Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi tại Pháp Quốc Tham Đồng Khế Trực Chỉ Tiên Chú 參 同 契 直 指 箋 註Thượng thiên 上 篇 Chương 2 Nguyệt tiết Khảm Ly là kỷ độ của Động Tĩnh, là Dược Vật
Tạm dịch: 2. Một tháng là ba mươi (5 x 6= 30 ngày) Ngày, đêm là 2 quẻ, Tổng cộng là 60. Cương nhu có trong ngoài, 3. Sóc đán (sáng mồng 1) là quẻ Truân, Chiều đến là quẻ Mông Ngày đêm là 2 quẻ, Dùng theo y thứ tự. 4. Ký, Vị sáng 30, Hết rồi lại bắt đầu. Tới lui có thứ tự, Âm Dương có sáng chiều. 5. Xuân Hạ là nội thể, Từ Tí đến Thìn Tị, Thu Đông sẽ ngoại dụng Từ Ngọ đến Tuất Hợi 6. Thưởng phạt theo Xuân, Thu, Sáng tối hợp nóng lạnh. Hào từ có Nhân Nghĩa, Hỉ Nộ đúng theo thời. Cứ vậy theo bốn mùa, Ngũ hành sẽ hợp lý. Trên đây nói Kiền Khôn Khảm Ly, phúc mạo Âm Dương chi đạo. Số nó ở trong Luật Lịch Kỷ. Luật thì ứng vào Một tháng Kỷ ứng vào một Năm. Một năm có 360 ngày, hành quái là 360 hào. Còn dư 24 hào thì thuộc 4 quẻ. Thế là hết mọi hào. Cứ vậy hết vòng lại bắt đầu. Một tháng có 5 x 6 là 30 ngày, kinh vĩ quái tượng, theo ngày vận hành. Mỗi ngày 2 quẻ, vậy 30 ngày là 60 quẻ. Còn dư 4 quẻ là Kiền Khôn Khảm Ly vậy. Kiền Khôn Khảm Ly cốt để vận động 60 quẻ, nó không thuộc về Quái Khí. Mỗi tháng thì 15 ngày đầu là Dương, là Cương, 15 ngày sau là Âm, là Nhu. Dương sinh ra trước thì ở trong (Lý), Âm sinh ra sau thì ở ngoài (Biểu). Thế là 60 quẻ thống 30 ngày, 3 Âm 3 Dương làm Biểu Lý cho nhau. Một ngày có sáng có đêm. Sáng đêm 2 quẻ. Mỗi tháng bắt đầu Hành Quẻ vào ngày Sóc (mồng 1) buổi sáng. Ngày là Truân quái trực sự, chiều là Mông quái trực sự. Ngày đêm là 12 hào, 1 giờ 1 hào. 24 giờ là 24 hào, cứ thế mà đi, 30 ngày cộng là 360 hào, bắt đầu là Truân Mông. Kết thúc là Ký Tế, Vị Tế. Chung lại phục Thủy. Tham Đồng chú vậy. Truân là Tí Thân, Mông là Dần Tuất. Thế là mỗi quẻ trong 60 quẻ đều có quẻ của nó. Thế là nghĩa của đoạn trên. Bậc chí nhân, mặc thông tạo hóa, ám hợp Âm Dương, lấy nhật nguyệt làm kỷ độ, đáng động thì động, đáng tĩnh thì tĩnh, không sai thời khắc, một ngày có Sáng Tối, đáng tiến Dương thì tiến Dương, như Xuân Hạ cứ nội thể, Từ Tí tới Thìn Tị hành lục dương chi quải. Thời đáng dụng Âm thì Dụng Âm, như Thu Đông phải Ngoại Vận, từ Ngọ đến Tuất Hợi, vận Lục Âm chi quái. Đáng thưởng thì thưởng, lấy Xuân làm sinh khí. Đáng phạt thì phạt lấy Thu làm sát khí. Đáng tối thì tối. Thu liễm Dương Khí để ứng Hàn. Đanùg sáng thì sáng chấn phát Dương Khí để ứng Thử. Nhất Thưởng Nhất Phạt, ứng Xuân Thu chi khí. Thế là Hình Đức đều đáng, Thưởng phạt phân minh. Hoặc tối hoặc sáng, thuận theo tiết trời Nóng Lạnh. Thế là Tối Sáng có thời, tiến thoái đúng điệu. Một Hỉ một Nộ, bắt chước hào Nhân Nghĩa, thế là Hỉ Nộ được thường, sinh sát hữu đạo. Thế là Tứ Thời ứng và ngũ hành thuận, và đan đạo cũng xong. Vả Đơn Đạo cốt điều hòa tứ tượng, toản thốc Ngũ Hành. Tứ Tượng hòa, Ngũ Hành toản, Đan Đầu đã được, thêm một bước nữa, là có hi vọng đi vào Đại Đạo.
Trở Lại Mục Lục |