TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491 - 1586)

A. TIỂU SỬ

Người được dân Việt Nam truyền tụng và suy tôn “Nhà tiên tri” số một của nước ta là Trạng Trình, vì ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là “Sấm Trạng Trình”. Một điều khá lý thú là cách đây ngót 500 năm, ngay trang đầu của tập “Trình tiên sinh quốc ngữ” của Trạng Trình có ghi: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Ông đã khẳng định nước ta tên là Việt Nam. Một sự tiên đoán vô cùng chính xác.

Nguyễn Bỉnh Khiêm người làng Trình Tuyền (Trung Am) huyện Vĩnh Lại (nay là Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm quận công Nguyễn Văn Định, thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lan, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491) đời vua Lê Thánh Tông. Lớn lên được theo học cụ Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá). Vì tình hình đất nước không ổn định nên mãi đến năm Giáp Ngọ (1534), khi 43 tuổi Nguyễn Bỉnh Khiêm mới đi thi, đỗ ngay giải Nguyên, năm sau đi thi Hội, lại đỗ Hội nguyên, đi thi Đình, đỗ ngay Trạng nguyên. Ông làm quan cho nhà Mạc được tám năm, đến đời Mạc Phúc Hải, thấy triều đình lắm kẻ gian thần, lộng quyền, đục khoét, ông dâng sớ chém mười tám lộng thần đều là những kẻ quyền quý cả. Vua Mạc không nghe. Ông trả lại mũ áo, cáo quan về mở trường dạy học. Ông dựng một cái am nhỏ bên hồ đặt tên là am Bạch Vân và lấy tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ.

Dân gian truyền tụng nhiều về những câu nói có tính chiến lược của Trạng Trình đã giúp cho các vua chúa thời ông sống được vẹn toàn. Trạng Trình mất ngày 28.11.năm Ất Dậu, thọ 95 tuổi. Nhà vua truy tặng Nguyễn Bỉnh Khiêm tước Thái phó Trình Quốc Công. Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngoài việc dùng thi ca ngâm vịnh làm thú tiêu khiển, Cụ còn muốn dùng văn chương để giáo hóa người đời, truyền bá những tư tưởng đạo đức, giác ngộ dân chúng, vì trước mắt Cụ, hoàn cảnh đất nước thật điêu tàn, chiến tranh nồi da xáo thịt, chém giết nhau vì quyền lợi riêng tư, không còn biết đạo đức nhơn nghĩa. Cụ đã thực hành chủ trương "Văn dĩ tải Đạo" của Thánh Hiền.

Cụ Trạng Trình lưu truyền lại cho con cháu một quyển SẤM KÝ trường thiên, mà con cháu Cụ sau nầy chép vào cuốn Bạch Vân Gia Phả Bí Truyền Tập, gọi là SẤM TRẠNG TRÌNH.

 

 CẢM ĐỀ

 

 

 

Thanh nhàn vô sự là Tiên,

 

Năm hồ phong nguyệt nổi thuyền buông chơi.

 

 

Cơ Tạo Hóa, phép đổi dời,

 

 

 

Đầu non mây khói tỏa,
Mặt nước cánh buồm trôi.

 

 

Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi,
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh Trời.

 

 

 

Tuổi già thua kém bạn,
Văn chương gởi lại đời.

 

 

Dở hay nên tự lòng người cả,
Nghiên bút soi hoa chép mấy lời.

 

 

 

Bí truyền cho con cháu,
Dành hậu thế xem chơi.

 

B. SẤM TRẠNG TRÌNH

Sấm được viết cách đây 500 năm, cụ Trạng Trình đã dùng môn Thái Ất để tiên đoán sự việc của nước ta.

Sấm này có các bản khác nhau chút ít.

1. Vận lành mừng gặp tiết lành

Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu

Một câu là một nhiệm màu

Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao

5 Trải vì sao mây che Thái Ất

Thủa cung tay xe nhật phù lên

VIỆT NAM khởi tổ xây nên

LẠC LONG ra trị đương quyền một phương

Thịnh suy bỉ thới lẽ thường

Một thời lại một nhiễu nhương nên lề

11. Ðến ÐINH HOÀNG nối ngôi cửu ngủ

Mở bản đồ rủ áo chấp tay

Ngự đao phút chốc đổi thay

Thập bát tử rày quyền đã nổi lên

Ðông A âm vị nhi thuyền

Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh

17. CHẤN cung hiện nhật quang minh

Sóng lay khôn chống trường thành bền cho

ÐOÀI cung vẻ rạng trăng thu

Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn

21.Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật

Dưới lẫn trên năng vẫn uống quen

Sửa sang muôn việc cầm quyền

Ngồi không ai dể khẳng nhìn giúp cho

25.Kìa liệt vương khí hư đồ ủng

Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn

Trời sinh ra những kẻ gian

Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài

Áo vàng ấm áp đà hay

Khi sui đấp núi khi say xây thành

Lấy đạt điền làm công thiên hạ

Ðược mấy năm đất lở giếng mòn

Con yết ạch ạch tranh khôn

Vô già mở hội mộng tôn làm chùa

Cơ trời xem đã mê đồ

Ðã đô lại muốn mở đô cho người

37.Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn

Suốt vạn dân cừu giận oán than

Dưới trên dốc chí lo toan

Những đua bán nước bán quan làm giàu

Thống rủ nhau làm mồi phú quí

Mấy trung thần có chí an dân

Ðua nhau làm sự bất nhân

Ðã tuần bốn bể lại tuần đầu non

45.Dư đồ chia xẻ càn khôn

Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau

Vội sang giàu giết người lấy của

Sự có chăng mặc nọ ai đôi

Việc làm thất chính tơi bời

Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ

Xem tượng trời đã giơ ra trước

Còn hung hăng bạc ngược quá xưa

53.Cuồng phong cả sớm liền trưa

Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề

Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết

Ðể vạn dân dê lại giết dê

Luôn năm chật vật đi về

Âm binh ở giữa nào hề biết đâu

59.Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng

Cũng một lòng trời chống khác nào

Xem người dường vững chiêm bao

Nào đâu còn muốn ước ao thái bình

63.Một góc thành làm tâm chứng quỷ

Ðua một lòng ích kỷ hại nhân

Bốn phương rời rỡ hồng trần

Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần

 67.Tiếc là những xuất dân làm bạo

Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau

Nhân danh trọn hết đâu đâu

Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê

71.Hùm già lạc dấu khôn về

Mèo non chi chí tìm về cố hương

Chân dê móng khởi tiêu tường

Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình

75 Nội thành ong ỏng hư kinh

Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang

Bở mồ hôi Bắc giang tái mã

Giửa hai xuân bỗng phá tổ long

Quốc trung kinh dụng cáo không

Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng

81.Gà đâu sớm gáy bên tường

Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không

Thủy binh cờ phất vầng hồng

Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng

Ðứng hiên ngang đố ai biết trước

Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?

87.Ai còn khoe trí khoe năng

Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi

Chưa từng thấy đời này sự lạ

Bổng khiến người giá họa cho dân

Muốn bình sao chẳng lấy nhân

Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày

93.Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán

Ðúc tiền ra bán tước cho dân

Xun xoe những rắp cậy quân

Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công

97.Máy Hoá công nắm tay dễ ngỏ

Lòng báo thù ai dễ đã nguôi

Thung thăng tưởng thấy đạo trời

Phù LÊ diệt MẠC nghỉ dời quân ra

101.Cát lầm bốn bể can qua

NGUYỄN thì chẳng được sẽ ra lại về

Quân hùng binh nhuệ đầy khe

Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời

Bấy giờ càng khốn than ôi

Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?

107.Thương những kẻ ăn rau ăn giới

Gặp nước bung con cái ẩn đâu

Báo thù ấy chẳng sai đâu

Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn

Xin những kẻ hai lòng sự chúa

Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân

Cho nên phải báo trầm luân

Ai khôn mới được bảo thân đời này

115.Nói cho hay KHẢM cung RỒNG dấy

Chí anh hùng xem lấy mới ngoan

Chử rằng LỤC THẤT NGUYỆT GIAN

Ai mà nghĩ được mới gan anh tài

Hễ nhân kiến đã dời đất cũ

Thì PHỤ NGUYÊN mới chổ binh ra

121. Bốn phương chẳng động can qua

Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi

Bấy giờ mở rộng qui khôi

Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn

125.Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh

Hoàng phúc xưa đã định tây phong

Làu làu thế giới sáng trong

Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương

Rõ sinh tài lạ khác thường

Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài

 131.Xem ý trời có lòng đãi thánh

Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai

Chọn đầu thai những vì sao cả

Dùng ở tay phụ tá vương gia

Bắc phương chính khí sinh ra

Có ông BẠCH SĨ điều hoà hôm mai

Song thiên nhật rạng sáng soi

THÁNH NHÂN chẳng biết thì coi cho tường

139.Ðời này thánh kế vị vương

Ðủ no đạo đức văn chương trong mình

Uy nghi trạng mạo khác hình

Thác cư một gốc KIM TINH phương đoài

Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi

Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân

Binh thơ mấy quyển kinh luân

Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu

147.Ở đâu đó anh hùng hẳn biết

Xem sắc mây đã biết thành long

Thánh nhân cư có thụy cung

Quân thần đã định gìn lòng chớ tham

 151.Lại dặn đấng tú nam chí cả

Chớ vội vàng tất tả chạy rong

Học cho biết Lý kiết hung

Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi

Hễ trời sinh xuống phải thì

Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông

157.Kìa những kẻ vội lòng phú quí

Xem trong mình một thí đều không

Ví dù có gặp ngư ông

Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng

161.Xin khuyên đấng thời trung quân tử

Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh

Âm dương cơ ngẩu ngô sinh

Thái Nhâm Thái Ất trong mình cho hay

 165.Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng

Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh

Võ thông yên thủy thần kinh

Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ

Chớ vật vờ quen loài ong kiến

Biết ray tay miệng biếng nói không

Ngỏ hay gặp hội mây rồng

Công danh sáng chói chép trong vân đài

Bấy giờ phỉ sức chí trai

Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình

175.Nặng lòng thật có vĩ kinh

Cao tay mới gẩm biết tình năm nao

Trên trời có mấy vì sao

Ðủ nho biền tướng anh hào đôi nơi

Nước Nam thường có thánh tài

Ai khôn xem lấy HÔM, MAI mới tường

181.So mấy lời để tàng kim quỉ

Chờ hậu mai có chí sẽ cho

Trước là biết nẽo tôn phò

Sau là cao chí biết lo mặc lòng

Xem Đoài cung đến thời bất tạo

Thấy VĨ TINH liệu rạo cho mau

Nguôi lòng tham tước tham giàu

Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân

Trẻ con mang mệnh tướng quân

Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường

191.Ai lấy gương vua U thủa trước

Loạn ru vì tham ngược bất nhân

Ðoài phương ong khởi lần lần

Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn

195.Man mác một đỉnh HOÀNH SƠN

Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù

Ấy là những binh thù Thái Thái

Lòng trời xui ai nấy biết ru ?

Phá điền đầu Khỉ cuối thu

200.Tái binh mới động thập thò liền sang

Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết

Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa

Lưu tinh hiện trước đôi thu

Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm

205.Xem thấy nhũng sương săm tuyết lạnh

Loài bất bình tranh mạnh hung hăng

Thành câu cá, lửa tưng bừng

Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm

 209.Chiến trường chốn chốn cát lầm

Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông

Sang thu chín huyết hồng tứ giả

Noi đàng Dê tranh phá đôi nơi

Ðua nhau đồ thán quần lê

Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương

215.Kẻ thì phải thủa hung hoang

Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan

Kẻ thì mắc thủa hung tàn

Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình

Muông vương dựng ổ cắn tranh

Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành

Bời bời đua mạnh tranh giành

Ra đâu đánh đấy dem binh sớm ngày

 223.Bể thanh cá phải ẩn cây

Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù

Nào ai đã dễ nhìn U

Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn

Cây bay lá lửa đôi ngàn

Một làng còn mấy chim đàn bay ra

Bốn phương cùng có can qua

Làm sao cho biết nơi hào bảo thân

231. ÐOÀI phương thực có chân nhân

Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người

Tìm cho được chốn được nơi

THÁI NGUYÊN một giãi lần chơi trú đình

Bốn bề núi đá riểu quanh

Một đường tiểu mạch nương mình dấy an

Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc

Tránh cho xa kẻo mắc đao binh

 239.Bắc kinh mới thật đế kinh

Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào

Chim hồng vỗ cánh bay cao

Tìm cho được chốn mới vào thần kinh

243.Ai dễ cứu con thơ sa giếng

Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau

Vạn dân chịu thủa u sầu

Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho

Cấy cày thu đãi thời mùa

Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai

Nhân ra cận duyệt viễn lai

Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm

251.Xem tượng trời biết đường đời trị

Gẩm về sau họ LÝ xưa nên

Giòng nhà để lấy dấu truyền

Gẩm xem bốn báu còn in đời đời

Thần qui cơ nổ ở trời

Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường

257.Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh

Sông Bảo Giang thiên định ai hay

Lục thất cho biết ngày dài

Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê

Có thầy nhân thập đi về

Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh

Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp

Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời

Ra tay điều chỉnh hộ may

Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân

Lọ là phải nhọc kéo quân

Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về

269.Năm  GIÁP TÝ vẽ Khuê đã rạng

Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh

Ân trên vũ khí vân hành

Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài

Bản đồ chảng sót cho ai

Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn

275.Vững nền vương cha truyền con nối

Dõi muôn đời một mối xa thư

Bể kình tâm lặng bằng tờ

Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân

Âu vàng khỏe đặt vững chân

Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài

281.Vừa năm NHÂM TÝ xuân đầu

Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời

Quyển vàng mở thấy sấm trời

Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian

Một thời có một tôi ngoan

Giúp trong việc nước gặp an thái bình

287.Luận chung một tập kim thời

Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi

Trượng phu có chí thời coi

Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng

Tài nầy nên đấng vẻ vang

Biết chừng đời trị biết đường đời suy

Kể từ nhân đoản mà đi

Số chưa gặp thì biết hoà chép ra

295.Tiếc thay hiền sĩ bao già

Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công

Thử cho tay giúp ra dùng

Tài này so cùng tài trước xem sao

299.Trên trời kể chín tầng cao

Tay nghe bằng một ti hào biết hay

Hiềm vì sinh phải thời này

Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời

Hợp đà thay thánh nghìn tài

Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời

Nói ra thì lậu sự đời

Trái tai phải lụy tài trai khôn luần

Nói ra ám chúa bội quân

Ðương thời đời trị xoay vần được đâu

Chờ cho nhân đoản hết sau

Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn

311.Trời xui những kẻ ắt gian

Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay

Vua nào tôi ấy đã bày

Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn

Ðua nhau bội bạn nghịch vi

Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay

317.Tiếc tài gẩm được thời hay

Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng

Tài trai có chí anh hùng

Muốn làm tướng súy lập công xưng đời

321.Khá xem nhiệm nhặt tội trời

Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng

Ði tìm cho đến đế cung

Rấp phù xuất lực đế cung được toàn

Bảo nhau cương kỷ cho tường

Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài

Chờ cho động đất chuyển trời

Bấy giờ Thánh sẽ nên tay anh hùng

Còn bên thì náu chưa xong

Nhân lực cướp lấy thiên công những là

Ðời ấy những Quỉ cùng Ma

Chẳng còn ở thật người ta đâu là

Trời cao đất rộng bao xa

Làm sao cho biết cửa nhà đế vương

Dù trai ai chửa biết tường

Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này

337.Ý ra lục thất gian nay

Thời vận đã định thời nầy hưng vương

Trí xem nhiệm nhặt cho tường

Bảo Giang Thánh xuất trung ương thuở nầy

Vua ngự thạch bàn xa thay

Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng

343.Gà kêu vượn hót vang lừng

Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò

Nhân dân vắng mạt bằng tờ

Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay

347.Vua còn cuốc nguyệt cày mây

Phong điều vũ thuận thú rày an dân

Phong đăng hoà cốc chứa chan

Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây

Chính cung phương Khảm vần mây

Thực thay Thiên tử là nay trị đời

353.Anh hùng trí lượng thời coi

Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi

Tìm lên đến thạch bàn khê

Có đất sinh thánh bên kia cuối làng

Nhìn đi nhìn lại cho tường

Dường như chửa có sinh vương đâu là

Chẳng tìm thì đến bình gia

Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình

361.Nhìn xem phong cảnh cũng xinh

Tả long triều lại có thành đợt vây

Hửu Hổ uấn khúc giang này

Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai

Ở xa thấy một con voi

Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu

Ấy điềm thiên tử về chầu

Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời

 369.Song thiên nhật nguyệt sáng soi

Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu

Ðến đời thịnh vượng còn lâu

Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm

Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam

Muốn làm tướng súy thì xem trông này

375.Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn

Một nhà họ NGUYỄN phúc sinh tôn

Tiền sinh cha mẹ đà cách trở

Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn

379.Kìa cơn gió thổi lá rung cây

Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây

Tan tác kiến KIỀU AN đất nước

Xác xơ cổ thụ sạch am mây

Sơn lâm nổi sóng mù thao cát

Hưng địa tràng giang hóa nước đầy

Một gió một yên ai sùng bái

Cha con người VĨNH BẢO cho hay

Con mùng búng tít con quay

Vù vù chong chóng gió bay trên đài

Nhà cha cửa đóng then cài

390.Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân

Tiếc tám lạng thương nửa cân

Biết rằng ai có du phần như ai

Bắt tay nằm nghỉ dông dài

Thương người có một lo hai phận mình

 395.CANH niên tân phá

TUẤT HỢI phục sinh

Nhị Ngũ dư bình

Long, Hổ, Xà đầu khởi chiến tranh

Can qua tứ xứ loạn đao binh

400. Mã đề dương cước anh hùng tận

Thân, Dậu niên lai kiến thái bình

402.Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu

Có một đàn Xà đánh lộn nhau

Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng

Lợn kia làm quái phải sai đầu

Chuột nọ lăm le mong cản tổ

Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu

Hùm ở trên rừng gầm mới dậy

Tìm về quê củ bắt ngựa tàu

410.Cửu cửu càn khôn dĩ định

Thanh minh thời tiết hoa tàn

Trực đáo Dương đầu Mã vĩ

Hồ binh bát vạn nhập Trường An

411.Bảo Giang thiên tử xuất

Bất chiến tự nhiên thành

Lê dân bảo bảo noản

Tứ hải lạc âu ca

Dục đức thánh nhân hương

Qua kiều cư Bắc phương

417.Danh vi NGUYỄN gia tử

Kim tịch sinh ngưu lang

Thượng đại nhân bất nhân

Thánh ất dĩ vong ân

Bạch hổ kim đai ấn

Thất thập cổ lai xuân

Bắc hữu Kim thành tráng

Nam tạc Ngọc bích thành

Hỏa thôn đa khuyển phệ

Mục giả dục nhân canh

Phú quí hồng trần mộng

Bần cùng bạch phát sinh

Anh hùng vương kiếm kích

Manh cổ đổ thái bình

431.Nam Việt hửu Ngưu tinh

Quá thất Thân thủy sinh

Ðiạ giới sĩ vị bạch

Thủy trầm nhi Bắc Kinh

Kỷ mã xu dương tẩu

Phù kê thăng đại minh

Trư thử giai phong khởi

Thìn Mão xuất thái bình

Phân phân tùng Bắc khởi

Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh

441.Bảo sơn Thiên tử xuất

Bất chiến tự nhiên thành

Thủy trung tàng bảo cái

Hứa cập thánh nhân hương

Mộc hạ châm châm khẩu

Danh thế xuất nan lương

Danh vi NGUYỄN gia tử

Tinh bản tại ngưu lang

Mại dử lê viện dưỡng

450. Khởi nguyệt bộ đại giang

Hoặc kiều tam lộng ngạn

Hoặc ngụ kim lăng cương

Thiên dử thần thực thụy

Thụy trình ngũ sắc quang

Kim kê khai lựu điệp

Hoàng cái xuất quí phương

Nhân nghĩa thùy vi địch

458.Ðạo đức thực dữ đương

Tộ truyền nhị thập ngủ

Vận khải ngủ viên trường

Vận đáo dương hầu ách

CHẤN ĐOÀI cương bất trường

Quần gian đạo danh tự

Bách tính khổ tai ương

Can qua tranh đấu khởi

Phạm địch tánh hung hoang

Ma vương sát Đại quỉ

Hoàng thiên tru Ma vương

Kiền khôn phú tai vô lương

Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng

471.Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết

Ðảo HOÀNG SƠN tam liệt ngũ phân

Ta hồ vô phụ vô quân

Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành

hương phước điạ giáng linh

475.ÐOÀI phương phước địa giáng linh

Cửu trùng thụy ứng Long Thành ngủ vân

Phá điền Thiên tử giáng trần

Dũng sĩ nhược hai mưu thần như lâm

Trần công nai thị phúc tâm

Giang hồ tử sĩ  Đào Tiềm xuất du

Tướng thần hệ xuất Y Chu

Thứ kỵ phục kiến Ðường Ngu thi hành

Hiệu xưng thiên hạ thái bình

484.Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .

Trong sấm Trạng Trình còn có hai câu này, thường được thiên hạ đem ra bàn luận:

  Cửu cửu càn khôn dĩ định

  Thanh minh thời tiết hoa tàn

Chúng ta thấy chữ cửu là 9. Số 9 đánh dấu một tiết đoạn trong cuộc tuần hoàn của vũ trụ, trong sự diễn tiến lịch sử của một dân tộc. Cửu cửu là 9 lần 9 thành 81. Số này là thời kỳ đô hộ Pháp tính từ năm 1862 (hoà ước Nhâm Tuất) mất ba tỉnh miền Ðông Nam kỳ, tiếp đến năm 1867 thì mất luôn 3 tỉnh miền Tây, cho đến năm 1945 (Ất Dậu ) với cuộc đảo chính Nhật, mồng 9 tháng 3 dương lịch, và sự sụp đổ của nền đô hộ Pháp, đúng vào lúc Thanh minh thời tiết hoa tàn. Nhưng  cửu cửu đây cũng có thể giải thích là cứ 9 năm thì xảy ra một sự việc lớn, ảnh hưởng đời sống quốc gia và tương lai dân tộc.

Nhìn lại lịch sử cận đại Việt nam từ đầu thế kỷ XX tới nay, chúng ta có thể ghi những thời điểm rất quan trọng sau đây:

1907 (Đinh Mùi ): vua Thành Thái bị truất phế đày vào Nam

1916 (Bính Thìn ): vua Duy Tân khởi nghĩa thất bại, bị đày sang đảo Réunion, cùng với vua cha (Thành Thái)

1925 (Ất Sửu ): vua Khải Ðịnh mất, vua Bảo Ðại nối ngôi (2-1926)

1936: Phong trào Bình dân có nhiều cuộc biểu tình.

1945 (Ất Dậu ): Ðảo chính Nhật (9-3), Việt minh giành chính quyền (23-8. 1945)

1954: Hiệp định Genève (20-7) phân ra Nam Bắc.

1955- 1956  (Ất Mùi- Bính Thân ): VNDCCH thành lập, thủ đô Hà Nội

Sấm: Trực đáo Dương đầu Mã vỹ - Hồ binh bát vạn nhập Tràng an.

 1963 (Quý Mão): đảo chính 1-11, lật đổ Ðệ nhất Cộng hòa, thành lập Ðệ nhị Cộng hoà ở miền Nam

1972 (Nhâm Tý): Hoà đàm Ba lê kết thúc.gT

TTrong1975

C. VAI TRÒ TRONG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Thanh Sơn Đạo Sĩ 青 山道士   là Thánh hiệu của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngài là Sư Phó chưởng quản Bạch Vân Động nơi cõi thiêng liêng. Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cùng với hai vị Thánh của Bạch Vân Động là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor Hugo) và Tôn Trung Sơn (Tôn Văn) được lịnh Đức Chí Tôn chép Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước lên tấm bảng đá để công bố cho toàn cả nhơn loại rõ, nếu ai thực thi được bốn chữ BÁC ÁÍ – CÔNG BÌNH thì được Đức Chí Tôn rước lên cõi Thiêng liêng Hằng sống.

Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ theo lịnh của Ngọc Hư Cung, cho các vị Thánh trong Bạch Vân Động giáng trần để Đức Chí Tôn lập thành Hội Thánh buổi đầu khai ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Dưới đây là bài Kinh xưng tụng công đức của Đức Thanh Sơn Chơn Nhơn và Nguyệt Tâm Chơn Nhơn ( nhà văn hào Victor Hugo của nước Pháp )

Bạch Vân Động đèn hồng chói tỏa,

Thanh Sơn đài Diệu Võ Tiên Ông.

Bấy lâu tu luyện thành công, 

Đắc thành chánh quả độ trong Tam Kỳ.

Nguyễn Bỉnh Khiêm tầm Tiên ẩn dạng,

Trình Quốc Công là trạng nhà Nam.

Sớm khuya ẩn chốn thanh am,

Tu tâm luyện tánh chẳng ham mến trần.

Tìm chân lý ngỏ gần Tiên Thánh,

Học vô vi đặng lánh phàm gian

Thú vui hai chữ thanh nhàn,

Thong dong tự toại chẳng màng đai cân.

Ghi chú về: BẠCH VÂN ĐỘNG.

Đức Phạm Hộ Pháp giải thích về Bạch Vân Động như sau:

"Xưa nay người ta vẫn coi Nguyệt cầu (Mặt Trăng) là nơi dừng chân của những vị Thánh, Thần, trước khi xuống trần giới (Địa cầu) đầu thai. Các vị đó phải ở lại Nguyệt cầu ít lâu để liên lạc với Địa cầu, để quen lần với đời sống ở thế gian nầy. Từ cổ, Thần thoại đã mệnh danh Nguyệt cầu là Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung).

Cơ giáng ở Âu Châu, mệnh danh là LOGE BLANCHE (Bạch Động).

Giáo chủ của Bạch Vân Động là Bạch Vân Hòa Thượng, một hóa thân của Từ Hàng Đạo Nhơn (Đức Phật Quan Âm). Bạch Vân Hòa Thượng đã hai lần giáng trần ở Pháp: một lần là Hồng Y Giáo Chủ Richelieu, một lần là Quận Công La Roche Foucault. Ở Việt Nam, Ngài giáng trần là Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức gọi Trạng Trình

Trở lại trang chánh