Ðạo đức đem tô điểm nét hoa,
Làm sao cho rỡ mặt đàn bà!
Kìa chuông tấn hóa vang rền khắp,
Nọ nước cảm tình vẫy tưới ra.
Tiếng gọi tinh thần nghe vẳng đó,
Ánh đèn giác ngộ vẫn còn xa,
Hỡi ai! đang sống trong đêm mộng, Gặp hội văn minh tỉnh dậy mà.
Lệ Nam
LỜI TỰA
Nhằm buổi Hạ-Ngươn ân xá, nên ÐẤNG CHÍ-TÔN sắc ân cho ba chơn linh mới thọ phong được giáng đàn ra ba đề dạy Ðạo cho nữ phái:
1.- Bà Châu-Thị-Bình là thân mẫu của ông Chánh Phối-Sư Thượng-Tri-Thanh. Trước kia bà tu theo Phật giáo, bà rất chí tâm, lại nữa nhờ ông Thượng Chánh Phối-Sư hết lòng sốt sắng với Ðạo Tam-Kỳ, nên bà đặng Ðấng Thượng-Ðế ân tứ cho bà chức LIÊN-HOA TIÊN-NƯƠNG giáng ra đề: NỮ-GIỚI ÐỐI VỚI GIA-ÐÌNH
2.- Cô Ðỗ-Thị-Hiền là cô bạn của ông Thái-Ðầu Sư Trương-Kế-An. Cô mới liễu đạo. Nhờ khi sanh tiền cô cũng hết lòng lo mở mang mối Ðạo Tam-Kỳ với ông, nên đặng Ân-Trên gia phong cho cô chức NGỌC-BÍCH TIÊN-NỮ giáng ra đề: NỮ-GIỚI ÐỐI VỚI XÃ-HỘI
3.- Cô Nguyễn-Từ-Ân tức Thị-Ðỏ là chị của ông Hộ-Ðàn Nguyễn-Ngọc-Ðệ. Khi sanh tiền, cô thọ giáo Minh-Ðường. Cô quyết tu giải thoát, nên cô đã thành hoàn toàn trách nhiệm đối với đạo-đức.
Ðức Thượng-Ðế sắc ân cho cô chức HẠNH-HOA TIÊN-NỮ giáng ra đề: NỮ-GIỚI ÐỐI VỚI ÐẠO-ÐỨC
và tiếp thêm đề: "GIẢI-THOÁT". Trong ba Ðề
a) Ðề Gia-Ðình: Ân-Trên dạy nữ phái cho biết phận làm con đối với cha mẹ, làm vợ đối với chồng, làm mẹ đối với con.
b) Ðề Xã-Hội: dạy nữ phái cho biết cách xã giao, cho đáng tay chiến sĩ.
c) Ðề Ðạo-Ðức: dạy nữ phái cho hoàn toàn tư cách đối với gia đình hay xã hội. Và đề giải thoát dạy phải biết lánh khổ, tìm nhàn, bỏ trược, gần thanh.
Gồm đại ý ba đề, theo văn chương cũng như muôn ngàn quyển Kinh khác, nhưng phần nghĩa lý có xác thực hơn.
Vì tấm lòng hoài cảm của bổn đạo Long-Quang Ðàn, Khánh-An, nên Ân-Trên chuyển đồng-tử về nơi ấy ra Kinh,
do đồng trợ Thập-Nhị Ngươn-Thần Tòa Thánh Hậu-Giang là:
- Hồ-Ngọc-Thoa tự Trung-Sơn và Trần-Văn-Ngò nương cơ.
- Pháp đàn là Trần-Thanh-Gương và Ngô-Thái Hòa.
- Hộ đàn: Huỳnh-Ngọc-Phú.
- Bảo đàn và điển ký: Lý-Trường-Xuân tự Quới.
- Trợ âm, đọc giả: Trần-Văn-Ðiệu, Nguyễn-Văn Thuận tự Tư.
Nhờ tấm lòng sốt sắng của ba vị:
- Thái-Ðầu-Sư, Thượng Chánh Phối-Sư, và ông Nguyễn-văn-Nhương, anh của ông Hộ-đàn Ðệ, cùng ban cai quản sở tại và bổn đạo nam nữ nơi ấy, mà đàn Kinh được châu đáo hoàn toàn và đã được Ân Trên cho lịnh ấn hành để làm kim chỉ nam cho phần đông chị em đời đạo. CAO-ÐÀI, THẦY các con, THẦY miễn lễ, các con an tọa nghe: Thi :
Ðêm thanh NGỌC bút chỉ phê ban,
Thánh sắc HOÀNG ân chiếu rỡ ràng,
Hạ phẩm THƯỢNGlưu con gắng bước,
Cho thành ÐẾ Ðạo cõi Nam-Bang. THẦY giáng đàn phê chuẩn cho ba chân linh thọ mạng và sắp phận sự.
Vậy các con tịnh tâm nghe: Bài:
Ðêm thanh gió lặng trời trong,
Chuyển luân thần bút ân hồng rải ban.
Thầy tiếp sớ thiêng-liêng xin nguyện,
Ban phát Huyền điển tuyến minh quang,
Chỉ cho con trẻ trần hoàn,
Biết nguồn luân lý đặng toan theo Thầy.
Thầy thấy trẻ công dày với Ðạo,
Chính là Tri áo não đêm ngày,
Giúp Thầy đâu nệ chông gai,
Trải bao sương tuyết khổ cay công trình.
Thầy chiếu luật Thiên-Ðình ban thưởng,
Song thân con đặng hưởng tiêu diêu,
Ðã an thân phận trưa chiều,
Còn chờ sắc lịnh giáng điều sanh linh. Thi :
Vì Thầy vì Ðạo nỗi vì dân,
Chỉ rõ cho con biết não nần,
Ðã Tự-Trị thì an cõi thọ,
Trang Thiền-Ngãi đẳng ở Am-vân.
Sôi Kinh luyện thuốc chờ cơ hội,
Dưỡng trí tồn tâm đợi giáng trần,
Con đã hết lòng lo đạo đức,
Thầy trên Bạch-Ngọc sắc Thiên ân. Tiếp bài:
Ðoàn Hậu-Giang thiếu Kinh nữ phái,
Ba chân linh đồng bái trước tòa,
Xin Thầy phê chiếu chỉ ra,
Ba chân linh giáng đặng mà tả Kinh.
Thầy y nguyện cho Kinh sắp tới,
Kinh "GIÁO ÐOÀN NỮ-GIỚI" ba đề,
Ba đề Thầy chiếu chỉ phê,
Kinh truyền dạy chúng chỉnh tề tu thân. Châu-Thị-Bình lãnh ân thiên sắc,
Lãnh một đề thứ nhứt cho Kinh,
Ðề: Nữ-Giới đối Gia-Ðình,
Cho tròn trách nhiệm cùng Kinh Giáo Ðoàn.
Ðề: Nữ-Giới đối cùng Xã-Hội, Ðỗ-Thị-Hiền sắc phái Thầy ân,
Ra công dìu dẫn khách trần,
Kêu ca Hồng-Lạc trổi chân trùng phùng.
Ðề: Nữ-Giới đối cùng Ðạo-Ðức, Nguyễn-Từ-Ân thánh sắc ngọc phê,
Ba đề phân đã chỉnh tề,
Chung đồng phận sự lo về đàn Kinh.
Các con trần hãy tin hãy tưởng,
Ngọc quí ban liệu lượng hành vi, Tri, An, Vệ hiểu thời kỳ,
Cùng nhau lo lắng trong khi có đàn.
Thầy dạy luôn pháp-đàn phận sự,
Việc viết Kinh gìn giữ cho tròn,
Cậy tay các trẻ lòng son,
Dạy trần cho biết chánh đàng mà đi. Ngô-Thái-Hòa tuân y sắc lịnh,
Phận pháp-đàn chính đính nghe con,
Giúp Thầy, giúp Ðạo cho tròn,
Quyển Kinh dạy thế tiếng còn ngàn năm. Trần-Thanh-Gương chung tâm hiệp ý,
Trợ pháp-đàn chung trí đổi thay,
Con ôi! mến Ðạo, thương Thầy,
Công trình khổ hạnh đêm ngày xiết bao! Huỳnh-Ngọc-Phú trước sau như một,
Giúp cùng nhau đi tột con đường,
Bước theo đàng thẳng Tây-Phương,
Quản bao thế sự tuyết sương lạnh lùng. Lý-Trường-Quới hiệp cùng huynh đệ,
Bản Tam-Kỳ rạng để tuổi tên,
Giúp Thầy, giúp Ðạo, con bền,
Sử nêu thiên cổ một nền vẽ vang. Hồ-Ngọc-Thoa đồng loan sắc tứ,
Bản Cao-Ðài rạng chữ lưu danh,
Tên con nêu sử đành rành,
Phận cho tròn phận đắc thành phẩm ngôi. Trần-Văn-Ngô, con ôi! thay đổi,
Trợ âm dương, đừng thối trí trai,
Rạng danh nam tử sĩ tài,
Tam-Kỳ nêu bảng công dày, nghe con!
Hiệp chung hòa vẫn còn tên tuổi,
Hòa cùng nhau chớ thối nơi lòng,
Mới là rạng mặt non sông,
Mới là đáng phận con Rồng cháu Tiên.
Thầy ban ơn các con, Thầy thăng... DIÊU-TRÌ KIM-MẪU
Mẹ mừng các con. Thi : TÂY đài ác xế ngã tây đài, VƯƠNG chánh cung hầu tiếng tốt thay, KIM cúc trổ màu tươi nhuận đẹp, MẪU thân ban phước kẻ trần ai.
Mẹ giáng đàn giờ nay sắp cách của các con hầu đàn Kinh, mỗi đàn cần phải có 3 con nữ giáo hữu chứng đàn hằng khi.
Vậy Mẹ đem chiếu sắc của Thầy ban ba bài thi nầy. Thi : Châu ngọc LIÊN tòa chiếu rỡ ràng, Thị danh HOA diệp nở xuân sang, Bình thânTIÊNcảnh vui thanh nhã,
Thi phú NƯƠNG cơ dạy thế gian. Thi : Ðỗ khoa NGỌC bảng đã nêu trường, Thị đạo BÍCH vân chiếm tứ phương, Hiền triết TIÊN Thần xưa cũng thế,
Thi văn NỮ giới cũng vài chương. Thi : Nguyễn đào HẠNH ngộ đảo bồng san, Từ thiện HOA xinh đẹp chữ vàng, Ân huệ TIÊN chân nhàn cõi thọ,
Thi bài NỮ sĩ cũng là trang.
Các con tiếp điển...
* * * Bài:
Ðêm thanh hé liềm trăng chênh chếch,
Bút thần loan thêu dệt văn chương,
Mở mang đàng xá tỏ tường,
Quần hồng tầm nẽo lánh đường truân nguy. Ðào-Hoa Thánh-Nữ thượng ỷ.
* * * Thi :
Hạ vừa qua đến tuyết thu sang,
Nương bút mừng Kinh quyển Giáo Ðoàn,
Nghĩa lý góp gom đầy một quyển,
Thi văn đem đến đủ đôi trang.
Năm bằng, ba trắc, thơ cao rộng,
Hai vận, một vần, vịnh vẻ vang,
Dìu dẫn dân sanh ra nẽo tối,
Cũng là hay dở một đôi hàng. Cửu-Thiên Huyền-Nữ thượng ỷ.
* * * Thi :
Ðoái lại non sông nặng khối tình,
Long-Quang đề bút Giáo Ðoàn Kinh,
Gấm vàng thêu dệt muôn hàng đẹp,
Bút ngọc ghi đề mấy nét xinh.
Quả phước do tròn trong mãi một,
Duyên phần xe sắp thấy đôi nghìn,
Ðể đời muôn thuở người noi dấu,
Một hội vui riêng văn hiến mình. Ðại-Nam Thánh-Mẫu thượng ỷ.
* * * Thi :
Lát đát sương rơi giọt vắn dài,
Ðàn Kinh nom bước dạo hôm mai,
Thơ Tiên xướng họa hơi lên xuống,
Rượu Thánh đầy vơi lúc tỉnh say.
Ít chữ ghi vào pho nghĩa lý,
Vài chương chép để tập văn bài,
Nhọc nhằn chi quản cơn khuya sớm,
Ngàn thuở vui chung non nước nầy. Hà-Tiên-Cô.
* * * Thi :
Ðộng mối thương Nam-Việt cõi nầy,
Xe Tiên vội giục vẹt đàn mây,
Góp gom nghĩa lý pho Kinh đủ,
Thêu dệt văn chương gấm vóc đầy.
Nào quản công linh cùng xã-tộc,
Bao nài cực nhọc với nhơn loài,
Quyết đem nẽo tối ra đường sáng,
Ðâu nệ xa xuôi dặm vắn dài. Lê-Sơn Thánh-Mẫu.
Chào đàn trung. Tiếp điển, Bần-Ðạo kiếu... LIÊN-HOA TIÊN-NƯƠNG Châu-Thị-Bình NỮ-GIỚI ÐỐI VỚI GIA-ÐÌNH
Thi :
Nương mây giục bước giá đàn tiền,
Ðề bút khuyên đời một ít thiên,
Nghĩa lý chỉ cho tường với tận,
Văn bài ghi sẵn chép cùng biên.
Văn chương vẽ mặt người tài đức,
Vịnh phú nêu tên kẻ phẩm hiền,
Ðem GIÁO ÐOÀN Kinh cho NỮ-GIỚI,
Tập rèn văn chất phải tinh chuyên. Bài:
Nương mây nhẹ gót xuống đàn,
Ðể lời phê chuẩn GIÁO ÐOÀN sắp nên.
Từ đây phong hóa vững nền,
Bởi pho Kinh đủ đôi bên rẽ ròi. GIÁO ÐOÀNNỮ-GIỚI nấu sôi,
Theo đây lần bước đến nơi vui nhàn.
Gia-đình, xã-hội hai đàng,
Ðều do đạo-đức làm đoan cội nguồn.
Trong ngoài đều đặng tròn vuông,
Lo chi chẳng đặng một luồng thuần phong.
Nữ nhi hãy rán kềm lòng,
Học đòi cho đặng vẹn trong tròn ngoài.
Lần lần từ dở đến hay,
Ðứng trong xã-hội không ai chê hèn.
Lề xưa khi bạc thuyền-quyên,
Ở vào chế độ nam-quyền khó ra.
Trách vì ai cũng tại ta,
Tại ta kém đức với ta thiếu tài.
Nếu mà ta đủ như ai,
Cái vòng chuyên chế ra ngoài ta chơi.
Mắt tai ta đủ với người,
Quần thoa tuy phận tánh Trời Ðất ban.
Từ đây ta phải châu toàn,
Noi Kinh Nữ-Giới Giáo Ðoàn học khôn.
Phận làm mẹ của đứa con,
Phải cho học tập đặng khôn với người.
Chớ noi cũ kỷ thói đời,
Tiếc tiền sợ tổn hư đời con thơ.
Ra thân dốt nát ngây khờ,
Ðứng cùng xã-hội khó nhờ khó trông.
Con đường diễm phúc hết mong,
Sống thôi như chết là xong một đời.
Sống mà thua thiệt mọi người,
Thêm buồn sự sống cho đời nữ nhi.
Ai ôi! dành của mà chi,
Ðể câu giáo dục duy trì văn chương.
Ngày sau trẻ đặng khôn ngoan,
Ơn kia trẻ nhớ, nghĩa mang kẻ đền.
Con hư cha mẹ chẳng khuyên,
Con hư cha mẹ không kềm dạy răn.
Ðến chừng kẻ biết ăn năn,
Ðiểm sương tóc đã, da nhăn trổ mồi.
Thôi rồi thì đã thôi rồi,
Một đời thì đã một đời còn chi!
Ai ôi! sanh kiếp nữ nhi,
Rán bương đến chốn rán đi tới bờ.
Biết rằng thân phận liễu thơ,
Trăm phần trăm khổ hằng lo tảo tần.
Gia đình một nổi cân phân,
Càng lo chữ hiếu lại cần chữ trinh.
Ðức tài gồm đủ phận mình,
Trong ngoài lo vẹn hiếu tình cả hai.
Rồi ra xã-hội chủng loài,
Ôm gồm chữ nghĩa, bảo hoài chữ nhân.
Tay nghĩa hiệp, mặt tinh thần,
Chỉnh tu cổ võ, miếu đường đẹp xinh.
Tròn xong cái bổn phận mình,
Cùng nhau đoàn kết liên tình chị em.
Ðến tuần ngũ thập tri thiên,
Toan bề giải thoát cho nhàn tấm thân.
Phủi cho sạch nợ phong trần,
Mượn thuyền Bát-Nhã chơn lần Tây-Phang.
Tẩy trần cậy nước nhành dương,
Còn lo chi cuộc thế thường nữa chi.
Sách rằng: sanh ký tử qui,
Ðến đề giải thoát một khi là cùng.
Nghĩa tình ta đã đền xong,
Hiếu trung vẹn phận Diêu-Cung về chầu.
Ðạo đời ta đã tròn câu,
Khỏi mang tiếng ở địa-cầu ích chi.
Danh lưu hậu thế sử ghi,
Ðã là châu đáo còn chi hư hèn.
Ai ôi! xem đấy lo toan,
Kiếp đời chớ để uổng oan kiếp đời. Thi :
Ai muốn gia đình cho hạnh phúc,
Hãy toan giáo dục đặng vuông tròn,
Xuân mà tươi tắn lòng trinh bạch,
Giá cũng vui cười tiếng nỉ non.
Nếu phận liễu bồ không vẹn vẻ,
Thì đời má phấn phải phai mòn,
Khá trau đức hạnh cho hoàn mỹ,
Rạng mặt thuyền quyên danh mãi còn. Bài:
Trời thanh mây bủa giăng giăng,
Giáng đàn đề bút dạy răn ít lời.
Dạy cho kẻ mưu đời hạnh phúc,
Dạy cho người giáo dục gia đình,
Ðể cho nữ giới tập tành,
Cho đoan trang gái, cho rành thân danh.
Công cha mẹ sanh thành dưỡng dục,
Ðã khó khăn bồi đắp nên hình,
Lở ra phận gái thơ sinh,
Nặng lòng đạo nghĩa, nhẹ tình nước non.
Lúc niên thiếu tính còn thơ bé,
Phải tuân lời cha mẹ dạy răn,
Công vẹn vẻ, hạnh hoàn toàn,
Vào nhà đạo-đức, ra đàng lễ nghi.
Nền yểu điệu nhu mì nết hạnh,
Vẻ đoan trang tập tánh ôn hòa,
Trọng mến mẹ, kính thờ cha,
Dưới thương em út, trên hòa chị anh.
Trong những việc cửi canh săn sóc,
Ngoài các điều tập học vuông tròn,
Không đánh phấn, chẳng tô son,
Càng se-sua lắm, càng nhờn nhợt xuân.
Xuân chớ để trầm luân bể cả,
Ngọc giồi trau giá đáng nghìn vàng,
Mặc ai ong bướm gió trăng,
Ðứng đi giữ nết, nói năng gìn lời.
Người tốt xấu tự Trời sắp đặt,
Chớ sửa sang rằng ắt nói mình,
Tấm thân trong sạch là xinh,
Lựa là son phấn mới xinh sao là?
Người xinh bởi nết na đằm thắm,
Phải nào xinh theo đám trú phường,
Sửa sang quốc sắc thiên hương,
Mỉa mai lắm giọng oan ương thêm đầy.
Ðừng học thói mưa mây trăng gió,
Chớ theo làng liễu ngỏ hoa tường,
Phải năng rèn tập văn chương,
Xa đời lang bạc tìm đường tinh hoa.
Sao cho đáng gái nhà nữ tắc,
Sao rằng nên đẹp mặt thuyền quyên,
Xinh vì nết đẹp tự nhiên,
Chớ chưng diện sắc, đừng nên vẽ vời.
Trau đức-dục học đòi giáo-dục,
Lo tinh thần rèn đúc văn chương,
Ðức tài là sắc là hương,
Là câu cẩm tú, là chương ngọc ngà.
Ở mềm mỏng là ngoan, là khéo,
Tiếng nói năng yểu điệu nhu hòa,
Ðừng kiêu cách, chớ gian tà,
Xấu xa tính bỏ, thật thà lời ưa.
Ðừng như gái thỏng thừa mất nết,
Chớ như ai buôn tiết bán trinh,
Khôn tập quán, thuở bé xinh,
Càng tươi tắn liễu, càng xinh hải-đường.
Ngọc chớ để chìm sông cát dập,
Gương chớ cho bụi lấp lu lờ,
Nhụy hoa chớ để hửng hờ,
Khéo ngăn lũ bướm, khéo ngừa đoàn ong.
Nương gia đình chìu lòng cha mẹ,
Lời nói năng nhỏ nhẹ thuận tùng,
Trên nhường dưới nhịn kỉnh cung,
Vào thưa ra bẩm phục tùng mẹ cha.
Chán thay thói giả ngoa hư hỏng,
Lời chanh chua rằng đúng, rằng tài,
Rằng khôn, rằng khéo, rằng hay,
Ðỏng đưa lắm giọng, mỉa mai nhiều điều.
Sanh ra việc trớ trêu đôi chối,
Lại còn thêm nói dối ăn gian,
Nay làng mai xóm dọc ngang,
Mất đi nết hạnh sổ sàng lắm ru.
Dầu khôn cũng giả ngu làm dại,
Mặc dầu ai phải trái nhịn nhường.
Nhược nhu là thắng cang cường,
Phải quấy có luật, thiệt hơn có hình.
Khôn chịu thiệt mà gìn điều phải,
Dại giành hơn mà quấy cửa công,
Ðừng chí đèo ảnh bưởi bòng,
Rát tai kẻ mắng, nặng lòng mẹ cha.
Nên trau nét đậm đà kiều mị,
Vẻ phù dung ý nhị thanh tân,
Trong lo lắng, ngoài tảo tần,
Cửa nhà nương ý thôn lân khen thầm.
Ðừng miệng tốt mà lòng dối giả,
Theo những phường mèo mã gà đồng,
Mặc tình cho lũ bướm ong,
Dày hoa ép nhụy thân không còn gì.
Kìa gương trước Hậu-Phi thuở nọ,
Liếc mắt trông coi đó nghĩ mình,
Rồi trau nết gái cho xinh,
Mỹ ngôn sắc ngọa hoa bình du dương.
Ðừng học thói nghe đường nói chợ,
Sanh oán thù lở dở hương thôn,
Kìa câu đa hóa đa ngôn,
Hãy nên kính cẩn chớ nên học đòi.
Nói thì nói rẽ ròi êm dịu,
Ðồng vọng quanh yểu nhiểu tinh tường,
Phải ăn phải nói đường đường,
Ðừng thêm bớt chuyện chớ lường dối ai.
Tính chơn thật bỏ ngay điều xấu,
Hằng nhớ câu "Thủ khẩu như bình",
Ðừng quen những thói thị thành,
Càng thêm xủ tiết ô danh má hồng.
Chừ đã mảng quí đông xuân đến,
Trau nết duyên kẻ mến người ưa,
Ở ăn cho phải cho vừa,
Cho tròn danh hạnh cho thừa nết na.
Chớ hoang phóng lân la làng xóm,
Tiết trắng trong để nhượm màu lơ,
Uổng thay! một kiếp đào thơ,
Mà tan tác phận chẳng chờ kiếp xuân.
Phải rèn tập cho thuần hạnh kiểm,
Sửa nghi dung tô điểm tinh thần,
Nương mai, mình hạc, vẻ xuân,
Ðáng trang thục nữ giai nhân khó bì.
Lời muốn nói phải suy phải nghĩ,
Tiếng phô trương nghĩa lý rẽ ròi,
Nói năng, đi, đứng, nằm, ngồi,
Chổ kia kỉnh lớn, nơi nầy nhượng trên.
Ăn thì phải cho nên độ lượng,
Ði thì xem phải tướng trang hoàng,
Ðừng như những thói dọc ngang,
Ðứng đi mất hạnh ngang tàng quen thân.
Ðứng thì phải nhắm xem sau trước,
Phải đoan trang mực thước lễ nghi,
Ðứng rồi lại tới hạnh đi,
Ði thì chơn bước, bước đi cho đầm.
Nói lựa tiếng, mà nằm lựa chỗ,
Nằm chọn nơi, nói độ lời ngoan,
Cái khôn là cái dịu dàng,
Nâng niu giá sạch bàng hoàng tiết trong.
Ngồi nhắm chỗ phải cung kỉnh lớn,
Cười lựa điều chớ giỡn đười-ươi,
Vô duyên chưa nói đã cười,
Chưa đi mà chạy ấy người vô duyên.
Cách đối đãi láng giềng em chị,
Lời khôn ngoan nhỏ nhẹ êm đềm,
Ðừng dâm đố, chớ tị hềm,
Xấu xa tính gái, khó kềm nết na.
Chớ tụ hợp đàn ba lũ bảy,
Ðể luận bàn việc quấy của người,
Kẻ kia ố, người nọ cười,
Thói hư tập quán càng ngày càng hư.
Có bàn luận phải tư phải cách,
Lựa điều ngoan thủ thiếp học đòi,
Luận chi điều xấu của người,
Nay sanh rầy-rạc, nay bày chối đôi.
Việc làm ăn luôn tay lo liệu,
Công cửi canh thêu tiểu vá may,
Từ trong cho đến ra ngoài,
Bề trong thứ lớp, bề ngoài nắp ngăn.
Có làm có của ăn thường sự,
Ngồi ăn không kho trử cũng tàn,
Bánh ngon bởi khéo để đường,
Người khôn bởi khéo lo lường làm ăn.
Xuân còn thắm như trăng còn sáng,
Xuân lần qua như áng mây rồi,
Duyên treo cao giá một đời,
Khách trần ướm chuộng bao hồi trọng xuân.
Vậy thì phải trăm phần hoàn mỹ,
Dầu cho ai liệt vị cũng kiêng,
Hạnh mình trau chuốc phải duyên,
Thân mình đoan sửa cho nên dáng người.
Chừ đến lúc hoa cười nhụy nở,
Thiếu chi làng ong vở bướm bay,
Duyên ta giữ khéo cầm tay,
Chờ người tri kỷ nối dây sắt cầm.
Nên duyên hạnh cùng thâm ý vị,
Khi có chồng trọn thỉ trọn chung,
Chồng nghĩa sĩ, vợ trung trinh,
Chồng là chúa vợ phải tùng nghĩa phu.
Phận gìn giữ trước sau nội trợ,
Ðạo tề gia nâng đỡ cho chồng,
Kìa chồng nặng gánh non sông,
Còn ta săn sóc những công việc nhà.
Dầu nghèo khó cũng là chịu cực,
Ðạo phu cơ tùng nhứt nhi chung,
Có chồng trọn tiết với chồng,
Dẫu cay đắng lắm cũng lòng không hai.
Chồng trông cậy một tay kim chỉ,
Giúp cho chồng danh vị cao thăng,
Chồng nên một đấng anh hào,
Thì ta cũng đặng dựa vào tiếng tăm.
Ðạo thờ chồng còn tông với tổ,
Kỉnh tộc thân đơm giỗ ông bà,
Thương chồng biết đến mẹ cha,
Ai sanh chồng đấy mà ta yêu người.
Trên vâng thửa những lời dạy bảo,
Thay thế chồng trọn đạo làm con,
Lời thưa thốt, tiếng ngọt ngon,
Giúp nên gia đạo vuông tròn ngoài trong.
Ðối cha mẹ hết lòng cung kỉnh,
Cùng tộc thân nghiêm chỉnh lễ nghi,
Ngoài ra cái tiếng thị phi,
Thì ta chớ nhuộm cùng ghi vào lòng.
Nếu sanh dạ bưởi bòng đôi chối,
Sao cho nên lại lỗi nết na,
Tiếng đời dị nghị gần xa,
Mất danh giá gái, hư nhà trâm anh.
Gái tiết liệt thờ danh trọng giá,
Càng đáng trang một đóa xuân tươi,
Chớ cho bướm giỡn ong cười,
Lỡ duyên kim cải tiếng người chê bai.
Dầu đặng chốn các đài nương dựa,
Mà nghèo hèn cũng nợ cũng duyên,
Hễ làm thân gái chính chuyên,
Nhứt phu vĩ đại thúy-uyên vui vầy.
Ðừng như kẻ rày đây mai đó,
Chớ như ai sớm Sở chiều Tần,
Trăm năm tơ tóc mấy lần,
Phím loan nhận sái tiếng đờn lạc cung.
Dầu nghèo khó chung cùng lo lắng,
Thân nhọc nhằn, giải nắng dầm mưa,
Cũng cam tấm phận cho vừa,
Hết hồi bỉ cực tới hồi thới lai.
Nếu gặp cảnh đắng cay đau đớn,
Ðồng cùng nhau liệu lượng giải nàn,
Chớ tham chả phụng, khô lân,
Ham trăng vội phụ ánh đèn sao nên.
Ðừng như vợ Mải-Thần thuở nọ,
Thấy chồng nguy lại phụ nghĩa nhân,
Hết cơn bỉ tới tuần hườn,
Quan hầu rỡ mặt phong trần nức tai.
Ðến chừng ấy muốn quày trở lại,
Muốn ăn năn sự sái khó khuây,
Muốn cho Tần, Tấn hiệp vầy,
Ðổ tô nước, hốt lại đầy, mới mong.
Tình chồng vợ hương nồng lửa đượm,
Trách vì đâu ong bướm rủ ren,
Thấy sang nỡ dạ chê hèn,
Trả vay đáng thói thuyền quyên bạc tình.
Thân phận gái chữ trinh là trọng,
Nghĩa Châu, Trần chung sống an vui,
Trăm năm may rủi một đời,
Giải đồng kết chặt, không dời chẳng chia.
Vợ Châu-Công trước kia trinh tiết,
Thay thế chồng lo việc tề gia,
Chồng thời nặng gánh sơn-hà,
Vợ nhà cơm cháo đỡ qua tháng ngày.
Ðể cho chồng thang mây nhẹ bước,
Phận sự nhà gìn trước giữ sau,
Phòng the rèm xủ giường đào,
Ðáng người liệt phụ, ai đâu dám bì.
Ðạo chồng vợ, phụ tùy phu xướng,
Duyên bố kình, đỡ nắng che mưa,
Khi đau lúc yếu cậy nhờ,
Vui chia, buồn sớt, trong ngoài có nhau.
Lời non nước, nặng câu hải thệ,
Tiếng đá vàng, đâu để phai mòn,
Trăm năm giữ tấm lòng son,
Sắn, bìm nương bóng quân tòng che thân.
Nghĩa mai trước trăm phần tươi đẹp,
Con sông Ô gát nhịp bắt cầu,
Sang thì đồng hưởng công hầu,
Hèn thì đồng chịu giải dầu tuyết sương.
Ðừng như kẻ rày thương mai đổi,
Sang hưởng vui nghèo lại phụ phàng,
Giàu thì lên mặt vinh vang,
Nghèo thì chì bấc, ra tuồng nhạt phai.
Rồi đem dạ kiếm lời kỵ đố,
Lánh sồng nâu tìm chỗ nghê thường,
Còn tiền, chồng vợ còn thương,
Hết tiền, kẻ Sở, người Tần chia phang.
Sách hằng dạy: "Tào khang đạo cả",
Dầu nghèo hèn chẳng khá phụ vong,
Trung trinh hai chữ ghi lòng,
Dầu ai nghìn tứ muôn chung chẳng màng.
Duyên cầm sắc phụng loan đơn quế,
Niềm gối chăn cang lệ vui vầy,
Cửa nhà tạo dựng hôm nay,
Hiếu kia vẹn vẻ tình nầy tinh vi.
Tấm phận gái vu qui thân đấy,
Ðã có chồng nhờ cậy bên chồng,
Thay chồng phụng dưỡng tộc tông,
Thương cha, mến mẹ, thờ ông, kỉnh bà.
Cha mẹ chồng cũng là cha mẹ,
Xem bên chồng dường thể bên ta,
Nuôi con trông cậy lúc già,
Lứa đôi nên phận việc nhà chăm nom.
Thì ta phải sớm hôm trọng kỉnh,
Giúp cho chồng thần tỉnh mộ khang,
Khi đắp lạnh, lúc quạt nồng,
Thuốc thang cơn yếu, đỡ công lúc lành.
Chán những kẻ miệng lanh lưỡi bén,
Áo quá đầu thêm thẹn những ai,
Trả lời ngang ngạnh đắng cay,
Mẹ cha một tiếng, dâu hai ba lời.
Rồi những kẻ chê cười báng nhạo,
Sái cang thường lỗi đạo dâu con,
Ðể chồng căm tức thon von,
Mẹ cha rày cũng não nồng tấc gan.
Người khôn biết châu toàn trách nhiệm,
Tánh chìu lòn nhẫn nhịn là hơn,
Mẹ cha rầy chẳng dám hờn,
Tươi cười sắc mặt lo tròn phận ta.
Ðạo dâu con trong nhà mọi việc,
Phải xét xem cho biết trước sau,
Nào bước ra, nào lối vào,
Việc nào cai quản, việc nào sửa sang.
Khi chồng bước ra đàng vắng dạng,
Nỗi nhà lo bao quản khó khăn,
Của chồng công vợ lập nên,
Rủi khi thất phát ai đem bồi thường.
Cơn gặp khách tha hương kiếm bạn,
Vắng chồng ta chuyện vãn nghiêm trang,
Chớ e ấp, chớ kiêu căng,
Tự nhiên vẫn tánh nói năng như thường.
Lúc chồng còn viễn phương xa cách,
Kẻ làng chơi là khách tìm xuân,
Ðến toan nài nỉ nhiều lần,
Lắm khi tiếng uyển giọng đờn rủ ren.
Có duyên sắc kẻ quen hỏi giá,
Trả lời rằng xuân đã đông quân,
Trăm năm xuân có một lần,
Ngoan lời khỏi thẹn hồng quần khỏi nhơ.
Tình âu yếm phụng thờ chồng nghĩa,
Khỏi tiếng đời mai mỉa xéo xiên,
Nghìn thu vẹn tiếng gái hiền,
Ðáng nhà thế phiệt trọng niềm hiếu trinh.
Ðã hoàn mỹ trăm phần nội trợ,
Tròn phận thân gương vợ đối chồng,
Trung trinh tình hiếu đã xong,
Phận thì đẹp phận, duyên cùng thắm duyên.
Khi hoa đã gần miền đua nở,
Thọ thai con gìn giữ ân cần,
Cốt phu huyết phụ gầy thân,
Hãy tua cẩn thận kẻo lần xấu hư.
Tuân thai giáo bấy chừ vẹn giữ,
Lòng bạch thanh ý tứ ôn hòa,
Không nên giận dữ phiền hà,
Sanh con ắt phải tính ta học đòi.
Ðừng tư tưởng những lời hung bạo,
Mà sanh con mất đạo hiếu hiền,
Dưỡng thai phải nhẫn phải kiên,
Sanh con ắt được tánh hiền dễ răn.
Ðừng tư tưởng dị đoan mê tín,
Mà sanh con bất chánh về sau,
Ðừng nghe những chuyện xôn xao,
Sanh con rối trí khó âu việc gì.
Ðừng nghe tiếng thị phi huyễn hoặc,
Mà sanh con thì ắt khó răn,
Phải nên ăn ở trang bằng,
Sanh con chắc được hoàn toàn nết na.
Ðừng tư tưởng tà ma quỉ quái,
Mà sanh con lòng vẫn phập phồng,
Dưỡng thai phải ở cho công,
Sanh con chánh trực gan lòng tốt xinh.
Dưỡng thai phải sử kinh xem đọc,
Thì sanh con đặng óc thông minh,
Con hư tại ở nơi mình,
Bởi không kiên nhẫn tánh tình giống ta.
Khi sanh trẻ nên ba còn bé,
Khéo nâng niu phận mẹ nuôi con,
Lời thô chừa tránh vuông tròn,
Dạy từ tiếng ngọt, lời ngon quen lòng.
Nên năm, bảy, vừa khôn vừa biết,
Cho đến trường lo việc sách đèn,
Khôn nhờ có sự tập quen,
Dại là bởi chẳng đua chen học đòi.
Trai phải dạy ở đời ngay thảo,
Gánh cung dâu là đạo làm người,
Non sông rỡ mặt với đời,
Hiếu cho đáng thảo, trung thời trọn ngay.
Con phải biết làm trai phận sự,
Vạch tim con để chữ "Tận trung",
Dầu cho lực cạn thế cùng,
Cũng hy sanh mạng để dùng cứu nguy.
Gặp phải lúc nhà suy nước loạn,
Phận làm trai tạo sáng cơ đồ,
Nam nhi tứ hải ngũ hồ,
Nước nhà nguy loạn trông nhờ nơi con.
Học tài giỏi không lòng ái chủng,
Dầu con nên mẹ cũng cho hư,
Nhục nhà còn phải rửa trừ,
Nhục cho quốc thể an cư đặng nào.
Tài chi kiếp tù lao nô lệ,
Án văn chương dành để mốc meo,
Không cao con cũng rán trèo,
Lần tùy khúc vạy, đường eo ở đời.
Gái thì dạy trau dồi tứ đức,
Gương mẹ kia con học cho tinh,
Khôn nên trau sửa phận mình,
Noi khuôn thức mẹ đồ in học đòi.
Khi trẻ đã nên người khôn lớn,
Như hải đường mơn mỡn đơm hoa,
Dạy con hoàn mỹ trong nhà,
Ðến khi xuất giá phải là cho khôn.
Ðừng kén chỗ lầu hồng các tía,
Miễn phải duyên, phải nghĩa, phải nhân,
Ðừng ham phú, chớ phụ bần,
Ðồng tâm hiệp ý gởi thân sắn bìm.
Con phải biết suy kim, nghiệm cổ,
Mạng giàu nghèo tự số thiên công,
Thử xem nhiều kẻ có chồng,
Trước giàu sau khó nặng lòng bằng hai.
Cũng lắm kẻ trước khi chồng khó,
Rồi lần sau từ đó trở lên,
Bởi chưng ý chí người bền,
Phước phần không có, hư nên mấy hồi.
Kén là kén lòng người quân tử,
Chớ đừng ham cho sự nghiệp đầy,
Bần thanh phú trược mà chi,
Giàu vô hạnh phúc, đâu bằng nghèo vui.
Kén là kén những nơi đạo đức,
Giáo dục nhà hạnh phúc toàn xong,
Vui là thuận vợ, thuận chồng,
Buồn là bởi kẻ chẳng đồng ý nhau.
Hằng lắm người chồng giàu hơn vợ,
Bao giờ chồng yêu vợ nhiều hơn,
Bởi có tiền, hiếm phấn son,
Sắc con tuy đẹp nhưng còn kẻ hơn.
Trọng là nghĩa keo sơn quí đáng,
Ðồng ý nhau kết bạn giao cầu,
Phải là đời kiếp tròn câu,
Nên dây cầm sắt tương đầu phu thê.
Dạy con đừng sụt-sè e-lệ,
Tuy liễu bồ sánh thể nam nhân,
Gia đình trọn vẹn trăm phần,
Rồi ra xã-hội con cần xã giao.
Ấy phận mẹ những điều dạy trẻ,
Cho rành khuôn học lễ học văn,
Sáng gương thể bóng ả hằng,
Tài chương phiệt duyệt sánh bằng nam nhân.
Thời tiết đổi phong trần ấm lạnh,
Rủi giữa đường gãy gánh thinh không,
Nệm nghiêng gối chiếc cô phòng,
Thuyền lan sóng nhận giữa dòng sông Ngân.
Tùy hoàn cảnh nuôi thân qua bữa,
Chắt chiu con lần lựa tháng ngày,
Như con đã lớn nên người,
Nương con thủ tiết trọn đời sạch trong.
Không vì mến hơi đồng tiếng bạc,
Ðầu còn tang man mác lửa tình,
Quên lòng đinh sắt trung trinh,
Nghĩa xưa càng lợt đem tình giả mang.
Dầu như con còn đang thơ bé,
Hết sức lo nuôi trẻ không rồi,
Lo nay còn thiếu ngày mơi,
E cho con trẻ bước đời truân nguy.
Nào lo ăn còn khi lo mặc,
Có đâu lo sắp đặt học hành,
Ðể hư cho trẻ không đành,
Nhưng tiền khủng hoảng phải thành khoanh tay.
Thương chồng muốn dòng người tốt đẹp,
Muốn sao con học thuật với người,
Về sau khỏi chúng chê cười,
Thang danh sẽ bước với người vinh quang.
Nhưng liễu yếu thân nàng góa bụa,
Riêng một mình như đủa chiếc đôi,
Ðộc thân khó liệu cho rồi,
Nhưng lòng cũng quyết trau dồi sử kinh.
Dầu gặp phải thế tình lãnh đạm,
Nhờ thể đoàn bảo đảm lấy ta,
Chớ đem những thói gian tà,
Mới nên trinh liệt mới là gái ngoan.
* * *
Trung trinh phận gái vẹn toàn,
Ðàng ngay nẽo gắt đâu màng sợ chi.
Nên gương nữ kiệt một thì,
Ðáng trang phiệt duyệt nữ nhi ai tày.
Sống đời biết một không hai,
Ðường ngay thẳng bước chi nài khổ lao.
Giồi trau đẹp đẽ chí hào,
Dầu cho sóng bủa ba đào há lơi.
Trung trinh tốt đẹp ai ơi!!!
Ban ơn chư hiền. Ta xin kiếu... NGỌC-BÍCH TIÊN-NỮ Ðỗ-Thị-Hiền.
Chào đàn trung. NỮ-GIỚI ÐỐI VỚI XÃ-HỘI Thi :
Mỏng manh nhưng cũng rán lần đi,
Bươn bước cùng ai một hội kỳ,
Kỹ-nghệ khéo tay luôn học thuật,
Ðức tài trổ mặt khá bôn phi.
Non sông gánh vác thân chi nệ,
Ðồng chủng dìu nương phận quản gì,
Xã-hội trông nhờ tay liệt nữ,
Quần thoa theo bén gót nam nhi. Bài:
Kiền khôn tinh nguyệt chói lòa,
Soi đường khổ sở dắt ra an bường.
Giọt tuyết điểm làn sương rải rác,
Hạ bút thần lưu loát văn chương,
Dạy khuyên nữ giới hùng cường,
Liễu bồ nên cũng sánh dường nam nhi.
Hoa đương thắm cực kỳ huê lệ,
Vẻ yêu kiều nề nếp dung hòa,
Cũng Miêu-Vệ cũng nước nhà,
Cũng dòng Hồng-Lạc cũng là trâm anh.
Cũng tài nữ ngăn thành trấn ải,
Cũng nết na nhưng phải tự cường,
Kìa như gái nhị Trưng-Vương,
Cũng là liễu yếu đâu nhường chàng Tô.
Cũng cung kiếm đuổi xô binh mã,
Kiếp hồng nhan đâu xóa bỏ đành,
Vì xã-hội dám hy sinh,
Càng đem giá trị của mình nâng cao.
Nay gặp phải phong trào tân tiến,
Gió thoạt đưa văn hiến phai lần,
Dấu xưa tích cũ tiêu tan,
Xem càng thêm chán, ngó càng thêm đau.
Nào lầu các đủ màu chen lấn,
Nào môi son má phấn vẽ vời,
Lịch xinh sắc nước hương trời,
Ðể cho sa đắm vào nơi vực đầm.
Nếu chẳng biết suy tầm đạo nghĩa,
Phải tiêu tan hồn vía quốc dân,
Kiếp xuân đâu có mấy lần,
Tuổi xuân sớm vội bán xuân khóc tàn.
Kìa những hạng buôn hương bán phấn,
Chốn phồn hoa chen lấn sắc tài,
Tiếng đồng khua vẳng bên tai,
Tiết trinh không giữ, lại bày gió trăng.
Chớ rằng: tại kiếp căn số phận,
Nào đâu là mệnh vận phù sinh,
Tại mình muốn buộc lấy mình,
Hỏng hư tấm phận gập ghình thân sanh.
Khách Tống-Ngọc Trường-Khanh nô nức,
Mặc dầu ai giành giựt đóa hoa,
Một thân muốn dựa muôn nhà,
Cánh bèo tan tác, cánh hoa rã bèn.
Trông xã-hội hư hèn thêm tủi,
Ngòi quang minh khuyên cổi lốt nhơ,
Tuyết trong giá lạnh như tờ,
Chận gài then ngọc, ngăn ngừa bướm ong.
Ðường đạo đức dày công trau luyện,
Vẻ nghi phong rỡ tiếng quần hồng,
Cũng phần tử với non sông,
Nhúng tay xã-hội kềm lòng trung trinh.
Gái tiết hạnh trau mình nên giá,
Gương sáng soi, nêu cả đồng bào,
Nghĩa nhân giữ trước gìn sau,
Ðem tài thục nữ đượm màu non sông.
Chuyên học tập những công nghệ nghiệp,
Ðem tài mình giao tiếp cùng nhau,
Ra tay lập chí nữ hào,
Nước non Âu-Lạc phong trào đỡ nâng.
Việc phải, phải đem thân gánh vác,
Ðừng sụt sè e-ấp yếu hèn,
Bởi xưa rẻ rúng thuyền quyên,
Nam quyền áp bách bị chuyên chế hoài.
Nay phong trào đổi xoay qui cũ,
Ðem đức tài liệt nữ treo gương,
Ðỡ nâng xã-hội cột rường,
Phá tan thành kiến dẫn đường văn minh.
Phải trau chuốt lấy mình trong sạch,
Còn lo chi áp bách nam quyền,
Phần nhiều nữ giới ngu hèn,
Bởi chưng thiếu học khó nên đặng mà.
Còn đặng chút vinh hoa phú quí,
Tánh kiêu căng lại bỉ chị em,
Học khôn mình biết lấy mình,
Ủy chê kẻ khó, quên tình đồng hương.
Một xã-hội chia đường phân ngõ,
Vinh thời hơn mà khó thời thua,
Xót thay trong đám liễu bồ,
Chẳng thương đồng chủng lại ưa trọng mình.
Khó phải chịu thưa trình lòn cúi,
Giàu không thương còn lại cười gay,
Quần thoa ai cũng như ai,
Thôi thời người ấy, kẻ vầy thời thôi.
Hỡi chủng tộc giống nòi Hồng-Lạc,
Vinh cùng nhau lưu lạc có nhau,
Dắt nhau kẻ trước người sau,
Thấp nhau đồng thấp, cao nhau cao đồng.
Nòi giống cũ bị giòng trụy lạc,
Ta văn minh phải thoát lưới lồng,
Sang đỡ hèn, biết chỉ không,
Kẻ hay giúp dỡ, người khôn dạy khờ.
Ðoàn nữ-giới thuở giờ mai một,
Chê má hồng tha thướt không màng,
Chẳng cho chung gánh giang-san,
Dần dần tệ tục tràn lan ra ngoài.
Thấy cũ kỷ chán thay thế sự,
Chịu nhỏ nhen nhi nữ sụt sè,
Lần lần tập quán vụng về,
Thông minh thì ít, u mê lại nhiều.
Nhìn nhân vật trớ trêu mà chán,
Lấy tinh thần khuyên bạn tỉnh tâm,
Tỉnh tâm lánh nẽo lạc lầm,
Chuyên cần nghệ nghiệp học tầm điều hay.
Học cho biết tương lai mọi sự,
Học cho thông lịch sử Thánh-Hiền,
Học trau nết gái phải duyên,
Học thông Tứ-đức, học thuyên Tam-tùng.
Học cho biết nội dung gia-đạo,
Học cho hay chỉ bảo chị em,
Học khôn bỏ tánh đê hèn,
Học rành nghĩa lý, tập quen nghĩa đời.
Học cho biết với người lịch duyệt,
Học lời văn giao thiệp đại-đồng,
Học rành văn chất lảu thông,
Thành tài liệt nữ, đáng công gái nhà.
Học cho rạng tài hoa văn sĩ,
Học tinh tường nghĩa lý rành phân,
Học là minh đức tân dân,
Tinh vi nét gấm, rạng ngần tuyết pha.
Không học tập ắt là ngu nhược,
Ðứng cõi đời kém trước thua sau,
Thử xem nhân loại nước nào,
Nếu không học tập tài cao bao giờ.
Tuy rằng gái đào thơ là phận,
Tài anh-thư sánh đấng anh-hào,
Tập rèn từ thấp đến cao,
Ðứng cùng em chị khỏi câu chê cười.
Học cho biết vận thời xã-hội,
Học cho hay giúp lợi giống dòng,
Tập thành nữ hạnh, nữ công,
Nữ dung cũng vẹn, nữ ngôn cũng toàn.
Học tài đức, đoan trang tiết liệt,
Tuy mỏng mành, nhiệt huyết như ai,
Trải phen cực nhọc há nài,
Giúp đoàn em chị rạng ngời tuổi tên.
Thoát vòng khổ, lập nên tự vệ,
Ðồng cùng nhau ra bể trầm luân,
Khổ đời ta hãy vẫy vùng,
Tránh vòng cương tỏa, thoát vòng nguy truân.
Dầu chuyên chế lẫy lừng mấy độ,
Ðem thuyết minh đánh đổ lối mờ,
Trổ tài thục-nữ anh-thư,
Rèn gan sắt đá, bao giờ cũng nên.
Muốn tự vệ phải bền tâm chí,
Dục tề gia, tiên trị kỳ thân,
Giác thân rồi mới thoát thân,
Nếu thân không vẹn, mà mong nổi gì?
Trường kỹ-nghệ bươn đi học tập,
Rồi thanh thân đứng lập cõi đời,
Ta đừng ỷ lại tánh Trời,
Rằng không học ấy cũng thời thông minh.
Khi tuổi trẻ đầu xanh lười biếng,
Ðến tác già chừng muộn biết lo,
Rừng văn bể thánh không dò,
Nhỏ mà biếng học, lớn mò khó ra.
Tài học vấn của ta nếu thấp,
Thì khó mong tự lập với người,
Khuyên nên cần học ai ôi!
Cứu nguy xã-hội nhằm hồi biến thiên.
Kìa các nước thuộc miền Âu Mỹ,
Óc khôn ngoan học lấy văn minh,
Xem người mình ngó lại mình,
Dân mình kém học, nước mình càng suy.
Ðoàn nữ giới kể gì tiến bộ,
Cái phong trào cổ hủ cho rằng,
Nếu con gái học khôn ngoan,
Sợ trai đem thói điếm đàng trao thơ.
Bởi vậy mới ngu khờ bạc nhược,
Bởi thế nên không được mở mang,
Khuyên nên cần học hoàn toàn,
Bỏ điều hủ lậu vén màn vô minh.
Lấy kinh sử vẽ xinh mặt gái,
Dụng duy luân nối giỏi hậu lai,
Ðứng trong xã-hội biệt tài,
Trăm nghề mình cũng học hay một nghề.
Ðừng nói phận hèn quê bỏ phế,
Mỗi việc chi cũng để cho chồng,
Cũng tai mắt cũng gan lòng,
Liễu bồ tuy phận cũng dòng Rồng Tiên.
Hãy ra tay trừ phiền dẹp não,
Ðem tài hay chỉ bảo cùng nhau,
Ðứng ra lãnh tụ hô hào,
Thể đoàn Nữ-Việt kêu gào chỉ huy.
Cùng việc phải sá gì kiếp sống,
Lấy tinh thần giải phóng tự do,
Văn minh un đúc một lò,
Ðức tài gồm đủ, núi đo biển lường.
Ôi! nhân loại trong trường xã-hội,
Ðường thế đồ lặn lội hụp bơi,
Uổng thay! cho kiếp con người,
Sanh ra mà chẳng giúp đời ích chi!
Sanh rồi thác, thác đi rồi mất,
Thác rồi sanh, sanh chật địa-cầu,
Ít ai giúp ích ai đâu,
Hễ nghèo dua nịnh, mà giàu kiêu căng.
Con ỷ cha làm quan lên mặt,
Vợ ỷ chồng là bực Huyện, Làng,
Kể chi dân chúng đồng bang,
Miễn thâu túi lợi đặng mang cho đầy.
Lòng chẳng chút mảy may đau xót,
Thật rõ ràng sâu mọt nước dân,
Có ai trọng mối duy luân,
Kết tình liên lạc, đỡ nâng giống dòng.
Riêng ích kỷ, tranh công cướp việc,
Lường dối người chẳng biết yêu đương,
Ðối người chẳng chút lòng thương,
Rán sành ra mở, đau thương kẻ nghèo.
Trong xã-hội lắm nhiều sâu mọt,
Có mấy ai ích nước lợi dân,
Mua vui trên cõi phong trần,
Miễn mình cho ấm áo quần bảnh bao.
Nhà tư bản lập mưu bóc lột,
Quyết tóm thâu tận tột lương tâm,
Dựa hơi chồng đặng phẩm quờn,
Ðang tay chỉ kẻ lòng nhơn là gì.
Còn chi nữa mà chi em chị,
Thấy thói đời thêm nghĩ thêm đau,
Kìa chủng tộc, nọ đồng bào,
Lầm than khổ não biết bao nhiêu người!
Có ai biết ưu thời mẫn thế,
Có ai đâu tìm kế cứu đời,
Luân vơi mặc kẻ luân vơi,
Riêng lòng ích kỷ cho đời ấm no.
Còn những hạng diễn trò sân khấu,
Mắt long lanh tỏ dấu yêu tình,
Cười nghiêng nước, ngó nghiêng thành,
Cho người say đắm, quên mình hiếu trung.
Con lìa cha, hữu bằng phân rẽ,
Anh xa em, chia xẻ máu đào,
Tiếng ra cùng với lời vào,
Cho chồng yêu dấu, còn đâu kể gì.
Vua hôn quân cũng vì sắc nước,
Quan bất trung bởi chước hương trời,
Con bất hiếu tại sắc tươi,
Nào lời xúi giục, nào lời bớt thêm.
Không phải sống mà chìm nhũng khách,
Ðưa đẩy người vào vách mê tân,
Ðắm say trong đám hí trường,
Quên rằng kiếp sống trong đường quốc dân.
Học tài giỏi để làm ích kỷ,
Một lời mười mới phỉ cho công,
Biết đâu ra đến đại đồng,
Chỉ lo ấm cật cho lòng đấy thôi.
Một xã-hội thiếu người tổ chức,
Không có khuôn có thước cho đời,
Trông càng trụy nhược luân vơi,
Thành ra xã-hội đổi dời biến vây.
Trường kỹ-nghệ không ai lo dựng,
Chẳng có người chung đứng hô hào,
Hai mươi mấy triệu đồng bào,
Nhưng trường học thuật có bao nhiêu trường.
Kẻ đã đứng lập trường công nghệ,
Thì dấu nghề đâu để thật tình,
E khi người học bằng mình,
Rồi người không phục tài mình đi chăng.
Ðể gạt người đặng toan thâu lợi,
Nào kể chi nhơn loại là gì,
Lần lần chủng tộc đồi suy,
Ngán thay cái thói vô nghì quần sinh.
Vậy ta phải biết tình đồng chủng,
Yêu mến nhau lo dựng học đường,
Nào tài kỹ-nghệ văn chương,
Nào nghề thêu dệt, nào trường nữ công.
Hỡi bạn gái đứng trong xã-hội,
Chị em cần dẫn lối văn minh,
Kêu nhau đồng thể đồng tình,
Nghề hay của nước dân mình học hay.
Chung hiệp bước kịp kỳ tiến bộ,
Nghiệp tinh hoa hãy cố học đòi,
Có nghề hay, chớ dấu người,
Chỉ nhau học thuật cho đời mở mang.
Nào nghề dệt thêu Trung Nam Bắc,
Nào nghề may, nghề cắt cho rành,
Nghề nào làm lợi nước mình,
Như nghề bánh mứt tinh anh dạy bày.
Giúp em chị điều hay lẽ tốt,
Dìu dẫn nhau bước tột văn minh,
Mỗi điều hay ở nước mình,
Chúng ta hiệp biểu đồng tình dạy nhau.
Ðứng vững với: Ðức, Âu, Phi, Mỹ,
Rỡ mặt mày em chị Việt-bang,
Óc khôn sáng kiến huy hoàng,
Rồi lần học thuật ngoại bang nghề rành.
Ta phải kết liên tình đồng nghiệp,
Khỏi phải ai ép hiếp nén đè,
Ta can đảm chớ sụt-sè,
Ðường đường nữ liệt, e-dè nữa chi.
Tuy mang lốt nữ nhi hèn yếu,
Nhưng tinh thần kém thiếu gì ai,
Ðủ gan mật, cũng mặt tai,
Ðức tài ta cũng sánh tày nam nhân.
Ðứng vững dậy tinh thần sáng suốt,
Mà nghĩ suy thời cuộc thế nào,
Rồi ta phải liệu làm sao,
Dẫn dìu bạn tác hô hào kêu ca.
Rèn ý chí đứng ra tổ chức,
Gia cương tâm nghị lực vững bền,
Trước sau thì ắt cũng nên,
Lý tài kinh tế dựng nền tảng ra.
Kiếp sống còn chúng ta hoạt động,
Khỏi uổng oan đời sống luân vơi,
Sống mà bạc nhược hơn người,
Thà cam phủi bỏ kiếp đời còn hơn.
Sống cần phải duy tân học thuật,
Giúp ích đời tiến cấp văn minh,
Tri tân, ôn cố giữ gìn,
Khuếch trương công nghệ, cải canh tinh thần.
Chỉ những đường tân dân minh đức,
Rèn óc khôn học thức thêm ra,
Cho phong phú chị em ta,
Tiến lên cực điểm sánh ra nước ngoài.
Bỏ lối cũ điều gì không đáng,
Dắt người ra sáng lạn vinh quang,
Phổ thông học thuật bủa tràng,
Tuyên truyền học thuật rộng lan khắp cùng.
Ðiều kiện hay chung cùng lo nghĩ,
Bỏ bớt điều cũ kỷ dị đoan,
Phá mê giác ngộ dân đoàn,
Cùng nhau hát khúc khải-hoàn đẹp xinh.
Phe nam-giới tiến lên quá độ,
Ðoàn nữ-lưu ngồi ngó người sao?
Nhảy ra cho khỏi vực rào,
Tự do, bình đẳng cùng nhau vững vàng.
Tình hình thế mơ màng ảo ảnh,
Thì ta nên ra gánh vác đời,
Tiến lên ớ các em ơi!
Hộc-hồng quạt cánh tung trời vênh-vang.
Ðòi lại hết lợi quyền thiết thực,
Ðặng tự do chính thức sống đời,
Sống không hổ với mọi người,
Sống đời ta phải giúp đời mở mang.
Thì mới khỏi uổng oan đời sống,
Xã-hội cần hoạt động thêm lên,
Dân phải tập chí cho bền,
Luyện trau gan sắt, đúc rèn lòng đinh.
Cơn hoạn lộ gập ghình gay trở,
Thiếu thể đoàn khó trở khó xoay, Việt-Nam sẵn mối Cao-Ðài,
Ðồng tình liên ái, cột gài tương thân.
Ðứng trên cõi phong trần lẻ bạn,
Thì khác chi đoàn nhạn lạc bầy,
Gặp cơn phải cảnh truân nguy,
Lấy ai nâng đở trong khi khốn nàn.
Vậy ta phải hoàn toàn liên kết,
Chị em đồng sống chết có nhau,
Chung tình kết nghĩa chi giao,
Ðứng trong xã-hội địa cầu vững an.
Nếu gặp cảnh nguy nan buồn bã,
Cũng hết tâm chị ngã em nâng,
Mới mong chóng mạnh tinh thần,
Quần xoa nữ liệt bước chân vinh hoàn.
* * *
Khá kêu nhau kết nghiệp đoàn,
Cao-Ðài Quốc-Ðạo bảo toàn vạn linh.
Thuần phong mỹ tục hòa bình,
Bước đời khỏi phải riêng mình lẻ loi.
Phá tan giai cấp nhân loài,
Diệt trừ bản ngã ra ngoài vô minh.
Kết dây liên ái chí tình.
Chào đàn trung, thăng... Thi :
Ai muốn tròn xong cuộc sống đời,
Nên gìn Ðạo-Ðức chớ buông trôi,
Trên hòa dưới thuận tình em chị,
Ngoài ấm trong êm nghĩa đất trời.
Ðức kém khó mong đời hạnh phúc,
Ðức tròn dễ bước buổi yên vui,
Khuyên đời hãy rán bồi âm đức,
Hễ có cho vay ắt có lời. HẠNH-HOA TIÊN-NỮ chào đàn trung. NỮ-GIỚI ÐỐI VỚI ÐẠO-ÐỨC Bài:
Thừa một lúc đêm thu thanh vắng,
Tay tả thơ đặng nhắn khách trần,
Ban bài minh đức tân dân,
Tỉnh đời trụy lạc phong trần ngửa nghiêng.
Kinh Giáo Ðoàn một thiên khuyến thiện,
Khách quần thoa tua tiến bước lần,
Kêu ca mau kịp trổi chân,
Ðường nguy gắng giải cũng gần lạc quan.
Ðề: Ðạo-Ðức Giáo Ðoàn Nữ-Giới,
Ðem tinh thần cho tới cực đoan,
Mở mang tâm trí hoàn toàn,
Duy trì phong hóa bước đàng văn minh.
Gái cũng một chơn linh Thượng-Ðế,
Gái cũng thời sánh thể như nam,
Nhưng mà Ðạo-Ðức quên làm,
Thành ra u ẩn tánh phàm đổi xây.
Kìa bạn gái trần ai lội lạc,
Nỗi xa chân mà mắc bẩy vòng,
Cũng là mỹ sắc tư phong,
Sống say, chết ngủ, trong trường mộng xuân.
Cho là kiếp hồng quần lang bạc,
Ðể cánh bèo tan tác bể vơi,
Sóng xao gió dập rã rời,
Rã rời rồi mới tiếc đời uổng thay!
Bởi không biết tương lai toan liệu,
Nên thành ra phải chịu đeo phiền,
Lở rồi lại muốn cầm duyên,
Hư rồi lại muốn cho nên, khó thành.
Phải mà trước biết thành Ðạo-Ðức,
Hạnh đoan trang khuôn thức rẽ ròi,
Khỏi sa vào cảnh khổ đời,
Khỏi mang tiếng tục lắm lời chát tai.
Chữ Ðạo-Ðức là bài đáng học,
Dẫu hạng nào cũng được cũng nên,
Người ngoan dụng đức mới bền,
Ðạo thoàn, đức thủy, đạo nền, đức gia.
Người mà biết dụng qua Ðạo-Ðức,
Thì cõi đời hạnh phúc cho thân,
Người ngoan dụng đức dụng nhân,
Cái câu tích đức để phần cháu con.
Gia đình biết lo bòn Ðạo-Ðức,
Thì gia đình giáo dục an vui,
Thuận hòa đầm ấm tươi cười,
Lạc quan hạnh phúc cõi đời thanh tao.
Quốc gia biết dùng câu Ðạo-Ðức,
Ngòi chiến tranh sẽ dứt: hòa bình,
An hòa toàn thể sanh linh,
Âu ca thuần túy thái bình hanh thông.
Vua dỉ đức nối dòng minh chánh,
Cả liên bang cám cảnh phục tùng,
Vua dụng đức, thần tận trung,
Kìa Văn-Vương cũng dụng nhân đức mà.
Dân lạc nghiệp trên hòa dưới thuận,
Nơi nơi đều cảm nhuận thâm ân,
Cũng là dụng đức phục nhân,
Mới nên cơ nghiệp chúng dân phục tùng.
Muốn thạnh trị phải dùng Ðạo-Ðức,
Muốn an cư phải thức nghĩa nhân,
Nỗi nhà, nỗi nước, nỗi dân,
Cũng dùng Ðạo-Ðức nghĩa nhân mới rồi.
Chữ Ðạo-Ðức gồm thời năm mối,
Năm mối là nguồn cội ở đời,
Người mà biết đạo làm người,
Không ngoài Ðạo-Ðức ở đời mới yên.
Ðức Khoan-Dung tinh chuyên một mối,
Rộng thứ người phạm lỗi cùng ta,
Trên dạy dưới, lấy điều hòa,
Không làm mặt lớn chẳng ra hùng hào.
Lòng quảng đại gồm bao kẻ khó,
Chỉ bảo người dầu dở hóa hay,
Thương đoàn chủng tộc truân nguy,
Rộng tình dung kẻ đáng khi lỗi lầm.
Ðức Cần-Kiệm chỉ chăm gìn giữ,
Cách trí người xử sự cho tinh,
Mặc ai hoang phóng tự tình,
Trà đàng tửu điếm phận mình chớ sa.
Hễ cần kiệm mới ra hiền hậu,
Bằng không thì hung bạo sanh lòng,
Nào là cờ bạc bưởi bòng,
Nào là xa-xí buông lung theo người.
Nếu lỡ hết tiền rồi sanh dạ,
Phải đem lòng lang chạ hư thân,
Nào ai giữ đức kiệm cần,
Mà ra hoại tiết vong thân mấy người.
Ðức Nhơn-Nghĩa ở đời là trọng,
Phải năng gìn cho đúng theo lời,
Nhân là thương kẻ lỡ thời,
Giúp người sa bước cứu người gian nan.
Thương những kẻ cơ hàn đói khó,
Thương những người lỡ dở kỳ công,
Liệu phương tùy tiện giúp dùm,
Dầu không đặng việc cũng lòng tốt ta.
Nghĩa là chớ gian tà dối giả,
Nghĩa là đừng xảo trá tham lam,
Những điều bất nghĩa đừng làm,
Lấy lòng ngay thật đối cùng chị em.
Ðừng đem dạ siểm gièm đôi chối,
Mất nghĩa nhân sớm tối hềm thù,
Những điều bất nghĩa là hư,
Dẫu rằng luật nước không tư vị nào.
Ðức Nhu-Hòa cần trau cho vẹn,
Tánh từ hiền tập quán càng hay,
Nhu là mềm mỏng đẹp thay,
Lời trong nhỏ nhẹ tiếng ngoài khiêm cung.
Nếu người biết tùy dùng nhu nhược,
Thì sẽ là thắng được cang cường,
Mỏng mềm trên dưới đồng thương,
Lấy điều lễ phép đối nhường bề trên.
Hòa hảo tánh mới nên thân phận,
Hòa mới vui mà thuận mới an,
Hòa trong thân tộc xóm làng,
Dĩ hòa vi quí là đàng trước ta.
Tính hòa hảo gần xa đều mến,
Lòng khiêm cung đem đến từ hiền,
Hòa là trí hảo nhẫn kiên,
Lựa làm điều phải chẳng phiền lòng ai.
Mặc dầu kẻ trở gay bạo ngược,
Mặc dầu ai mưu chước hại đời,
Ta nên hòa hảo tánh trời,
Chân tình Ðạo-Ðức trọng lời dạy răn.
Ðức Lễ-Tín phải năng gìn giữ,
Lễ tiết nghi lịch sự ở đời,
Suy trong sự sống loài người,
Lễ nghi phong hóa trau giồi mới xinh.
Khi ở trong gia đình mọi việc,
Kỉnh kỳ thân lễ tiết cúi vâng,
Ðến khi trở bước ra đàng,
Lời chào, tiếng hỏi, kỉnh nhường phân minh.
Ðối với bực lão thành trên trước,
Kỉnh nhượng người khuôn thước nói năng,
Ðối cùng quyến thuộc thân bằng,
Thì lời nhỏ nhẹ, tiếng hằng khôn ngoan.
Ðức Tín là tấm lòng tin cậy,
Ở cùng nhau dạ hãy thật tình,
Ðối nhau bằng một chữ tin,
Những lời hứa hẹn nên gìn tròn vuông.
Ðừng sai hứa để buồn lỗi hẹn,
Mất lòng nhau lại thẹn cỏ cây,
Dối người đâu khác dối Trời,
Ở ăn phải lẽ mỗi người mỗi tin.
Sự thật đối với mình cũng vậy,
Ở cho người tin cậy đến mình,
Nếu mà chữ Tín không gìn,
Thì đời ắt khó trọng tình chị em.
Tình đồng loại khá xem hệ trọng,
Nghĩa chị em chung sống địa-cầu,
Khuyên nên lập đức là đầu,
Tuổi tên bia tạc nghìn thu không sờn.
Tâm minh chánh ân cần giồi luyện,
Ðiều sáng ngay là chuyện trọng thường,
Nói năng ngay thẳng đường đường,
Công bình hai chữ không thường vị ai.
Dầu làm chứng không ngoài lẽ phải,
Dầu xử người cũng lấy việc công,
Minh chánh đức vẹn cõi lòng,
Mỗi điều minh bạch chớ không mờ hồ.
Minh là sáng, sáng cho tột lý,
Mỗi việc chi suy nghĩ rõ ràng,
Kẻo làm quan, xử kẻ oan,
Chồng oan cho vợ, vợ oan cho chồng.
Kém sự sáng mới lầm oan ấy,
Ðủ sáng rồi nghe thấy phân minh,
Lấy đức chánh ở công bình,
Mỗi điều xét kỷ biện minh hoàn toàn.
Ngàn dâu bể, dầu nguồn, dầu vực,
Cũng đồng chung lập đức mà ra,
Muốn cho lợi nước yên nhà,
Một là Ðạo-Ðức, hai là chánh chơn.
Ngoài thì kẻ không hờn chẳng giận,
Trong lại người trên thuận dưới hòa,
Dầu giàu cũng bỏ kiêu xa,
Dẫu nghèo cũng bỏ nịnh tà tham gian.
Muốn lập đức đừng phân giai cấp,
Ðể đoàn chung bồi đắp nền nhân,
Chị em cần phải tương thân,
Hoạn đồ lần bước cho chân vững vàng.
Chơn hạnh phúc là đàng lập đức,
Lập đức dày giáo dục mới mong,
Phải vẹn vẻ ở bên trong,
Người soi gương thiện, kẻ mong tích hiền.
Nền thế giái sập nghiêng long nức,
Bởi sanh linh kém đức kém tài,
Không tích thiện phải mang tai,
Lành vay, lành trả, dữ vay, dữ đền.
Ðức thắng tài mới nên Quân-Tử,
Dầu ngàn Kinh muôn sử đâu đâu,
Cũng cho lập Ðức đứng đầu,
Mấy ai kém đức mà âu thanh nhàn.
Người chẳng biết châu toàn Ðạo-Ðức,
Ðứng trong đời khó được yên vui,
Lập mưu độc để hại người,
Lương tâm cắn rức hằng ngày khó yên.
Gia đình chẳng biết gìn Ðạo-Ðức,
Hằng xảy điều vô phúc mà ra,
Không đầm ấm, chẳng thuận hòa,
Vợ chồng ly tán, ruột rà chia phân.
Dân quốc chẳng ân cần Ðạo-Ðức,
Trong loạn luân, ngoài giựt giành nhau,
Ỷ vì dân mạnh nước giàu,
Trị an rối cuộc đồng bào lầm than.
Quan chẳng biết bảo toàn Ðạo-Ðức,
Ỷ tước sang ép bức dân hiền,
Lạ gì đương lúc đủ quyền,
Rủi may báo ứng khó bền chức quan.
Vua ỷ lại không màng Ðạo-Ðức,
Khó trị vì cho nước được yên,
Quan, dân lắm ức lòng phiền,
Sẽ là rối loạn chẳng yên nơi lòng.
Ðạo-Ðức vốn cội nguồn Tôn-Giáo,
Tôn-Giáo nhờ có Ðạo-Ðức ra,
Không Ðạo-Ðức: khó an hòa,
Những điều trọng đức mới là tròn xong.
Ðừng lầm tưởng người không Tôn-Giáo,
Mà tấm lòng chẳng Ðạo-Ðức gì,
Có không do cách hành vi,
Do lòng nhân nghĩa của người đó thôi.
Cũng có kẻ ở nơi Tôn-Giáo,
Nhưng tấm lòng chẳng Ðạo-Ðức chi,
Lạ đâu cái thói vô nghì,
Lợi dùng Tôn-Giáo để qui lợi mình.
Cũng có kẻ ngoài thành Tôn-Giáo,
Mà tấm lòng có Ðạo-Ðức dư,
Cổ kim từ thử đến chừ,
Người nên thì ít, kẻ hư lại nhiều.
Nhìn nhơn vật hắt-hiu ngán bấy,
Mượn làm văn khuyên lấy lo toan,
Sáng ra ở Nữ-Giáo-Ðoàn,
Noi đường Ðạo-Ðức lánh vòng tệ đoan.
Ðừng ỷ chồng làm quan trọng tước,
Rồi đem lòng lấn lướt kẻ hiền,
Phần nhiều trong gái thuyền quyên,
Hễ sang lên mặt mà hèn nịnh dua.
Lúc đang thời hiếp dùa áp yểm,
Tự tôn mình phận thím vợ thầy,
Sang bà kia, giàu cô nầy,
Nếu không chứa đức hầu ngày khó kham.
Ðang thạnh thời ai làm cho rúng,
Cơn suy thời thì chúng chê bai,
Hồi nào thím nọ bà nầy,
Kêu dân dân dạ, hồi nầy dạ dân.
Bởi những kẻ không cần tích đức,
Mắt hẹp hòi ngó trước quên sau,
Ai ôi! khá biết cho mau,
Lòng nhơn tích đức lo âu để đời.
Khuyên những kẻ đương thời ruộng rẫy,
Ðạo-Ðức tua lập lấy để dành,
Ngày sau con cháu nên danh,
Cũng nhờ lòng tốt của mình truyền roi.
Nghèo trối mặt không mòi dua bợ,
Bạn nghèo nhau nâng đở cho nhau,
Hay chi cái thói nịnh giàu,
Tiếng ra lại bớt, lời vào lại thêm.
Ðặng cho kẻ tị hiềm kẻ khác,
Ðể cho mình kiếm chác ấm no,
Riêng vui để kẻ sầu lo,
Là điều tổn đức chớ cho bỉ bàng.
Hỡi bạn gái hãy lo lập đức,
Chị cùng em chung sức dắt dìu,
Yêu nhau nâng ngã đở xiên,
Ðồng thân sống gởi phải yêu nhau mà.
Bỏ những vết xấu xa nhơ nhuốc,
Ðồng cùng nhau chị trước em sau,
Thiện danh thiện mỹ lẽ nào,
Ðời người hạnh phúc nhờ câu đức lành.
Xã-hội lắm gia-đình Ðạo-Ðức,
Thuận hòa nhau không giựt giành nhau,
Mỗi người bổn phận lo âu,
Phải là nước mạnh dân giàu chăng ai.
Ðạo-Ðức đâu đem người xuống thấp,
Ðạo-Ðức là tiến cấp thanh danh,
Gọi là Ðạo-Ðức văn minh,
Trời Nghiêu đất Thuấn thái bình âu ca.
Chị em cần nghĩ cho xa...
Ban ơn chư hiền. Ta kiếu... HẠNH-HOA TIÊN-NỮ
Chào đàn trung, chào hiền huynh. Thi :
Lã lướt làn mây hé ngọc bình,
Cho đề Giải-Thoát Giáo-Ðoàn Kinh,
Kêu ca bạn gái xa sông khổ,
Dìu dắt đồng lưu thoát bể tình.
Ðàng thẳng vững chơn, chơn lại thẳng,
Cõi đời chinh bước, bước càng chinh,
Dân tâm hạnh đức khuyên giồi luyện,
Thoát tục siêu phàm mới đẹp xinh. ÐỀ GIẢI-THOÁT
(Ðây là tiếp theo đề Ðạo-Ðức)
Bài:
Ðời càng chuộng thời thêm có mãi,
Hễ cho vay thì lợi ra hoài,
Lần lần từ một đến hai,
Biết sao cho dứt nợ đời rảnh rang.
Chỉ có cách tìm đàng giải thoát,
Khỏi đeo đai loạn lạc bể trầm,
Muốn cho nhàn hạ tinh thần,
Có điều dứt tuyệt nợ nần vui an.
Dầu trong thế bạc vàng mấy vạn,
Cũng khó mong ngày tháng yên vui,
Dầu cho phú quí trên đời,
Sao bằng ta chọn những nơi thanh nhàn.
Ðường thế tục buộc ràng danh lợi,
Nhưng mấy ai cho khỏi não nần,
Hễ là còn sống với thân,
Cũng cam trong một thời gian vẫy vùng.
Ðó là việc sống chung xã-hội,
Còn đang xuân lặn lội giúp đời,
Trước không hổ nước non trời,
Sau tròn đạo nghĩa yên vui non bồng.
Biết trần tục long đong tai biến,
Thì ta nên thoát biển trầm luân,
Lánh xa cái khổ bể trần,
Nghĩ suy thế cuộc não nần xiết bao.
Ðời sống thể chiêm bao điệp mộng,
Nay thấy còn, mai hỏng thấy đâu,
Nào là phú quí công hầu,
Thác rồi đem đặng theo đâu sự gì.
Bàn tay trắng nắm đi về cảnh,
Sự nghiệp đời phủi rảnh nợ duyên,
Còn chi oan trái muộn phiền,
Còn chi thế lực kim tiền đeo đai.
Ðời sống tạm trần ai mấy chút,
Nhưng phải lo một lúc với người,
Ấy vì xã tộc đồng loài,
Ấy vì bổn phận thương thay nhơn quần.
Trải mấy lúc não nần truân khổ,
Qua thời gian tìm chỗ tinh hoa,
Thanh xuân, trung-đại đạo nhà,
Lão thành giải thoát lánh mà lợi danh.
Ðã không thẹn với tình đồng loại,
Với gia đình đạo ngãi vuông tròn,
Thời gian lặn lội sông non,
Qua cơn khổ ấy phải còn tu thân.
Ta phải cố tinh thần qui tựu,
Kinh nghiệm đời nghiên cứu Ðạo mầu,
Ðời là cái cuộc bể dâu,
Tang thương cảnh khổ đeo sầu thiếu chi.
Biết đời khổ toan đi lánh thế,
Ðặng tầm phương luyện chế thuốc thần,
Tìm đàng phổ cập nguyên nhân,
Tầm phương siêu việt dựa lần non linh.
Nào vật chất thất tình lục dục,
Nào lầu son đài các muôn ngàn,
Nào danh, nào lợi, nào sang,
Nào phu, nào tử, buộc ràng dứt đi.
Thân đã già còn chi ràng buộc,
Phải tìm đàng sáng suốt quang minh,
Lặng trang như nước đang bình,
Tìm châu kiếm ngọc giữ gìn bổn nguyên.
* * *
Ngàn năm danh để lưu truyền,
Non nhàn vui thú vững yên tinh thần.
Coi đời thể bóng phù vân,
Phước qua khỏi mắt, họa gần bên tai.
Phải mau tìm lánh trần ai,
Khối linh quang đủ hiệp đầy tinh anh. Thâu Thần, luyện Khí, hiệp Tinh,
Linh đơn chi phối ngọc huỳnh chói xa.
Giải mê đời tỉnh nam-kha, Cao-Ðài cứu thế kỳ ba độ đời.
Khá nên giải thoát ai ơi!
Sẵn đường Ðạo-Ðức có lời dạy khuyên.
Dặm trình trực chỉ non Tiên...
Ban ơn chư hiền. Ta xin kiếu... CHUNG