Đàn HÀ THANH Tuất thời 12.07.AL.86
KIM THÂN – BÁT NHÃ PHÁP
ĐẠO TRƯỜNG SANH – 81 NẠN – TAM TAI THIÊN ĐƯỜNG ĐỊA NGỤC HÀ THANH CHƯỞNG GIÁO Thầy mừng các môn đồ đệ tử – các con an tọa nghe Thầy chỉ giáo.
Tây Phương muốn đến phải dày công
Son sắt thủy chung mãi một lòng
Bốn buổi công phu đừng thiếu sót
Đủ đầy mới dự được Hoa Long.
Long Hoa Đại Hội cũng gần khai
Tuyển chọn thí sinh đủ đức tài
Một kiếp tu hành công cực khổ
Rồng mây hội hiệp cũng gần ngày.
Gần ngày các trẻ phải toan lo
Trì hoãn con ôi phải trễ đò!
Tiếng trống trường thi Thầy đã điểm
Ai là Sĩ Tử phải mau lo.
Thiên Địa Tuần Hườn – Châu Nhi Phục Thỉ
Một cuộc tuần hoàn có Ba Ngươn, mỗi ngươn có một độ thâu duyên Long Hoa Hội, là tuyển trạch Hiền Lương Thiện Sĩ, đó là Công Lệ Thiên Điều Càn Khôn dĩ định. Mỗi ngươn hội, Thầy đem con cái của Thầy, những con nào đủ tài đủ đức được trở về Đồng Nhất cùng Đại Từ Phụ, lập sự Càn Khôn, chuyển luân Hoàn Vũ, đó là hành Chánh Đạo Thiên Cơ.
Nay Hạ Ngươn hầu mãn, đã đến lượt thâu duyên, theo lệ ấy thì cuộc tuần hoàn dĩ đáo. Các con duyên may sinh ra nhằm lúc Đạo Khai, Thiên Hoàng mở Hội, gặp lúc trở về nguồn cội, hưởng Ân Xá của Đại Từ Phụ thì phải ráng nỗ lực tiến lên, đoạt thủ công phu mà dự cùng Tạo Hóa. Đó là mình lập Vị cho mình, qua Hội này lập lại Thượng Ngươn thì luật Ân Xá không còn nữa. Vậy các môn đồ đệ tử phải ráng!
Chúng sanh nhờ Phật mà được hiển hóa, phật nhờ chúng sanh mà luyện được vóc Kim Thân. Không có chúng sanh thì Phật không thành, vậy trong sự tiếp độ phải dùng Bát Nhã Pháp, đó gọi là Thuyền Từ, là Pháp Luân Thường Chuyển. Pháp Luân Thường Chuyển là Đại Bát Nhã – Đáo Bỉ Ngạn, Luyện Tinh Hóa Khí, Khử Trược Lưu Thanh.
Nhưng vóc Kim Thân phải dùng Thanh Chất Tịnh Vật, tức là phải Trường Chay. Xưa nay Tam Giáo đều lấy chỗ Thanh mà làm căn bản, bởi cái Thanh là gốc ở Tiên Thiên, mà Kim Thân tức là Khinh Khí. Trường Trai để xác thân được sạch, kế đến Tinh Hóa Khí là giai đoạn Sãi hóa, Khử Trược Lưu Thanh. Lưu Thanh là giữ Thanh, là lấy Tinh Ba Thanh Chất để hườn vóc Kim Thân, vì Kim Thân không thể dùng trược chất mà luyện được.
Ăn mặn cũng hườn Nhị Xác Thân đặng vì cũng là Luyện Tinh Hóa Khí, nhưng cái trược chất của động vật không thể Siêu Xuất Tam Giới để nhập vào Tiên Thiên. Khi phân định Càn Khôn, Thanh thăng Trược giáng thì Thanh với Trược không thể lẫn lộn, còn một hạt bụi, một vi trần cũng phải lắng đọng.
Thời nay có nhiều pháp môn cũng biết cách Luyện Tinh, còn ăn mặn cũng hườn Nhị Xác Thân, ấy chỉ vì một chút mê lầm chưa rõ thông các lẽ Lưu Thanh Khử Trược thành ra ngộ nhận, một ngộ nhận sai lầm tai hại mà uổng một đời tu phải sa vào Tà Pháp, phải vướng nẻo luân hồi mà không phương giải thoát.
Vì một khi ăn mặn mà kết Nhị Xác Thân thì trược khí không thể giải tán, Hồng Châu không Siêu Xuất Tam Giới đặng vì nó không phù hợp với Tiên Thiên Khí. Có Chơn Tâm mà phải kẹt lại hồng trần, không ra khỏi vòng địa giới mà lên chỗ Cao Thanh cho được, vì Kim Thân của trược khí thì không thể Thượng thăng, bởi vì trược khí là vật tiếp điển ( bon conducteur d’électricité ) thì chưa ra khỏi lằn không khí đã bị Lôi Điển ( Sét ) đánh tan ra tro bụi. Còn nếu biết khôn mà ẩn tránh nơi cõi hồng trần làm Địa Tiên thì kiếp đọa đày cũng chưa mãn. Vì lẽ ấy mà giữ lấy trai giới tinh nghiêm, phải Trường Trai mới luyện Đạo đặng. Điều này các con cần phải hiểu rõ, phải suốt lý, bằng không thì phải bị Thiên Ma nhập trí làm loạn Cái Tâm thì phải lâm vòng Đại Khảo.
Đường Tăng ngày xưa Nhứt Tâm, Nhứt Đức, Nhứt Niệm, một lòng tưởng Phật, nghe đến Yêu Tinh thì trong lòng đã khiếp sợ. Thế mà vẫn bị Yêu Tinh đón ngõ ngăn đường, nạn nọ tai kia không dứt, nhưng trước sau vẫn một lòng thành tâm chí quyết nên kết cuộc đến được Lôi Âm bái Phật. Còn các môn đồ đệ tử ngày nay cũng muốn đến Tây Phương lạy Phật, nhưng nghe đến Yêu Tinh thì đã không sợ mà còn đùa giỡn với Yêu Tinh. Yêu Tinh ở trước mặt thì Tiên Phật ở phía sau lưng, một bước tiến mà hai bước thối, đi như vậy thì chừng nào mới đến Tây Phương Phật Cảnh? Vì sao Yêu Tinh lại muốn ăn thịt Đường Tăng? Bởi còn mang phàm thân nhục thể nên phải đối đầu với Yêu Tinh, Tinh đó là Tinh của xác phàm. Còn Phật Như Lai đã đắc Kim Thân không còn nhục thể nên không bị Yêu Tinh phá nữa. Kim Thân của Phật là Tinh đã hóa Thần nên Yêu Tinh không thể ăn thịt được, mà chỉ ăn thịt được xác phàm. Nhưng không phải thịt của Đường Tăng là quý, mà quý đây là quý cái Đạo Trường Sanh, là Bát Nhã Pháp. Yêu Tinh muốn ăn thịt Đường Tăng là muốn phá tan cái Đạo Bát Nhã Pháp, là vì Pháp Đạo Trường Sanh luyện Mạng, khi hườn nguyên Tam Bảo thì đắc quả Trường Sanh. Bị cướp mất Tinh Ba là bị ăn thịt đó!!!
Người đời mê muội đắm chìm trong tình thương dục hải, đùa giỡn với Yêu Tinh, đem mạng sống mình mà giao cho Yêu quái, ngày lại ngày qua nó giết lần mòn cơ thể, nó cướp đoạt Tinh Thần mà phá tan Tam Bửu, Thiên hạ thế gian đã bị nó ăn thịt mà nào hay biết!
Còn Bát Nhứt kiếp tai, 81 nạn của Đường Tăng là: “ Vô Cực Huyền Công Cửu Chuyển Bát Nhứt Đơn”. Sao gọi là nạn?
Thắng được lòng mình là chuyện khó, thắng được Yêu Tinh hết sức trở gay, vì cái liên hệ ở chỗ Tánh – Mạng, chỗ sanh tử luân hồi mà mình vượt qua được, đó là một nạn. Cửu Chuyển Bát Nhứt Đơn là 81 nạn của Đường Tăng cũng là chỗ Hoàn Đơn Đại Dược. Một cuộc thư hùng Xiển – Triệt, Phật phải đủ mạnh để thắng Yêu, đó là một cuộc chiến đấu cam go trên con đường Tây Phương Kiến Phật. Nhưng theo Tây Du Dẫn Truyện, nguyên bản của Trường Xuân thì chỗ Hườn Đơn Bát Nhứt tức là chỗ Thông Thiên Hà, Thủy Ngươn xuất hiện. Một điều nan giải là chỗ Đường Tăng bỏ xác ở Lăng Vân Độ, tại sao đã bỏ xác phàm, đã Thần hóa hiển đắc Kim Thân mà còn một nạn chót? Chỗ này Tiên Phật xưa nay đắc Đạo không hề gặp, vậy mà đối với Trường Xuân Chơn Nhơn lại có trường hợp này. Thế thường khi công thành quả mãn, bỏ xác thì Đạo Thành, nghiệp trần cũng dứt thì còn nạn chi mà Trường Xuân lại còn một nạn chót là Đắc Kim Thân mà chưa Quy Túc? Trường Xuân liễu Đạo tại thế nhưng không bỏ xác như trong Tây Du Dẫn Truyện của Huyền Trang. Đắc Kim Thân mà chưa Quy Túc là còn Thủy Ngươn, tức Huyền Võ Thần cư tại Bắc Hải. Huyền Võ là Linh Quy, cũng gọi là Thủy Ngươn trên sông Thiên Hà đã lâu mà không được thành người. Theo pháp ý của Thầy là chưa được Thần hóa.
Thông Thiên Hà là con sông nối liền Trời Đất, Thủy Ngươn sắp được Thần hóa vì tu đã lâu năm, biết nói tiếng người, đã có Nội Đơn, tức là đã có Ngọc. Thủy Ngươn nhờ Đường Tăng bạch Phật hỏi dùm chừng nào được làm Người. Đường Tăng quên hỏi, đến
khi Thủy Ngươn nhắc lại thì Đường Tăng mới sực nhớ ra mình đã phạm một lỗi lầm vì đã quên lời hứa. Trong cơn bối rối, Đường Tăng mới hội ý với Ngộ Không, tức là cái Bản Tâm của mình, ứng dụng vi diệu mà đáp lời Thủy Ngươn rằng : “ Chừng nào Thủy Ngươn nhả hột Minh Châu ra ngoài thì được làm người”, Thủy Ngươn mừng rỡ liền hả miệng, Châu bay lên không, Thủy Ngươn tức là Thần hóa biến mất. Thần hóa tức là Khí hóa, tức là biến mất, vì Châu Linh phi Thượng, bốn Thầy trò sa xuống nước, chìm mất kinh kệ. Ngộ Không đã diều độ Thầy lên bờ, còn Ngộ Năng, Ngộ Tịnh thì lo vớt Kinh không cho bị mất. Vì Tam Tạng đã đắc Kim Thân không chìm dưới nước nên Ngộ Không phò Thầy vào bờ dễ dàng. Đây là nạn chót, nhưng cũng là chỗ hườn Đơn, Bát Nhứt Viên Mãn Báu Linh. Còn Ba hạn lớn là Tam Tai, vì người tu hành đắc Đạo phải bị Tam Tai. Tam Tai đây thì ở trình độ đắc Tam Phẩm Kim Đơn, vào hàng Đại Giác Kim Tiên Chánh Đẳng Chánh Giác, có Kim Thân mới có Tam Tai, gọi là Tam Tai chứ chẳng có tai nạn gì cả, cũng như Cửu Chuyển Bát Nhứt Đơn gọi là 81 nạn của Đường Tăng. Tam Tai lần thứ nhất là Lôi Điển, kế là Thiên Hỏa, kế là Thiên Phong, nhưng cũng tùy theo trình độ Đắc Đơn của mỗi Hành Giả. Tam Tai ấy để luyện cho vóc Kim Thân viên mãn cho đủ Thần đủ đầy Hỏa Hầu.
Lôi Điển là Sấm của Trời, tức là Ngộ Không Hành Giả phải chịu cho Lôi Công thử phép bằng Lôi Điển, đó là ở Bực Thiên Tiên Nhứt Đẳng. Luyện hỏa hầu là Thiên Tiên Nhị Đẳng. Luyện Thiên Phong là Thiên Tiên Tam Đẳng. Đều là hàng Thiên Tiên bực thấp, một phẩm Kim Đơn cũng đắc Trường Sanh, nhưng cũng phải chịu Thiên Phong thử luyện. Ba giai đoạn này gọi là Tam Tai, là Ba lần thi khảo cho vóc Kim Thân đủ đầy Thần Lực chớ chẳng phải là tai nạn gì cả, người tu không hiểu nên lấy làm hoang mang lo sợ.
Bởi kẻ Ngộ Đạo, Đắc Đạo là kẻ đã đủ đầy phước đức, được Thầy là Đấng Chí Tôn ban cho mối Đạo, tức là đem Từ Thoàn đến rước thì sao còn bị Tam Tai? Đó chẳng qua là lời nói để diễn đạt Ý Pháp, các con chớ nhầm lẫn. Kim Thân có giống xác phàm chăng?
Xác phàm là hậu thiên nhục thể, Kim Thân là Tinh Ba luyện thành, đã khử trược rồi thì không còn giống. Thanh trược khác nhau xa, cả về mặt phẩm chất lẫn tinh thần. Còn sống tại thế gian, còn mang xác phàm thì còn nghiệp quả, còn bệnh tật này nọ, thân thể bất túc. Còn Kim Thân thì không có những điều ấy. Kim Thân đã Thuần Dương, không còn nghiệp quả bệnh tật vì là Kim Thể Thiên Tiên trọn vóc. Kim Thân viên mãn là 12 năm, thể tướng ấy giống như Đồng Tử 12 tuổi, tức là Phản Lão Hoàn Đồng.
Phật Tiên nào cũng vậy, một vóc như nhau, không già không trẻ, ở trạng thái Viên Mãn Báu Thân tròn đầy một vóc, ấy thì đâu còn giống xác phàm, cũng như con đâu giống cha mẹ, chỉ giống một phần nào mà thôi. Kim Thân cũng có giống xác phàm, nhưng một phần nào thôi, còn về những phương diện khác thì hoàn toàn đổi mới. Kim Thân khi trọn vóc thì tất cả đều giống nhau? Mỗi người một vẻ, không ai giống ai. Không giống mà giống vì đồng phẩm chất, đồng là Khí Tiên Thiên nhưng nét dị biệt ở mỗi người mỗi khác. Khi hườn quy Nhứt Pháp Nhứt Thể thì là Một Khối Đại Đồng, bất khả phân mà khả phân.
Đã đắc Kim Thân thì là trọn vóc, không một Kim Thân nào mà không trọn vóc cả. Nhưng có một trường hợp của Ngọc Minh Chơn Tiên vừa mới Đắc Đạo, đó là Đắc Kim Thân mà còn thiếu Hỏa Hầu. Thầy ví như Thai phàm chưa đủ tháng mà sanh, cần phải tiếp thêm Hỏa Hầu thì hài nhi mới cứng cáp khỏe mạnh.
Kim Thân là cái vóc Tiên Thiên Khinh Khí, bao bọc Như Lai Tự Tánh là Tiên Thể, một lớp Khí Quang nương với Hồn mà được Trường Sanh Bất Tử, đó là Khinh Khí. Còn Phật Tánh là Nguyên Tử, còn Tiên Y khoác bên ngoài vóc Kim Thân đó là Hào Quang. Bởi Tiên Thể là Phật Tánh, khinh khí là vóc Kim Thân là Thân Phật bao ngoài. Tiên Thể trong KimThân đó là Hồn Phật trong Xác Phật, là khinh khí hiệp với nguyên tử, là Khí hiệp với Thần sanh ra Ánh Sáng bao bọc vóc Kim Thân ở ngoài. Tiên Y là Thượng Trí, do đâu mà có Thượng Trí? Do bởi đủ đầy Hỏa Hầu, Thần Lực Thuần Dương, phát sanh Ánh Sáng cao độ gọi là Trí Huệ.
Con người sở dĩ khác nhau ở trình độ, kẻ thì thông minh, người thì u tối do bởi thụ bẩm cái Khí Tiên Thiên. Cái Thanh Khí tiếp trợ cho Ngươn Thần thì Thần được sáng. Cái Trược tiếp trợ cho Thần thì Thần phải u tối. Bởi cái Khí là Nhiên Liệu của Thần, cũng như khi thắp đèn, đèn sáng tỏ là nhờ nhiên liệu tốt. Bởi Thần với Khí liên hệ thật chặt chẽ, nên cái Khí Thanh Trược có ảnh hưởng lớn lao đối với Thần là như thế. Con người sáng, tối, thông minh hay đần độn là do đó, do thụ bẩm cái Khí, cũng do trình độ tiến hóa của Linh Căn ấy. Do ở trình độ nào thì tiếp thu ở trình độ ấy. Thật nhiệm mầu thay cho một Hơi Thở Hấp Hô Chi Khí. Hô Hấp là tiếp nhận nguồn sống của Vô Cực, là Hồng Ân của Đại Từ Phụ ban sự sống cho mỗi con cái của Ngài. Nhưng vì trình độ chẳng đồng, sự tu tiến có khác nhau nên hưởng thụ Hồng Ân có khác.
Khổng Phu Tử có phân ra ba hạng người:
- Bậc Thánh: chẳng dạy mà thông “ Bất Giáo Nhi Thiện”, vì Bậc Thánh ở trình độ cao,
điển lực tốt nên tiếp nhận Dương Khí đủ đầy ở mức cao.
- Bậc thường nhơn: là “ Giáo Nhi Hậu Thiên”, bẩm thụ cái khí hồng trần, nửa thanh nửa trược. - Bậc mê nhơn muội trí: là ở trình thấp nên tiếp thụ Hồng Ân cũng thấp, hấp hô Trược Khí nên muội trí Mê Tâm.
Mỗi con hưởng Hồng Ân khác nhau, ấy là do sự tu tiến của mỗi con, nên Hồng Ân cũng vừa phải, tùy theo công quả của mỗi con vậy.
Thật là cái Đạo Nhiệm Mầu, Thầy – Mẹ là Huyền Năng Vô Cực, giáo hóa dạy dỗ,
dưỡng dục từng con một không sai sót. Thầy đã dạy:
Thiên Đường – Địa Ngục cũng tại Tâm.
Tâm sáng suốt thiện từ là Thiên Đường.
Tâm mê muội ác độc là Địa Ngục.
Nếu không Thiên Đường – Địa Ngục thì giềng mối Càn Khôn ai nắm? Kẻ có công không được thưởng, người bị tội không bị phạt trừng. Không có Thiên Đường – Địa Ngục thì không có phân thanh biện trược, không có hình phạt, thưởng công thì không còn có Thiên Điều.
Dĩ nhiên là phải có Địa Ngục, muốn biết Địa Ngục thì đừng tìm đâu xa, hãy ngó lại Tâm mình, bởi vì từ đây dẫn lối lên Thiên Đàng và cũng từ đây mà sa Địa Ngục. Thiên Đàng – Địa Ngục nếu muốn biết rõ thì hãy xét ở cái chỗ Khí, cái Diệu Trí. Con người thông minh, Thánh Trí, hiểu rõ Lý Chơn là nhờ bẩm thụ cái Thanh Khí của Trời, cái Thanh Khí vốn là cái Thượng Trí mà Thầy vừa giải minh. Thanh Khí đã thị hiện là Hằng Tâm ứng hiện Thiên Đàng. Còn Trược Khí nhập Tâm thì con người mê muội, Trược Khí là từng Khí thấp nặng nề u ám, là Địa Ngục đó.
Thập Điện Diêm Vương nắm về Hình Luật, cai quản tử sanh tội phước mà điều khiển Vạn Linh sanh chúng, nên mới có tấn hóa, có thưởng phạt. Sau khi Linh Hồn đã được phán xét, đã được kết án, được xét rõ công quả tội phước thì phải chuyển kiếp đầu thai. Tại thế gian này, người mà tiền căn đủ đầy phước đức, khôg phạm lỗi lầm, không mang nghiệp quả thì hưởng cảnh giàu sang, sung sướng khỏe mạnh. Còn những kẻ bị phạt thì chịu nghèo đói, bệnh tật, nạn tai… Đó là tội nhẹ, còn nặng hơn thì phải chịu thối chuyển làm Thú Cầm. Thiên Đàng – Địa Ngục thị hiện tại thế gian này. Làm người sanh ra ở cõi này thì không ai ra ngoài luật đó, các con nên hiểu rành để không còn nghi kỵ. Địa Ngục là như thế, đó là Thiên Điều để sửa trị toàn linh sanh chúng. Nếu không có Thiên Điều thì Càn - Khôn không phân định, Thiện – Ác chẳng phân minh, Phật – Yêu không phân biệt thì các đẳng chúng sanh còn biết do đâu mà tiến hóa? Phật – Tiên do đâu mà lập vị? Thiên Đàng – Địa Ngục không phải là điều huyễn hoặc. Đó là lẽ nhiệm mầu của Tạo Hóa, là sự phân định Càn – Khôn, là sự Lưu Thanh Khử Trược của Vũ Trụ.
Các con đã thọ pháp hành trì “ Luyện Tinh Hóa Khí”, “ Lưu Thanh Khử Trược” là để chọn cho mình con đường thẳng tiến đến Thiên Đàng chớ đừng lầm vào Địa Ngục. Thiên Đàng – Địa Ngục chỉ có một con đường duy nhứt, đường ấy gọi là Chơn Dương Chánh Đạo, gọi là Thông Thiên Hà, là con sông Thấu Trời Triệt Đất. Con đường ấy, hễ lên là Thiên Đàng, xuống là Địa Ngục. Chỉ là Nhứt Giáng Nhứt Thăng, chỉ là Thanh với Trược, có Siêu có Đọa đó thôi!.
Thôi ! Đêm nay Thầy dạy bấy nhiêu cũng đã đủ. Đêm mai Tuất thời Thầy dạy tiếp.
Thăng!