ĐỜI HƯ ĐỜI LOẠN

Trung Dung yếu lý đạo Nho tông,
Nhứt dĩ quán chi, hoạch đại đồng,
Tánh mạng tận kỳ siêu vạn pháp,
Huyền quan nhứt điểm đạt huyền công.
oOo
Trông vào đời, đời hư đời loạn,
Họa phái phe, bè đảng phân tranh;
Kỷ cương phong hóa tan tành,
Ðạn bom khói lửa, máu tanh ngập trời.
Thảm nỗi cảnh bán trôi đất nước,
Thương những ai xuôi ngược lầm than;
Sống say trong giấc mộng tràng,
Thỏa thê xác thịt, nào màng khen chê.
Tình tiền đã làm mê tâm trí,
Lợi danh quên giá trị con người;
Gái xuân bán rẻ cuộc đời,
Cao bồi du đảng ăn chơi ngông cuồng.
Hầu như đám con buôn mọi mặt,
Dầu cơ đồ giá đắt cũng trao;
Sá chi Tổ quốc, đồng bào,
Bạc vàng đút nhét, việc nào cũng xong.
Ôi thảm cảnh đồi phong bại tục,
Xúm hùa nhau nước đục béo cò;
Giữa hồi đen tối gay go,
Dễ chi lấy thước mà đo lòng người.
Ai là kẻ thương đời mến đạo?
Ai là người hoài bão sâu xa?
Ai vừa tỉnh giấc Nam kha?
Lẽ nào xao nhãng bỏ qua cho đành.
Há nỡ lòng ngồi khoanh tay lại,
Phải tìm phương hoán cải sửa đương;
Phật, Tiên, Thần, Thánh xót thương,
Chỉ đường vào học đạo mấy chương dạy bày.
Tỉnh thức người mau quày chơn lại,
Chạy theo đời thất bại khổ đau;
Lo tu cứu vớt đồng bào,
Cải tà qui chánh mà vào Long Hoa.
Sứ mạng đã truyền ra khắp chỗ,
Mở đạo Huỳnh, tận độ quần sanh;
Khuyên ai bỏ dữ về lành,
Thanh bình tái lạo, Trời dành thưởng ban.
Tam kỳ hội Nhơn Hoàng xuất hiện.
Người trở nên Thánh thiện hiền minh;
Bốn phương cộng hưởng thái bình.
Phối thiên quyền nhứt, pháp linh dạy rằng:
Muốn chứng Ðạo, qui căn phục mạng,
Rõ quyền năng nhơn bản triển khai,
Tu tâm dưỡng tánh cho tày,
Ðạt cơ tận thức không ngoài Trung Dung.
Trung gốc lớn vô cùng thiên hạ,
Vững không hề nghiêng ngã đổi thay,
Dung theo định lý an bài,
Kiến cơ nhi tác, vãng lai tùy thời.
Tánh thiên mạng người người có đủ,
Vốn thuần chơn, thường trụ thường minh;
Cho hay nhơn tánh có tình,
Tình duyên ngoại vật, vô minh phủ mờ.
Suất được tánh, tri cơ thấy Ðạo,
Tu Ðạo nương lấy giáo làm nhân;
Rõ phương xuất hóa nhập thần,
Con đường minh đức tân dân trọn lành.
Tu đạo gốc chí thành chuyên nhứt,
Thành tắc minh, minh tức là thành;
Noi theo Tánh Ðạo nơi mình,
Tri hành đúng khớp, tâm tình rổng rang
Thấy được tánh, hồi quang phản chiếu,
Rõ được tâm, minh liễu càng sâu;
Quán thân phản tỉnh nội cầu,
Khải minh, Lý thể nhiệm mầu bao la.
Chính Thiên lý cũng là nhơn lý,
Dầu muôn tâm, hoàn chỉ nhứt tâm;
Vô minh nên mới lỗi lầm,
Vẹt mây tỏ lộ trăng rằm sáng soi.
Ðám mù xúm rờ voi cãi cọ,
Mắt mở rồi, thấy rõ toàn thân;
Mới hay thỉ giác, giác phần,

CHƠN TÁNH RẤT VI DIỆU

Ðịa vị nhơn sanh chẳng phải thường,
Tại người chưa nhận lẽ Âm Dương,
Ở trong điều lý, tâm là chủ,
Trời Ðất cùng ta một chủ trương.
oOo
Trời Ðất Người cùng chung nguyên lý,
Gồm Âm Dương tú khí ngũ hành;
Bản lai Chơn tánh trọn lành,
Ðóng vai phụ tướng, tài thành Hóa Công.
Tâm vô ngại huyên đồng nhứt thể,
Tâm bao la từ huệ viên dung,
Tam tài nhơn vị hồ trung,
Thánh phàm, sanh diệt, đủ trong tâm này.
Tâm trải khắp tràn đầy lẽ sống,
Tâm nhiệm mầu, linh động vạn năng;
Hằng thường, bất giảm, bất tăng,
Bất thiên bất ỷ, công bằng vô tư.
Ðó là thể nhứt như, chơn tánh,
Chứng tâm này, nhập Thánh lên Tiên;
Tự do, Tạo Hóa đồng quyền,
Thiên đường, Cực lạc, có riêng ai nào?
Tại vì người lãng xao, buông bỏ,
Bám sát nơi cái vỏ đa thù;
Chơn tâm ngày một lấp lu,
Ngàn sai, muôn khác, lù lù chường ra.
Mà thấy người và ta riêng biệt,
Mới sanh lòng quỉ quyệt ghét thương,
Mưu đồ mở rộng biên cương,
Hơn thua, lý sự, môi trường đường tranh.
Cảm tưởng cứ lanh quanh nảy nở,
Mà mãi lo bồi lở, gắn hàn,
Suốt đời, mưu kế tính toan,
Trông đi, ngó lại, ngổn ngang chẳng rồi.
Thân phận người nổi trôi lặn hụp,
Dong ruổi toan bắt chụp bóng mồi,
Vui buồn họa phước đi đôi,
Nghiệp duyên ngang trái kéo lôi không ngừng.
Ðời bởi đấy tưng bừng sóng gió,
Hóa ngọt chua đen đỏ thân thù;
Phủ màu tang tóc, âm u,
Trở thành địa ngục, ao tù cầm giam.
Ai ai cũng tham lam ích kỷ,
Nào mấy ai dung dị cho ai,
Sống còn, chẳng có ngày mai,
Ðắm mê tửu khí, sắc tài đáng kinh.
Tâm mất hẳn quân bình lẽ sống,
Còn biết đâu nòi giống thân yêu;
Quốc phong, luân lý đổ xiêu,
Ðạo người như đã biến tiêu bao giờ.
Hồn dân tộc lờ đờ phiêu bạc,
Mối nhân luân rời rạc lạnh tê;
Hóa nên trầm trọng nặng nề,
Diễn bao tấn kịch ê chề, ngán ngao.
Bình tĩnh hỏi: Vì sao đến thế
Do bởi đâu, tình tệ ngày nay?
Tại ai, ai đọa, ai đày?
Ðể cho nhơn loại ngậm cay nuốt hờn.
Giờ muốn biết dừng chơn lại đã,
Thì rõ ngay thiệt giả dễ dàng,
Lập tâm mạnh mẽ phá tan,
Thoát ngoài ảo vọng lên đàng tự do.
Cảnh cảnh hiện ấm no, hạnh phúc,
Nhà nhà đều hòa mục, thân yêu;
Tháng ngày đất Thuấn, trời Nghiêu,
Thanh bình trổi khúc nhạc thiều ca xang.
Không còn thấy hợp tan, bồi lở,
Không nhọc lòng, lo sợ bất công,
Tinh thần thế giới giao thông,
Mối tình nhơn loại cộng đồng thâm sâu.
Ðó phải chăng nguồn đầu xuất hiện,
Ðó phải chăng thánh thiện bản sơ,
Bấy lâu tâm ấy che mờ,
Bởi chưng tình thức phất cờ chủ trương.
Vọng động lên nhiễu nhương ám ảnh,
Xúi cho tâm, cho cảnh chia lìa;
Trùng trùng sắc thái nọ kia,
Khởi lòng yêu ghét, sớm khuya vận trù.
Liệu kế toan đoạt thu cho được,
Ðó và đây, đủ chước thi hành;
Bày trò dối gạt đấu tranh,
Miếng mồi chung đỉnh hôi tanh ruồi lằn.
Tâm đã mất thăng bằng trung chánh,
Còn thấy đâu Bản tánh, Chơn tâm;
Chiếc thân, mạng vận ai cầm?
Bù nhìn nơm nớp, tuân khâm thầy phù.
Làm những việc như ngu, như dại,
Ưng hay không, chẳng phải do lòng,
Biết rằng trái đạo, bại phong,
Cũng đành nhắm mắt, theo giòng trào lưu.
Chớ học thói đoàn cừu, lũ kiến,
Phái tự ta thực hiện lấy ta;
Biện phân cho rõ chánh tà,
Lợi thân, ích chúng, điều hòa đôi bên..
Lấy đạo đức, xây nền văn hóa,
Lấy chơn tâm, phác họa chương trình;
Xây đời thịnh vượng, văn minh,
Ðốt tâm vào chỗ quân bình vô tư.

DÂN CÓ ĐẠO NƯỚC CÓ HỒN

Quyền tự do người người đều có,
Bởi vì người buông bỏ lãng quên;
Tự do là cái móng nền,
Móng nền nhơn bản vững bền trung kiên.
Mất nhơn bản thất điên bát đảo
Chịu tử sanh phiền não vô minh;
Bản căn tánh mạng của mình,
Ðể cho lục dục thất tình nhiễu nhương.
Làm mất cả tình thương lẽ sống,
Mất tương quan, hư hỏng kiếp người;
Hỏng lây xã hội cuộc đời,
Gây nên hỗn loạn tày trời gớm ghê.
Khuyên người mau trở về nhơn vị,
Mà hưởng cơ bình trị muôn lành;
Chúng sanh người bực thượng sanh,
Sánh cùng Trời Ðất xứng danh Tam tài.
Thiên Ðịa lý không ngoài nhơn lý,
Lực trí tài đâu quí bằng tâm;
Ðược tâm, mau gắng giữ cầm,
Giữ tâm có đủ, mất tâm không còn.
Tâm là Ðạo vẹn toàn đầy đủ,
Ðạo là Tâm quản chủ Kiền Khôn;
Dân có đạo, nước có hồn,
Không hồn không đạo, được tồn tại đâu?
Ðạo như tâm là đầu muôn sự,
Mất tâm rồi hỏi thử ra sao?
Thế gian nhơn loại đồng bào,
Sống trong hỗn loạn khác nào nhộng sâu.
Ðạo không đâu, mà đâu cũng có,
Lớn không ngoài, mà nhỏ không trong,
Khắp cùng vô tận mênh mông,
Nhiếp thâu nhờ Pháp huyền công dạy truyền.
Hoàn trở lại bổn nguyên sơ thỉ,
Cởi mở lòng sự lý viên dung,
Tinh ròng chuyên nhứt đạo Trung,
Kết đơn nhập Thánh, vào trong Thái hòa.
oOo
Thái hòa một khí kết thành đơn,
Qui hiệp Âm Dương lại nhứt ngươn;
Pháp Ðạo được thông nhờ giác ngộ,
Quyết lòng bỏ giả, trở về chơn.

NHÂN SANH TRONG GIẤC MỘNG HUỲNH

Vẹt bụi xua mây, mở lối vào,
Thử nhìn vạn pháp, rõ âm hao;
Con đường ngăn cách, vì đâu thế ?
Mà cảnh trần hoàn lắm thấp cao
oOo
Trước thế giới phong ba mâu thuẫn,
Giữa phái phe tranh luận được thua;
Cuộc đời khổ não chát chua,
Nhơn sanh trong cảnh như cua gãy càng.
Dầu muốn tiến, không đàng để tới,
Dâu muốn lui, không lối thoát thân;
Ngẩn ngơ trong giấc mộng trần,
Giả chơn chưa biết đoán phân lẽ nào?
Nhắm mắt cho phong trào lôi cuốn,
Thác vô minh cuộn cuộn đẩy xô,
Nhưng vì thế yếu, sức cô,
Cũng đành an phận, phú cho đất trời.
Ai gặp phải bước đời ly loạn,
Chắc nỗi lòng đoài đoạn xót xa;
Nào thân, nào nước, nào nhà,
Nỡ đâu ngơ điếc, bỏ qua cho đành.
Truy nguyên lại gốc sanh bịnh chứng,
Xét vì đâu phản ứng lạ thường,
Biết rồi, đối chứng lập phương,
Tùy nghi gia giảm, mở đường độ sanh.
Biểu hay lý, cho rành cho trúng.
Bổ hai công, nhận đúng căn đề;
Bịnh tình sốt loạn, tỉnh mê,
Mở thông lối uất, lo bề trừ căn.
Trước thế hệ, khó khăn lắm nỗi,
Nhìn trào lưu thay đổi lẹ làng;
Lòng người ngờ vực, hoang mang,
Phái phe tân cựu, biết đàng nào đây?
Nào kim cổ Ðông Tây đủ mặt,
Dù dở hay, chưa chắc ai toàn;
Chi bằng hợp trí mưu toan,
Họa may thấy được vinh quang thanh bình.
Tích cực vị nhân sinh thế đạo,
Chung sức nhau, hoài bão tiền đồ;
Tương lai cộng sự mưu mô,
Chớ nên chia rẽ, Việt Ngô tương tàn.
Nói vì nước, mà toan hại nước,
Nói vì dân, mà ngược đãi dân;
Hô hào bác ái, nghĩa nhân;
Mà đem đồng loại phân thân chiến trường.
Phải san sẻ tình thương sự sống,
Bảo vệ cho nòi giống sanh tồn;
Dân có đạo, nước có hồn,
Dùng tài thao lược, khéo khôn giúp đời.
Ðọc quốc sử những thời oanh liệt,
Có lắm trang hào kiệt, anh hùng
Nuôi dân, giữ nước tận trung,
Ðắp xây bờ cõi, vẫy vùng bốn phương
Quí ở chỗ yêu thương đùm bọc,
Mà non sông gấm vóc mỹ miều;
Tinh thần dân tộc cao siêu,
Biết phần nên giữ, biết điều nên theo.
Theo để học những điều cao quí,
Theo mà không ly dị, vong thân;
Trách ai buôn Sở, bán Tần,
Lui về tàn sát nhân dân đông bào.
Hạnh phúc đâu? Máu đào cứ đổ!
Tự do đâu? Thống khổ chồng cao!
Cứ tán thưởng, cứ hô hào,
Ðạn bom, khói lửa ào ào tràn lan.
Không lẽ ngồi mà than mà khóc,
Trách giận ai? Hằn hộc với ai?
Nước non một khoảnh chia hai,
Bên trong xâu xé, bên ngoài giục xua.
Ðược xương máu, mà thua xương máu,
Hậu quả này, con cháu nghĩ sao?
Ðạo người, hạnh phúc biết bao,
Lẫn thương nhơn loại, đồng bào quốc dân.
Ðạo người mất, chia phân giai cấp,
Ðạo người suy, thành lập phái phe;
Ðặt người trên búa, dưới đe,
Muôn vàn thống khổ, áp đè không thôi.
Trời động lòng, lìa ngôi xuống thế,
Giải cứu đời u trệ lầm than;
Dung hòa trăm mối cực đoan,
Nhơn sanh thẳng bước trên đàng tự do.
Giếng có mạch, khỏi lo cạn nước,
Nước có nguồn, dòng được lưu thông,
Hỏi người: Ai chủ nhơn ông?
Ðội trời, đạp đất, huyền đồng tương tham.
oOo
Ðốt đuốc chong lên dẫn dắt đường,
Khêu to ngọn lửa rọi mười phương,
Ai ai cũng được trông về một,
Cùng sống, cùng tu một lập trường.

TÔN GIÁO KHÔNG NGOÀI TU TÂM

Ðời nhiều Ðạo, nhiều phe, nhiều phái.
Luận thuyết thôi phải trái ngổn ngang,
Tuy là trái phải đôi đàng,
Cũng cùng một thể hoàn toàn siêu nhiên.
Người quân tử không thiên, không chấp,
Kẻ tài mưu, hay vấp hay lầm;
Kỳ trung chỉ một chữ "tâm"
Quay vào liền thấy, lựa tầm đâu xa.
Thử đơn cử vài ba cụ thể
Vạch lối vào ắt dễ dàng hơn;
Chữ Minh, chữ Dịch, chữ Ðơn,
Ðể rồi ý thức, men chơn vào nhà.
Minh qui Nhứt, ấy là "Hoàng Cực" ,
Hiện thể là "Thái cực" Dịch sanh;
Chữ Ðơn "Vô cực" đại thành,
Không còn dấu vết, tuyệt lành tâm ta.
Tâm vũ trụ, tâm ta vẫn một,
Lạ lùng chi, đường đột cực đoan;
Nhìn trời bằng sáu giác quan,
Dễ đâu được thấy trong hang nhiệm mầu.
Tuy là Ðạo không đâu chẳng có,
Ẩn núp sau cái vỏ vạn thù;
Nhìn bằng nội tỉnh công phu,
Phải đâu hình sắc lù lù ngổn ngang.
Dẹp cái ta, mới toan giải thoát,
Chủ được lòng thì đạt cơ vi,
Chánh tâm, diệt dục tu trì,
Ngàn xưa cũng một đường đi lối vào.
Không tu niệm, làm sao đến đích?
Ðành nằm trong lẽ Dịch biến dời,
Lờ mờ như đám ma trơi,
Ngàn năm muôn kiếp lơi bơi nổi chìm.
Người đời hay tỵ hiềm, ưa ghét,
Không nghĩ suy tìm xét ngọn nguồn;
Ngày ngày chụp bắt, bỏ buông,
Vui theo ảo ảnh, trò tuồng trớ trêu.
Khổ sanh tử cứ gieo, cứ gặt,
Xích luân hồi trói chặt lôi đi;
Chuỗi đời khổ não, ưu bi,
Cũng do chấp ngã, cũng vì vọng tâm.
Lấy chữ Dịch mà làm hiện thể,
Như "Hà đồ" xuất thế, ly tâm;
Chữ "Minh" dùng để cầu tâm,
Vạn thù qui nhứt, phản tầm "Lạc thơ" .
Quày bước lại thăm dò tiêu tức,
Hội qui cùng Hoàng Cực Ðại trung;
Bao la nguồn sống vô cùng,
Tự do tuyệt đối, thung dung không bờ.
Vào được đó, nương nhờ với đó,
Mắt nhìn trông tỏ rõ xa gần,
Vạn năng thông ứng như thần,
Không còn đối đãi, chia phân ta người.
Chừng được thấy quyền Trời, pháp Ðạo,
Tất cả đều một Tạo Hóa sanh;
Chấp ta, nảy sự dữ lành,
Xôn xao hình tướng, đen, xanh, đỏ, vàng.
oOo
Ðạo là nguồn sống, gốc sanh thành,
Chớ khá tách rời khỏi cội sanh;
Muôn thuở vững bền, lòng thỏa thích;
Lìa trong giây khắc, mất an lành.

NHẬP VÀO HƯ VÔ

Vẹt chín từng mây lộ ánh hồng,
Núi sông hiểm trở được khai thông,
Con đường lui tới không ngăn ngại,
Bốn biển chung trong cảnh đại đồng.
oOo
Ðạo mầu nhiệm, muốn vào chẳng dễ,
Quá mênh mông, như bể như rừng,
Thoạt trước mặt, thoạt sau lưng,
Như chừng là có, như chừng là không.
Vô hình danh, vô tông, vô tích,
Biết lấy đâu làm đích mà phăng,
Nhận cho suốt lẽ tri, năng,
Mối manh, gút mắt, tằn mằn gỡ ra.
Ðạo là chi, mà ta tha thiết,
Giữ hay buông, có thiệt gì không?
Ðạo là muôn mối cộng thông,
Ðất Trời, nhơn vật gồm trong Ðạo này.
Lắm cần thiết từng giây, từng phút,
Không thể lìa một chút sát na (ngắn ngủi);
Nơi thân, cơ cấu điều hòa,
Hành vi động tịnh, đều là chủ trương.
Ngoài xã hội, kỹ cương, trật tự,
Giữa Kiền Khôn chống giữ quân phân;
Ngày đêm, thời tiết xây vần,
Bớt quyền kẻ bạo, thêm phần người thua.
Quyền thống ngự trên vua tất cả,
Ngôi trung tâm Tạo Hóa đất trời;
Tuy là chẳng lộ tăm hơi,
Mà đâu đâu cũng bày phơi hiển trình.
Trong chữ Minh ẩn hình Nhựt Nguyệt
Ẩn chưa trình, Lý thiệt viên minh;
Tiên thiên Thái Nhứt vô hình,
Thể Trung chưa động, ý tình tịch liêu.
Ðộng mà thể không diêu, không động,
Hóa trở nên hệ thống cơ quan;
Chấp kỳ cơ ngẫu lưỡng đoan
Phân nghi, lập tượng, mở mang Ðất Trời.
oOo
Quang vinh ai kẻ được huyền đồng,
Siêu vượt không thời, mọi mối thông,
Chẳng sắc, chẳng không, ngoài đối đãi
Cùng Trời đồng Nhứt để thi công.

TÌM CHA

Di Đà cùng với Thích Ca
Quán Âm, Di Lặc chỉ là tá danh
Còn Cha, tự tánh vô sanh
Vô tu, vô ngộ, vô thành, vô danh
Vô sở trụ, vô mối manh
Không sanh, chẳng tử, không thành, chẳng hư
Tìm Cha, tìm ở vô tư
Vô suy, vô tính, vô từ, vô ngôn
Chẳng hối hả, không bôn chôn
Để cho Thiên Chúa Đại Hồn hiện ra
Tìm Cha, tìm ở trong nhà
Chạy ra khỏi cửa, bị tà dắt ngay !
Tìm Cha phải chịu đắng cay
Không vay, chỉ trả, sạch rày nghiệp xưa !
Tìm Cha bất kể sớm trưa
Quán cho thấy tánh lọc lừa vô minh
Tìm Cha tìm ở vô thinh
Vô hương, vô sắc, vô hình, vô âm
Tìm Cha, con phải âm thầm
Tự tu, tự luyện, cao thâm diệu huyền
Tìm Cha ở chỗ bí truyền
Ra khỏi tà chánh, lên thuyền lý chơn
Tìm Cha, tìm ở tiếng đờn
Không dây nào hết, đờn làm sao nghe ?
Tìm Cha con phải tìm xe
Không thùng, không bánh, chạy te đường nào ?
Tìm Cha chẳng có lối vào
“Không tìm ” lại gặp đón chào vinh quang
Còn tìm, còn dễ lạc đường
“ Hết tìm ” mới thấy Cha đang ngồi chờ!
Con ơi ! con chớ ngu khờ
Cha là con vậy, Thiên cơ ẩn tàng

NỖI LÒNG CỦA MẸ

Thương con trẻ mẹ tảo tần khuya sớm,
Từ lọt lòng con bú mớm lớn lên.
Dù khổ đau mẹ vẫn một chí bền,
Nuôi con trẻ đặng hình nên, vóc đẹp.
Con đau ốm, mẹ việc chi cũng dẹp,
Dõi theo con, tâm khép nép nguyện cầu.
Được ân thiêng chan rưới điển linh bầu,
Qua cơn bệnh cho con hầu khỏe mạnh.
Đời tranh đấu mẹ sẽ dần xa lánh,
Hy sinh mình có ấm lạnh cũng vui .
Mặc phong ba cùng bão táp dập vùi,
Dành hết cả những ngọt bùi cho trẻ.
Bao năm tháng mẹ chiều lòn lặng lẽ,
Trong âm thầm chẳng chia sẻ cùng ai.
Nuốt vào lòng dù những đắng cùng cay,
Mong con lớn trong dặm dài gian khổ.
Trời CHA đã đưa thuyền từ tế độ,
Trọn niềm tin mẹ luôn cố vươn lên.
Trải truân chuyên nuôi chí cả luyện nên,
Thân bất hoại vững bền trên cõi thượng.
Thuyền lèo lái giương buồm luôn thẳng hướng,
Một lòng chơn theo ngọn phướn CHA ban.
Ngày ngày lo Tâm Pháp luyện Đạo vàng,
Dạ chí thiêt Đấng Trời ban xoay chuyển.
Một lòng trung, dạ thiết tha dâng hiến,
Gánh Đạo - Đời Thầy huyền biến độ công.
Lọc trược trần để tâm trí không không,
Mà tiếp trọn một nguồn trong suối mát.
Thấm mật ngọt dòng Ma ha ngào ngạt,
Rửa sạch phàm, tâm Bồ Tát phát huy.
Học cho tường chữ Bác ái, Từ bi,
Yêu vạn loại chẳng so bì hơn thiệt.
Thương tất cả như thương con chí thiết,
Theo đường chơn mà ráo riết tu trì.
Đạo quả thành mới rạng rỡ Thiên y,
Đủ năng lực, lòng từ bi độ chúng./.

                                                           Trở Lại Mục Lục