TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ TOÀN THƯ

ĐỆ THẤT TIẾT KHẨU QUYẾT

ANH NHI HIỆN HÌNH, XUẤT LY KHỔ ẢI

第 七 節 口 訣 : 嬰 兒 現 形, 出 離 苦 海

Trước đây, hoả hầu đã đủ, Thánh Thai đã tròn. Nếu trái chưa chín, anh nhi mới sinh, phải trải mười tháng, mới xuất bào thai. Thích thị gọi là Pháp Thân, hay thực tướng; đạo Lão gọi là Xích Tử hay Anh Nhi.

Anh Nhi thoát bào thai, liền nhảy ra ngoài. Ẩn thân tại Khí Huyệt, và tạo lại một Hỗn Độn mới. Huyệt này chính chính là nơi Thần Tiên trường thai, trú tức, là nơi Xích Tử an thân, lập mệnh. Vì thế rành đường lối, biết thuận chiều trở về.

Anh Nhi đã ở yên trong tĩnh thất, trong đạo trường, thì phải bảo tàng nó cho kỹ lưỡng, phải yên lặng gìn giữ nó. Trước hết phải dùng Khôn Mẫu Huỳnh Nha mà nuôi nó (tức là dùng Nguyên Khí, Nguyên Thần), sau đó phải tích tụ sinh khí của trời đất mà bú mớm nó. Cái này cảm, thì cái kia ứng, khi phát xuất thì gần, mà khi trông thấy thì xa. Trong đó, tự hô, tự hấp, tự hợp, tự khai, tự động, tự tĩnh, tự do, tự tại, như tần tiên tiêu giao nơi Vô Hà Hữu chi hương, y như Như Lai thiền định nơi bể tịch diệt.

Khi đã đạt được đại an lạc rồi, thì cần bảo hộ Đan Điền (Quan Nguyên), không cho Lục Trần xâm nhập, không để phiền não nhiễu loạn. Hoặc ngồi, hoặc nằm, phải luôn luôn thanh tĩnh. Hoặc đứng, hoặc đi, lúc nào cũng gia công tu trì, sao cho sáu cửa (lục căn, lục trần) kín đáo vô lậu, con đường vận chuyển, tuần hoàn luôn thông suốt. Chân thể mà được vậy, thế là đan cơ bền vững vậy. Sáng chiều hộ trì, bảo thủ như vậy, như Rồng dưỡng châu, như mẹ nuôi con, không giây phút nào được lãng quên, không một sát na nào quên chiếu rọi.

Chung Ly Ông viết:

Hài nhi ấu tiểu, vị thành nhân,

 孩 兒 幼 小 未 成 人,

Tu tạ Khôn nương dưỡng dục ân.

 須 藉 坤 娘 養 育 恩.

Anh nhi còn bé chửa thành người,

Phải biết ơn nhờ mẹ đất nuôi.

Lại viết:

Dĩ chứng Vô Vi, Tự Tại tâm,

 已 證 無 為 自 在 心,

Cánh tu ôn dưỡng bảo toàn chân.

 更 須 溫 養 保 全 真.

Đã chứng Vô Vi, Tự Tại tâm,

Phải tu ôn dưỡng, bảo toàn thân.

Lý Thanh Am viết:

Đan tòng bất luyện, luyện trung luyện,

 丹 從 不 煉 煉 中 煉,

Đạo hướng Vô Vi vi xứ vi.

 道 向 無 為 為 處 為.

Tức niệm, tức duyên điều tổ khí,

 息 念 息 緣 調 祖 氣,

Vong văn, vong kiến dưỡng Anh Nhi.

 忘 聞 忘 見 養 嬰 兒.

Đan luyện tự nhiên, không gắng sức,

Đạo cũng Vô Vi chẳng thiên vì.

Xả niệm, xả duyên điều hô hấp,

Chẳng nghe, chẳng thấy dưỡng Anh Nhi.

Lữ thuần Dương viết:

Phúc nội Anh Nhi dưỡng dĩ thành,

 腹 內 嬰 兒 養 已 成,

Thả cư triền thị tạm ngu tình.

 且 居 廛 市 暫 娛 情.

Vô đoan thố đại cương nhiêu thiệt,

 無 端 措 大 剛 饒 舌,

Khước nhập bạch vân thâm xứ hành.

 卻 入 白 雲 深 處 行.

Anh nhi trong dạ đã dưỡng thành,

Tạm thời vui sống chốn thị thành.

Tự nhiên có kẻ mong cãi lộn,

Ta đạp cưỡi mây viễn xứ hành.

Ôn dưỡng Anh Nhi laø đại sự của thần tiên, nếu dưỡng dục không đúng cách, Anh nhi có thể chết, vì thế phải đề phòng, không được khinh suất làm bậy, vì một khi đã đi vào mê đồ, thì không biết đàng trở lại. Vì thế Bạch Ngọc Thiềm than: Trùng chỉnh điếu như can, tái chước thu quân tiết 重 整 釣 魚 竿, 再 斫 秋 筠 節 (làm lại cần câu, chặt lại cánh trúc mùa thu).

Thượng Dương Tử viết:

Ký đạt phản hoàn cửu dữ thất,

 既 達 返 還 九 與 七,

Thử tức Mộc Kim tam ngũ nhất.

 此 即 木 金 三 五 一.

Khí toàn thần tráng hoán thai thời,

 氣 全 神 壯 換 胎 時,

Chiếu hoạch Anh Nhi hưu viễn xuất.

 照 獲 嬰 兒 休 遠 出.

Nguyên thần, Nguyên khí đã phản hòan,

Thế là Thần Khí đà hợp nhất.

Anh Nhi khi mới định thóat thai,

Phải lo bảo hộ đừng để mất.

Khẩu quyết phòng ngừa: Mật cố tam yếu vi cẩn 密 固 三 要 為 謹.

Tham đồng Khế viết:

Nhĩ, mục, khẩu tam bảo,               耳 目 口 三 寶.

Bế tắc vật phát thông,                   閉 塞 勿 發 通

Chân nhân tiềm thâm uyên,         真 人 潛 深 淵

Phù du thủ qui trung.                      浮 游 守 規 中

Tai, miệng, mắt là tam bảo,

Giữ kín chẳng phát thông,

Thánh Nhân ẩn đáy vực,

Bơi lội trong Đan Điền.

Phép đó chỉ là: Lấy mắt nhìn mắt, lấy tai nghe tai, lấy mũi điều mũi, lấy mồm khoá mồm, tiềm tàng, phi dược tại Chính Nhất Tâm. Ngoài thì không để cho Thanh, Sắc, Xú, Vị đẩy đưa, trong thì phải vô ý, vô tất, vô cố, vô Ngã. Có vậy lòng ta mới hư minh, vạn duyên mới trừng triệt, và Xích Tử trong ta mới được an nhiên tự tại.

Tuy nhiên, ngoài việc giữ gìn tai, mắt miệng (tam yếu), còn phải trừ Tam Hại bên trong. Tam Hại là: Tà niệm, phiền não, và sân nhuế vậy. Vì thế, Đạo Giác thiền sư nói: Tu thử giới, định, tuệ, Đoạn bỉ Sân, Tham Si 修 此 戒,,, 斷 彼 嗔, 貪 痴 (Tu Giới, Định, Tuệ, trừ diệt Sân, Tham Si).

Tham Si còn dễ trị, Tức Giận khó phục hàng.

Thánh Thai Quyết nói:

 Sân khuể chi hoả nhất nhiên,

 嗔 恚 之 火 一 燃,

Thai chân khứ như bôn mã.

 胎 真 去 如 奔 馬.

 Trực đãi hoả diệt, yên tiêu,

 直 待 火 滅 煙 消,

 Phương tài qui vu lô xá.

 方 才 歸 于 廬 舍.

 Sân khuể chi hoả vừa cháy,

Chân Thai như ngựa bôn phi.

Đợi cho lửa tắt, khói tiêu,

Đơn sẽ qui về Lô Xá.

Tống Nho cũng nói:

Dục hoả bất trừng,

欲 火 不 澄

Tất hữu Liêu nguyên chi hoạn.

必 有 燎 原 之 患

Dục thủy bất trất,

欲 水 不 窒

Khởi vô hội xuyên chi tai.

豈 無 潰 川 之 災

Lửa giận không trừ,

Chắc sẽ có nạn cháy rừng.

Nước tham không khống chế,

Sẽ có chuyện vỡ đê diều.

Viên Giác Đạo Tràng Tu Chứng Nghi có nói:

Nhất niệm sân khởi,

一 念 嗔 起

Cụ bát vạn chướng môn.

具 八 萬 障 門

Kim dục khứ sân chi pháp,

今 欲 去 嗔 之 法

Duy tông Lão Tử chi nhật tổn,

惟 宗 老 子 之 日 損

Chu Dịch chi trừng phẫn,

周 易 之 懲 忿

Thế tôn chi giác chiếu.

世 尊 之 覺 照

Cơn giận vừa nổi,

Trăm vạn chướng ngại sinh.

Muốn trừ được lửa giận,

Phải Giảm hoài theo Lão Tử,

Phải Trừng Phẫn theo Chu Dịch,

Phải Giác Chiếu theo Thế Tôn.

Cao Tăng Diệu Phổ viết:

Sân Hoả chính nhiên thời,

嗔 火 正 燃 時

Ngã dĩ Giác chiếu chi.

我 以 覺 照 之

Do như thang tiêu băng,

猶 如 湯 消 冰

Liễu Liễu vô phân biệt.

了 了 無 分 別

Lửa giận khi vừa cháy,

Ta dùng Tuệ Giác soi.

Như nước sôi tan băng tuyết,

Chắc chắn không hề sai.

Sân hoả không có thực thể, đều sinh ra từ Vô Danh. Bảo Tích Kinh có kệ: «Như dùi gỗ lấy lửa, đều phải nhờ vào nhân duyên. Nếu nhân duyên mà không hoà hợp, thì lửa sẽ không sinh. Như vậy sẽ không vừa ý. Thực tế thì tất cả đều không có y cứ. Nên biết Thanh, Tính đều là Không. Nên cơn giận không còn sinh. Giận không do nơi Thanh, cũng không có chỗ trú trong người. Có đủ duyên thời sinh, không đủ duyên thời không sinh. Như sữa mà đủ nhân duyên, sẽ sinh ra tô lạc (kem). Giận là vì mất bản tính, hay là vì làm những chuyện xấu xa, người ngu không biết đạo lýù, nên lửa phiền não bốc cháy. Nếu biết được như vậy, thì mọi sự đều không có gì. Và sân hận sẽ thành tịch tĩnh (không còn). Nó chỉ còn cái tên xuông. Sân hận thực tế chỉ là Chân Như. Nếu hiểu được như vậy, thì là giác ngộ vậy.»

Ngọc Tích Kinh còn nói: «Biết được lẽ tự nhiên này, sẽ phá được cái xác Vô Danh đó. Và Vô Danh sẽ biến thành ngọn đuốc trí huệ, và lửa giận sẽ biến thành chiếc Đèn Lòng. Sân hận đã trừ, thì 84.000 phiền não cũng tiêu.

Phật Kinh cũng nói: Chư ma bình đẳng, phiền não vi tiên 諸 魔 平 等, 煩 惱 為 先

(Tất cả yêu ma quỉ quái, thì phiền não đứng đầu).

Lại nói: Hiện trú Bồ Tát ma, phiền não diệc vô hữu 現 住 菩 薩 魔, 煩 惱 亦 無 有

(Trong các ma quấy Bồ Tát, không có phiền não trong đó).

Lại nói: Trí giả vu khổ lạc, bất động như hư không. Thiện quan sát phiền não, ngã ngã sở câu ly

者 于 苦 樂, 不 動 如 虛 空. 善 觀 察 煩 惱, 我 我 所 俱 離.

(Người khôn ngoan coi sướng khổ đều như là hư không. Quan sát kỹ phiền não, thấy ta không dính bén).

Lại nói: «Bồ tát đại bi, không nhiễm phiền não, nhân thấy rằng phiền não của chúng sinh, đều là hư giả, đều do vọng tưởng sinh ra. Nếu biết rằng tất cả phiền não, đều lìa xa bản tính. Hiểu được như vậy, thế là bồ đề. Tính của phiền não, là tính bồ đề, đều là Đạo Tính, là Giác Ngộ tính.»

Lại nói: «Phiền não cảnh là cảnh Phật, thấy tính của Phiền Não là Không, đó là Tu Hành đúng đường lối.

Lại nói: Dục trừ Phiền Não, đương hành Chánh Niệm 欲 除 煩 惱, 當 行 正 念 (Muốn diệt trừ phiền não, phải hành Chánh Niệm).

Tứ Tổ cũng nói: Nhất thiết phiền não nghiệp chướng, bản lai không tịch 一 切 煩 惱 業 障, 本來 空 寂
(Nhất thiết phiền não, nghiệp chướng, thật ra là không).

Xét kỹ kinh sách Phật, đều nói là Phiền Não tính vốn không, không gây trở ngại, y như mộng ảo, không đáng để tâm. Nếu nó xúc phạm ngoại cảnh, thì chẳng qua như tiếng vang, sinh ra sau tiếng nói, xong rồi liền hết. Nếu vậy, phiền não, trần lao không đợi cho đến khi ta chết đã tự tiêu trước rồi. Thai Chân Xích Tử không nhờ vào chuyện tu luyện giả tạo mà vẫn Linh hoạt được,

Kinh còn nói:

Dĩ Trí Tuệ Kiếm, phá phiền não tặc,

 以 智 慧 劍 破 煩 惱 賊,

Dĩ Trí Tuệ Đao Liệt phiền não cương,

 以 智 慧 刀 裂 煩 惱 綱,

Dĩ Trí Tuệ Hoả thiêu phiền não tân.

 以 智 慧 火 燒 煩 惱 薪.

Dùng Gươm Trí Tuệ phá phiền não tặc,

Dùng Dao Trí Tuệ cắt lưới phiền não.

Dùng Lửa Trí Tuệ đốt củi phiền não.

Tăng Viên Chiếu nói:

Đối trị phiền não ma,

對 治 煩 惱 魔

Thanh tĩnh thường hoan hỉ.

清 靜 常 歡 喜

Muốn trữ ma Phiền Não,

Thanh tĩnh thường hoan hỉ,

Bàng Cư Sĩ viết:

Đế quan Tứ Đại bản không,

諦 觀 四 大 本 空

Phiền não hà xứ an cước?

煩 惱 何 處 安 腳

Nhìn xem Tứ Đại vốn không,

Phiền não đặt chân chỗ nào?

Triều Văn Nguyên nói:

Thân đồng mộng ảo phi chân hữu,

 身 同 夢 幻 非 真 有,

Sự tỉ phong vân bất cữu lưu.

 事 比 風 雲 不 久 留.

Ký năng động đạt tu cương đoạn,

 既 能 洞 達 須 剛 斷,

Phiền não ma không quá tức hưu.

 煩 惱 魔 空 過 即 休.

Thân như mộng ảo không có thật,

Sự như phong vân không bền lâu.

Hiểu được điều này, phải cắt đứt mọi sự,

Phiền não ma vốn là không, thế là xong.

Trương Tử Dương nói:

Khả vị Đạo cao Long Hổ phục,

 可 謂 道 高 龍 虎 伏,

Kham ngôn đức trọng quỉ thần khâm,

 堪 言 德 重 鬼 神 欽.

Dĩ tri thọ vĩnh tề Thiên Địa,

 已 知 壽 永 齊 天 地,

Phiền não vô do cánh thượng tâm.

 煩 惱 無 由 更 上 心.

Nếu Đạo cao, khiến Rồng, Hổ phục,

Nếu Đức trọng khiến Quỉ Thần nể.

Nếu biết mình thọ cùng Trời Đất,

Thì đâu còn để tâm đến phiền não?

Lục Tổ Đàn Kinh viết:

Phàm phu tức Phật,

 凡 夫 即 佛,

Phiền não tức Bồ Đề.

 煩 惱 即 菩 提.

Tiền niệm mê tức phàm phu,

 前 念 迷 即 凡 夫,

Hậu niệm ngộ tức Phật.

 後 念 悟 即 佛.

Tiền niệm trước cảnh tức Phiền Não,

 前 念 著 境 即 煩 惱,

Hậu niệm ly cảnh tức Bồ Đề.

 後 念 離 境 即 菩 提.

Phàm phu tức là Phật,

Phiền não tức Bồ Đề.

Niệm trước còn mê là phàm phu,

Niệm sau đà ngộ tức Phật,

Niệm trước còn vướng cảnh là Phàm Phu,

Niệm sau thoát cảnh là Bồ đề (Đắc Đạo).

Sách Anh Lạc Kinh nói: «Phật nói: Ta từ trước đến nay, không được phép nào, chỉ cần Định Ý. Bắt đầu biết thế nào là Vô Niệm. Người biết Vô Niệm, sẽ thấy tất cả là vô hình. Do đó ta thành Chánh Chân chi Đạo.»

Lại nói: «Thế gian không thể thành đạo, không thể thoát sinh tử, chính là vì có vọng niệm, nên suy bậy, nghĩ bạ, thành ra bị Luân Hồi.»

Khi vọng niệm khởi, thì đó là Sinh Diệt, khi vọng niệm ngừng, thì đó là Chân Nguyên. Cho nên đạo Lão lấy Chỉ Niệm làm căn bản, đạo Phật lấy Vô Niệm làm tông chỉ. Vô Niệm là không có Tà Niệm, chứ không phải là không có Chính Niệm. Niệm có hữu vô, thì là Tà Niệm. Không nghĩ tới hữu vô là Chính Niệm. Niệm mà có Thiện Ác thì là Tà Niệm, không nghĩ đến Thiện Ác thì là Chính Niệm.

Đến như khổ lạc, sinh diệt, thủ thập, oan nghiệp, tăng ái, v.v. tất cả là Tà Niệm. Không nghĩ đến Khổ Lạc, thì gọi là Chính Niệm. Việc đến mà không đón chờ, tất cả đều Vô Tâm, thì là Vô Niệm. Niệm mà Vô Niệm thì là Chính Niệm.

Phật Kinh nói: «Thiện nam tử, khi các bạn ở trong cảnh giới Vô Niệm. Được như vậy, thì 32 tướng Kim sắc, sẽ phóng đại quang minh, chiếu trong Vô Dư Thế giới.»

Cao Phong Thiền Sư nói:

Tư thị thụ nhất sinh thành Phật chi công,

 茲 氏 受 一 生 成 佛 之 功,

Bất xuất nhất niệm vô sinh tính hải.

 不 出 一 念 無 生 性 海.

Thọ nhận một kiếp người là công của Phật,

Không siêu xuất Nhất niệm Bất sinh của Tính Hải.

Trí Thường Thiền Sư nói:

Chân Như vô niệm,

真 如 無 念

Phi niệm Pháp năng giai.

非 念 法 能 階

Thật tướng vô sinh,

實 相 無 生

Khởi sinh tâm năng chí.

豈 生 心 能 至

Vô niệm niệm giả,

無 念 念 者

Tức niệm Chân Như.

即 念 真 如

Vô sinh sinh giả,

無 生 生 者

Sinh hồ thực tướng.

生 乎 實 相

Chân như là Vô Niệm.

Niệm Pháp không giới hạn được nó.

Thật Tướng không sinh

Tâm sinh sao đạt tới.

Vô niệm là Chân Như,

Vô Sinh là Thực Tướng.

Lý Chi Tài nói:

Niệm chi Thiên Lý tắc minh nguyệt chi đương không,

念 之 天 理 則 明 月 之 當 空

Niệm chi Nhân dục tắc phù vân chi tế nhật.

 念 之 人 欲 則 浮 雲 之 蔽 日.

Niệm về Thiên Lý, thì như trăng sáng giữa trời,

Niệm về Nhân Dục, thì như mây che mặt trời.

Hàn Sơn Tử nói:

Tuyền Kiền, đảo Nhạc, trấn thường tĩnh,

 旋 乾 倒 岳 鎮 常 靜,

Nhất niệm vạn niên vĩnh bất di.

 一 念 萬 年 永 不 移.

Xoay Trời, chuyển Núi, ngăn tà niệm,

Giữ lòng tĩnh lãng, muôn năm chẳng thay.

Thiên Ẩn Tử nói:

Bất đổ, bất văn tồn giác tính,

 不 睹 不 聞 存 覺 性,

Vô tư, vô niệm, dưỡng thai tiên.

 無 思 無 念 養 胎 仙.

Chẳng nhìn, chẳng nghe, giữ nguyên Giác Tính,

Không nghĩ, không suy, dưỡng thai tiên.

Bảo Tích kinh viết: Bồ tát an trụ trong niệm Vô Sở Trụ, Chẳng nghĩ, chẳng quên, thế là Niệm An Trụ. Đó là Pháp Giới.

Cái biết đó, là do Phật, Tổ, Thánh Tiên biết Tức Tâm, Chỉ Niệm mà được diệu Đạo.

Cho nên sách Thượng Thư nói: Duy cuồng khắc niệm tác thánh 惟 狂 克 念 作 聖

(Chỉ có khắc chế được tạp niệm là thành Thánh Hiền).

Vả khắc chế tạp niệm là một công trình hết sức thực tiễn, chính bản thân mình phải ra công đóng góp, mới có tiến bộ. Nếu không thì Vừng thái Hư kia, con đường tới nó rất xa, thiếu một bước là không thể tới được. Người xưa nói: Công phu như vậy, là chưa đến nơi đến chốn. Công phu mà đạt tới cực điểm, thì sẽ nhập vào Vô Niệm. Khi vào được Chân Thường Vô Niệm, thì Huyền Khung Anh Nhi sẽ tịch nhiên không còn sợ bị nhiễu loạn nữa.

Lưu Hư Cốc nói:

Đại công nhược tựu tam thiên nhật,

 大 功 若 就 三 千 日,

Diệu dụng vô khuy thập nhị thời.

 妙 用 無 虧 十 二 時.

Công phu tuy là 3000 ngày,

Nhưng diệu dụng không qua 12 giờ.

Trần Triêu Nguyên nói:

Hàm dưỡng bào thai tu thập nguyệt,

 含 養 胞 胎 須 十 月,

Dục anh nhũ bộ yếu thiên triêu.

 育 嬰 乳 哺 要 千 朝.

Nuôi nấng anh nhi cần mười tháng,

Anh nhi bú mớm mất nghìn ngày.

Nê Hoàn Ông nói:

Phiến hưởng công phu tu tiện hiện,

 片 響 工 夫 須 便 現,

Lão thành tu thị quá tam niên.

 老 成 須 是 過 三 年.

Muốn cho công phu được thực hiện,

Lão thành cũng mất quá ba năm.

Ba năm công phu đã hoàn thành, ôn dưỡng cũng đã xong, chính vì thế sách Ngộ Chân nói:

Nhất sát hoả diệm phi,

一 霎 火 焰 飛

Chân Nhân tự xuất hiện.

真 人 自 出 現

Phút chốc lửa phừng bay,

Chân Nhân Liền xuất hiện.

Chân Nhân đã hiện, do tự Thái Huyền (Đơn Điền) lên tới Thiên Cốc (Thượng Đơn Điền), thế là công phu Minh Tâm Hoả Diệt, thế là sẽ thông Linh biến hoá. Lưu Hải Thiền nói:

Quái hành, Hoả hậu Chu thiên tất,

 卦 行 火 候 周 天 畢,

Dựng cá anh nhi trấn Hạ điền,

 孕 個 嬰 兒 鎮 下 田,

Tích lịch nhất thanh tòng Địa khởi,

 霹 靂 一 聲 從 地 起,

Kiền hộ phách khai quang vạn liù,

 乾 戶 擘 開 光 萬 里,

Phiên thân tràng xuất Thái Huyền quang,

 翻 身 撞 出 太 玄 光,

Giá hồi phương thị Chân Tiên tử.

 這 回 方 是 真 仙 子.

Dùng quẻ để vận chuyển tuần hoàn chân khí,

Nuôi nấng anh nhi dưới Đơn điền,

Một tiếng nổ vang từ đất phát,

Cửa Trời rộng mở phóng hào quang,

Chuyển mình thấy được huyền quang hiện,

Như vậy là nhìn thấy Chân Tiên.

Nghĩa là phải bắt đầu tu lại.

Như vậy, những người đã giác ngộ, tự nhiên sẽ dẹp được Tham Sân Si.

Trở Lại Mục Lục