sau để chống hàm trên. Trên có nước trong mát, vị thơm ngọt, trên thông Đỉnh Môn, dưới thông bách mạch. Trong mũi ngửi thấy một dạng hương thơm thực sự, trên lưỡi cũng có vị lạ, không nhổ ra mà nuốt xuống, hạ về Hoàng Đình, gọi là Kim Dịch Hoàn Đan.
Xuân hạ thu đông, không phụ thuộc vào thời gian khí hậu, chỉ là sau khi phi kim tinh nhập não, theo thứ tự thi hành phép này, từ Cấn đến Tốn mà thôi. Phép siết Dương Quan lúc chiều tối, từ Đoài đến Càn mà thôi.
Phàm thi hành phép này, cẩn thận tỉ mỉ hơn trước, mới có thể đắc thành. Cuối cùng dừng ở luyện hình trụ thế, trường sinh bất tử mà thôi, không thể siêu thoát.
[Đạo yếu] nói:
识取五行根蒂
方知春夏秋冬
时饮琼浆数盏


1 Tú mị: đẹp tốt mê người

2 Trinh tường: may mắn

3 Dị loại: loài lạ

4 Thụy khí tường yên: thứ khí và khói tốt lành

5 Lễ tuyền chi thảo: suối nước ngọt và cỏ chi, nói chung cũng là tốt

6 Phép phi kim tinh, cũng có thể nuốt

7 Tứ quý chi nguyệt: là bốn tháng cuối của bốn mùa. Ví dụ 3, 6, 9, 12

醉归月殿遨游。
Biết giữ ngũ hành căn đế,
Mới hay xuân hạ đông thu.
Lúc uống Quỳnh Tương vài chén,
Say về Nguyệt Điện rong chơi.
Giải nói:
Biết giữ ngũ hành căn đế là đảo ngũ hành tương sinh tương khắc, mà thời điểm dùng quẻ để thi hành yết pháp không giống nhau.
Mới hay xuân hạ đông thu là việc thay đổi thì có thời hậu.
Quỳnh Tương là Ngọc Dịch.
Nguyệt điện là Đan Điền. Say về là nuốt nhiều.

东望扶桑未晓
后升前咽无休
骤马邀游宇宙
长男只到杨州

Hướng đông mặt trời chưa sáng,
Sau lên trước nuốt không ngừng.
Ngựa phi rong chơi vũ trụ,
Trưởng nam chỉ đến Dương Châu.
Giải nói:
Hướng đông mặt trời chưa sáng là mặt trời chưa lên, là lúc của quẻ Cấn.
Sau lênphi kim tinh. Trước nuốt là Ngọc Dịch Hoàn Đan.
Ngựa phi là khởi Hỏa, là Ngọc Dịch Luyện Hình. Rong chơi vũ trụ là tràn khắp tứ chi.
Trưởng nam là quẻ Chấn. Chỉ đến Dương Châu là quẻ Li. Ngọc Dịch Luyện Hình bắt đầu từ quẻ Chấn, đến quẻ Li mới dừng.
Trực giải nói:
Ngọc Dịch là Thận Dịch, đi lên đến Tâm, hai Khí tương hợp mà quá Trùng Lâu, thì nước bọt mãn Ngọc Trì, gọi là Ngọc Dịch. Nếu nuốt xuống thì từ Trung Điền mà vào Hạ Điền, thì gọi là Hoàn Đan. Nếu thăng lên thì từ Trung Điền mà vào tứ chi, thì gọi là Luyện Hình, kỳ thực là một vật mà thôi.
Thái Dược 300 ngày này số đủ Thai tròn, mà phi kim tinh thì giảm một quẻ, siết Dương Quan như cũ. Thôi thái Dược, thêm vào yết pháp, yết pháp tùy theo bốn mùa mà thôi. Đây là Luyện Hình Pháp. Sau khi dùng quẻ, thêm vào Luyện Hình, bắt đầu từ quẻ Chấn, lấy quẻ Li làm kỳ hạn, không giới hạn năm tháng ngày, kiến nghiệm mới thôi:
- Thể sắc sáng láng, thần khí tú mị,
- Dần sợ tanh hôi, mà kị ăn uống,
- Phàm tình phàm ái, tâm cảnh tự trừ.
- Chân Khí sắp đủ mà như thường no, ăn không nhiều, ẩm tửu vô lượng.
- Trần cốt đã đổi mà biến đổi cả Thần thức.
- Bước nhanh như ngựa chạy, đi như bay.
- Mắt đen sâu thẳm, thân thể như mỡ đông, tóc xanh mọc lại, nếp nhăn trên mặt biến mất, già lão đi mất mà mãi giữ vẻ đồng nhan.
- Ngửa mặt nhìn lên trăm bộ mà thấy được sợi lông tơ.
- Trong thân thể, sẹo cũ cùng các chỗ bị tật, tự nhiên tiêu trừ.
- Nước mũi nước mắt nước dãi mồ hôi, cũng không thấy có.
- Thánh Đan sinh mùi vị, Linh Dịch tỏa hương thơm.
- Trong miệng mũi, thường có chân hương kỳ vị.
- Nhổ nước bọt thành sữa, có thể trị tật bệnh của người.
- Toàn thân đều thành bạch cao.
Các thứ trên đều là hiệu nghiệm của Ngọc Dịch Hoàn Đan Luyện Hình, kiến nghiệm liền dừng. Cần cẩn thận tỉ mỉ dụng công phu, theo pháp theo thời, mà thi hành hậu sự.
Kim Dịch Hoàn Đan đệ thất
[Phụ Kim Dịch Luyện Hình, khởi Hỏa phần thân,
Kim Hoa Ngọc Lộ, Đại Ký Tế, Hoàng Bạch pháp]
[Kim cáo] nói:

Tích Dương thành Thần, trong Thần có hình, hình sinh ở ngày, ngày sinh ở tháng.
Tích Âm thành hình, trong hình có Thần, Thần sinh ở Kim, Kim sinh ở Thổ.
Theo Âm Dương mà mọc lặn là ánh sáng của nhật nguyệt, nhân số mà sinh ánh sáng, số gốc ở Càn Khôn.
Theo Âm Dương mà thăng giáng là Khí của kim ngọc, nhân thời mà khởi Khí, thời gốc ở Trời Đất.
[Chân nguyên] nói:
Ánh sáng của nhật nguyệt, sau Đán (1) thì dụng cửu, trước Hối (2) thì dụng lục, 6 và 9 là số của Càn Khôn.
Khí của kim ngọc, xuân hạ thì thượng thăng, thu đông thì hạ giáng, thăng giáng là thời của Trời Đất.
Kim sinh ở Thổ, ngọc sinh ở Thạch, Thạch sinh ở Thổ, hiện ra thành hình mà ở bên dưới là như vậy.
Kim Ô trong mặt trời, Ngọc Thố trong mặt trăng, mặt trăng cần Hồn của mặt trời để tỏa sáng,

hiện ra thành Thần mà ở bên trên là vậy.
[Bỉ dụ] nói:
Nhật nguyệt như là Khí vậy, Thận Khí như là mặt trăng, mà Tâm Khí như là mặt trời.
Kim ngọc như là Dịch vậy, Thận Dịch như là Kim, mà Tâm Dịch như là Ngọc.
Cái gọi là Ngọc Dịch vốn từ Thận Khí thượng thăng đến Tâm, rồi hợp với Tâm Khí, hai Khí tương giao mà quá Trùng Lâu. Ngậm miệng không cho ra mà nước bọt mãn Ngọc Trì. Nuốt nó xuống thì nói là Ngọc Dịch Hoàn Đan, đưa nó lên thì nói là Ngọc Dịch Luyện Hình. Vì Dịch vốn từ trong Thận tới mà lại sinh ra ở Tâm, nên cũng như thuyết trong Thổ sinh Thạch,

trong Thạch sinh Ngọc vậy.
Cái gọi là Kim Dịch tức Thận Khí hợp với Tâm Khí mà không thượng thăng, hun đốt Phế, Phế là Hoa Cái-cái lọng hoa, trùm lên hai Khí. Ngay hôm ấy, mà lấy Phế Dịch tại Hạ Điền, từ huyệt Vĩ Lư đi lên, nới nói là phi kim tinh vào trong não, để bồi bổ Nê Hoàn Cung. Từ trên lại hạ xuống mà vào Hạ Điền, mới nói là Kim Dịch Hoàn Đan. Đã về Hạ Điền rồi lại đi lên, tràn khắp tứ chi, lại thượng thăng ở phía trước, mới nói là Kim Dịch Luyện Hình, cũng là thuyết Kim sinh ở Thổ vậy.
Phàm người muốn Luyện Hình phi kim tinh, lúc ở trong tĩnh thất, cần tránh gió và mặt trời, đốt hương, bí mật thưa: “Tam Thanh Thượng Thánh, thần sở nguyện trường sinh tại thế, truyền hành Đại Đạo, diễn hóa cáo nhân, nên đầu tiên tự thi hành Luyện Hình Pháp, muốn đạt được không sợ nóng lạnh, tuyệt việc ăn uống, thoát ra ngoài Âm Dương”.
Chú xong, mới nuốt xuống.
[Chân quyết] nói:
Ở sau lưng: Huyệt Vĩ Lư gọi là Hạ Quan, Giáp Tích gọi là Trung Quan, não hậu gọi là Thượng Quan. Đầu tiên phải phi kim tinh để thông Tam Quan.
Thận ví như đất, Tâm ví như trời, lên đến đỉnh đầu ví như Cửu Thiên.
Ngọc Dịch Luyện Hình, từ Tâm đến đỉnh đầu mà thông Cửu Thiên. 300 ngày thì Đại Dược thành, Thai Tiên tròn, mà Chân Khí sinh. Khởi phía trước thì thi hành Ngọc Dịch Luyện Hình theo cách cũ, khởi phía sau thì thi hành phi kim tinh theo cách cũ, Kim Tinh Ngọc Dịch, hành công kiến nghiệm.
Bắt đầu từ quẻ Khảm, khởi phía sau đi lên vào đỉnh đầu, dùng hai tay bịt nhẹ hai tai, nội quán như phép. Nhẹ nuốt nước bọt, mới lấy lưỡi chống chắc lên hàm, dưới bế Ngọc Trì, để đợi nước bọt từ hàm trên hạ xuống thì mới nuốt. Nuốt xong lại khởi, đến quẻ Cấn làm hạn độ.
Xuân đông thì hai lần khởi một lần nuốt, thu hè năm lần khởi một lần nuốt. Thường số lần nuốt, thu hạ không quá số 50, xuân đông không quá số 100. Sau khi nuốt xong, dướn người lên phía trước, để cho Khí tràn khắp đầu mặt, tứ chi, tay, ngón tay mới thôi. Lại khởi lại thăng, đến quẻ Li làm hạn độ. Phàm khởi phía sau nuốt nước bọt này, mới gọi là Kim Dịch Hoàn Đan. Sau khi Hoàn Đan mà lại khởi phía trước, mới gọi là Kim Dịch Luyện Hình.
Từ sau quẻ Cấn, Luyện Hình đến quẻ Li mới dừng. Quẻ Đoài siết Dương Quan, đến quẻ Càn mới dừng. Theo cách khởi phía sau đi lên đến đỉnh đầu, rồi từ trên đi xuống, gọi là Kim Dịch Hoàn Đan. Khí của Kim Đan khởi phía trước, từ dưới đi lên trên, gọi là Kim Dịch Luyện Hình. Hình hiển rõ ngọc thụ kim hoa. Nếu mà Kim Dịch Hoàn Đan chưa đến hạ nguyên (3) mà trước sau đều khởi, thì gọi là Hỏa Khởi Phần Thân-nổi hỏa thiêu thân, đây là Kim Dịch Hoàn Đan Luyện Hình. Đã trước sau đều khởi, thì thiêu đốt cả thân. Phàm thi hành bước này, rất cần cẩn thận tỉ mỉ gắng chí không trễ nải, lấy kiến nghiệm làm thước đo.
[Đạo yếu] nói:
起后终宵闭耳,
随时对饮金液。
宴到青州方住,
日西又听阳歌

Sau khởi suốt đêm bịt tai,
Tùy thời đối ẩm Kim Dịch.
Vui tới Thanh Châu mới nghỉ,
Nhật tây lại nghe Dương ca.
Giải nói:
Khởi sau suốt đêm bịt tai là thi hành Kim Dịch Hoàn Đan. Cần là trửu hậu phi kim tinh, xung động Tam Quan. Lúc Khí đó mới khởi, cần nhanh chóng lấy hai tay bịt tai, tai là Thận Ba Môn, sợ tiết lậu Thận Khí ra ngoài, mà không vào trong não vậy.
Tùy thời đối ẩm Kim Dịch là đã thấy Khí vào trong não, thì liền theo phép trước, cúi đầu gập cổ, thoái đầu lưỡi chống gần hàm trên, dòng nước thanh ngọt, có hiệu nghiệm kỳ dị, ngọt như vị ngọt của mật. Đương lúc quẻ Cấn phi kim tinh thì nuốt, đến quẻ Chấn mới dừng.
Thanh Châu là quẻ Chấn.
Nhật tây là quẻ Đoài. Lại nghe Dương Ca là từ quẻ Đoài siết Dương Quan, thẳng đến quẻ Càn, hàng ngày dùng quẻ Li, thì không cần phải thái Dược.

饮罢终霄火起
前升后举焚身
虽是不拘年月
日中自有乾坤

Uống xong suốt đêm Hỏa khởi,
Trước thăng sau cử thiêu thân.
Dù là không theo năm tháng,
Trong ngày tự có Càn Khôn.
Giải nói:
Đây chắc chắn là Kim Dịch Luyện Hình Pháp.
Uống xong suốt đêm Hỏa khởi là theo tiền pháp Kim Dịch Hoàn Đan, quẻ Cấn thì Luyện Hình là khởi Hỏa.
Trước thăng sau cửphi kim tinh mà khởi Hỏa. Phàm lúc Ngọc Dịch Luyện Hình, đầu tiên phía sau khởi kim tinh vào đỉnh đầu, sau khi Hoàn Đan thì lại thăng phía trước để Luyện Hình, cái này là khác so với Kim Dịch Luyện Hình Pháp. Đương lúc phi kim tinh mà khởi Hỏa vào đỉnh đầu, liền khởi phía trước mà Luyện Hình. Trước sau đều khởi, gọi là thiêu thân.
Hỏa khởi mà thi hành Hoàn Đan, cần theo bốn mùa mà gia giảm số lượt thi hành. Phép này không phụ thuộc vào năm tháng ngày giờ, chỉ cần cẩn thận tỉ mỉ chuyên nhất, ở nơi yên lặng vắng vẻ là được.
Trong ngày tự có Càn Khôn là trước Ngọ thiêu đốt Càn, sau Ngọ thiêu đốt Khôn. Lấy trước sau thân người mà nói, thì phía bụng là Khôn, sau lưng là Càn. Trước Ngọ thiêu đốt Càntrửu hậu phi kim tinh, khởi phía trước mà Luyện Hình vậy. Sau Ngọ thiêu đốt Khôn là từ quẻ Đoài siết Dương Quan đến quẻ Càn mới dừng vậy.
Trực giải nói:
Kim Dịch là Phế Dịch. Bao hàm Long Hổ mà vào Hạ Điền, thì Đại Dược sẽ thành, gọi là Kim Dịch. Trửu hậu rút nó ra mà nhập não, từ trên lại giáng Hạ Điền, thì nói là Hoàn Đan. Lại thăng lên phía trước, tràn khắp tứ chi, từ dưới lên trên, thì gọi là Luyện Hình, cũng gọi là Luyện Hình Thành Khí.
Ở đây cần là Ngọc Dịch Hoàn Đan, Luyện Hình kiến nghiệm, chính cần cẩn thận tỉ mỉ ở nơi vẳng vẻ, đốt hương mà thi hành phép này. Kim Dịch Hoàn Đan mà lần lượt Luyện Hình siết Dương Quan. Như thế ngoài một năm, mới được thiêu thân, thiêu thân tức là quẻ Khảm Luyện Hình phía trước. Lấy trước sau thân người mà nói, phía bụng là Khôn, sau lưng là Càn. Thiêu thân trước Ngọ thiêu đốt Càn là kim tinh, sau Ngọ thiêu đốt Khôn siết Dương Quan. Phàm thiêu đốt Càn từ dưới lên trên, trước sau đều khởi. Đông hè ba ngày hoặc năm ngày, thì thi hành phép kí tế, để đề phòng bị thái quá. Khiến cho Kim Đan được tốt thêm, mới thiêu thân mà nuốt trong khi khởi Hỏa, kiến nghiệm mới dừng.
Nội chí thanh cao mà hợp Thái Hư,
Hồn Thần không đi chơi mà tuyệt mộng mị,
Dương Tinh thành thể, Thần Phủ kiên cố,
Bốn mùa không sợ nóng lạnh, thần thái biến đổi dung nhan.
Thường nhân đối diện, tuy ngươi là người phú quý,
Mà cảm thấy tanh hôi, vì ngươi là phàm cốt tục thể.
Công hành mãn túc, mật thụ Tam Thanh Chân Triện
Âm Dương biến hóa, nhân sự tai phúc, Thần linh đều có thể dự đoán,
Mắt nhìn trần tục, Tâm tuyệt vạn cảnh,
Chân Khí sung mãn, miệng tuyệt ăn uống, Dị Khí thấu xuất,
Kim sắc Tiên cơ, có thể so với Ngọc Nhụy,
Nơi đi nơi đến, thần đất nơi đó tự tới tương kiến, sử dụng hay gọi tới, đều theo ý ta.
Chân Khí Thuần Dương, có thể khô được Ngoại Hống.
Kim Dịch Hoàn Đan ở trên, sau khi Hoàn Đan, thì ứng nghiệm Kim Dịch Luyện Hình.
Trên là Trung Thừa tam môn, là Địa Tiên.


1 Đán: mùng 1 âm lịch

2 Hối: 30 âm lịch

3 Có sách nói: Hạ nguyên là Nguyên Khí của hạ tiêu, đây chắc là chỉ Hạ Điền

Trở lại Mục Lục

Thư Viện 1      4   5