TAM GIÁO & TAM BỬU & TAM TRẤN OAI NGHIÊM 1. TAM BỬU LÀ GÌ? Hiến Lễ Ðức Chí Tôn là : Bông, Rượu, Trà, thể theo Tam Bửu của con người là: Tinh, Khí, Thần. Ấy là vật báu nhứt của thế gian. Khi chúng ta hiến lễ cho Ðức Chí Tôn thì phải trau giồi tô điểm ba vật báu ấy cho tinh khiết, chẳng nên để nó nhiễm lấy bụi trần ô uế thì báu vật ấy trở nên vô giá trị. Vậy chức sắc, chức việc nam nữ cần phải trau tria thân thể và trí não tinh thần cho được trong sạch. Mỗi khi hiến lễ ta cần dâng các bửu vật ấy cho Thầy để làm hột giống tốt đặng gieo trồng cho nhơn sanh nhuần gội chung hưởng ân huệ của Thầy ban. Vậy điều cần yếu là chức sắc vào hàng Thánh Thể, phải trong tu dưỡng ba vật báu của mình cho thanh bạch, hầu hiến lễ Ðức Chí Tôn. Thuyết Ðạo QI / tr 27 - TINH ( Bông ) : là Ngài biểu dâng hình thể của ta tức nhiên dâng xác thịt ta nghĩa là dâng cái sống của ta nơi mặt thế gian nầy đặng cho Ngài làm khí cụ đặng Ngài phụng sự cho con cái của ngài, nó thuộc về Tinh tức nhiên Bông đó vậy. Phải dâng cho Ngài cái hình xác của chúng ta cho đẹp đẽ, trong sạch, thơm tho, cho quí hóa như Bông kia mới được. Tưởng tượng Ngài muốn cho chúng ta trong sạch như vậy là vì Ngài mong con cái của Ngài biết thương yêu lẫn nhau rồi lại tự mình tu tâm dưỡng tánh thế nào cho đẹp đẽ mỹ miều như bông kia đặng xứng đáng làm Thánh Thể của Ngài, đặng phụng sự cho con cái của Ngài. - KHÍ ( Rượu ) : Ngài thế cái Chơn Thần của ta tức nhiên thế cái trí thức khôn ngoan của ta về Chơn Thần, tượng ảnh trí thức khôn ngoan tức nhiên Ngài biểu cả trí não con cái của Ngài phải dâng trọn cho Ngài đặng làm khí cụ. Giờ phút nào toàn thể con cái của Ngài có trí óc khôn ngoan đặng phụng sự cho nhơn loại thay thế cho Ðại Từ Phụ mà nói rằng : Chúng tôi không biết làm gì ngoài phận sự Thiêng Liêng của Ðức Chí Tôn giao phó. Ngày giờ nào toàn thể con cái của Ngài biết nói như thế đó, thì ôi! Hiến cho Ðức Chí Tôn một vật quí hóa không thể gì nói được. - THẦN ( Trà ) : Ngài thế Trà là tâm hồn, tức nhiên Ngài biểu cả tâm hồn của ta hiệp lại làm một khối với nhau. Giờ phút nào toàn thể con cái của Ngài hiệp cả tâm hồn làm một, cái tâm hồn nầy sẽ làm tâm hồn của mặt địa cầu nầy, cho trái đất nầy, nó sẽ làm tâm hồn của toàn thể nhơn loại. Ngày giờ nào cả toàn thể con cái của Ngài tượng ảnh tâm hồn cho toàn thể nhơn loại được thì ngày giờ ấy có thể Thánh Thể của Ngài mới phụng sự cho vạn linh tức nhiên con cái của Ngài hạnh phúc được. Chỉ ngày giờ ấy mới có thể nói rằng : Nhơn loại hưởng được hồng ân đặc biệt của Ngài, mà hưởng được hồng ân đặc biệt của Ngài thì ngày ấy mới mong hưởng được hòa bình và đại đồng thế giới. Bây giờ Tam Bửu ở trong Hội Thánh. Cả toàn thể anh em, chị em chúng ta đây là TINH, là hình thể của Ngài tại thế nầy. Hình thể của Ðức Chí Tôn là trong ta đây hết. Ngày giờ khối trí thức của toàn thể nhơn loại tượng hình ra mà nói biết rằng Ðạo duy nhứt là Ðạo Trời với Ðạo Người hiệp làm một. Giờ phút nào cả toàn thể nhơn loại biết mình đến đây có phận sự để tô điểm kiếp sống của nhơn loại cho đặng hạnh phúc, đặng bảo trọng sanh mạng của toàn thể vạn linh cho đặng hạnh phúc, giờ phút nào có cái đấy thì mới tượng ảnh ra KHÍ của mặt địa cầu nầy. Nói đến tinh thần Bát Quái Ðài nghĩa là cái HỒN. Chúng ta đã ngó thấy rằng con người sanh nở nơi thế gian nầy nếu ba món báu ấy mà không có thì xác thịt nhơn loại cũng thế, vật chất cũng thế, toàn thể nhơn loại cũng thế. Nếu nói rằng có xác thịt không có hồn, hay có hồn không có trí thức bảo vệ sống còn của mình thì chúng ta đã ngó thấy tận tường rồi đó, người không hồn ngơ ngơ ngáo ngáo, người có hồn không có trí thức chẳng hề khi nào định mạng được. ... Toàn thể con cái của Ngài hy sinh phụng sự vạn linh, tức nhiên phụng sự cho toàn thể nhơn loại biết đặng, hiểu đặng hạnh phúc mình do nơi sống chung cùng nhau, nhượng sống cho nhau, tạo hạnh phúc cho nhau... (Thuyết Ðạo QV / tr 17) Ba cơ quan tạo nên hình thể con người. Chơn linh ta do nguyên khí mà có, nguyên khí là Tiên Thiên Khí. Chơn Thần do Hậu Thiên Khí kết thành, còn xác thịt thì do vật chất mà nên. Hỏi vậy ta muốn sống đây do cơ quan nào ? Ấy là nhờ chơn linh mới có sự sống, chơn linh có một quyền năng vô đoán, chưa có khoa học nào tra cứu rõ thấu được, cái quyền năng của nó là do Ðức Chí Tôn ban cho. Quyền năng của chơn linh không giới hạn, nó là quyền năng bảo trọng đường sống của vạn loại, của xác hình. Chơn thần là Hậu Thiên Khí, nó bảo trọng vật chất khí.Trong ba khí chất ấy tạo ra hình hài chúng ta, chơn linh là nhứt điểm linh quang do Chí Tôn mà có để bảo trọng cái sinh mạng, cái sống của thi hài. Ðến ngày giờ nào niên kỷ đã định hết khối sanh quang rồi thì cái quyền năng ấy ra khỏi xác thì xác phải hoại, chúng ta gọi là tử. Ấy vậy ta thử kiếm coi Tiên Thiên Khí, Hậu Thiên Khí và Vật Chất Khí là gì ? Chúng ta sẽ thấy bất kỳ vật hữu hình nào cũng có ba thể chất : Vật chất thì mắt ta thấy. Mùi vị là Hậu Thiên Khí. Năng lực là Tiên Thiên Khí. Ba khí chất nầy tạo ra hình hài của con người, vật chất mùi vị, năng lực thế nào thì loài người thế ấy, vì chúng ta thấy một hột gạo, nấu ra cơm, ăn vào để lấy cái tinh ba của nó là Hậu Thiên Khí phục nguyên khối sanh quang của ta được tồn tại. Tinh ba của vật chất nó vào mình làm cho xác hài có năng lực tráng kiện, ta thấy khi bủn rủn tay chơn là do thiếu sanh khí đó vậy. Chơn Thần là hậu thiên khí, ta không thấy mà chớ nên tưởng rằng không có. Ta ăn hột cơm vào bụng, lọc lấy cái tinh ba là huyết khí để nuôi lấy khối sanh vật nầy. Ta biết có mà không thấy được. Chơn thần chúng ta, thiên hạ kêu là phách, vía cả thảy đều có… 2. TINH - KHÍ - THẦN Phàm con người có ba món báu: - Tinh là xác thân của cha mẹ sanh ra. - liên quan với xác thân là hơi ( KHÍ ), nó tiếp xúc liên quan bảo trọng sự sống. Sự sống là nuôi nấng lấy hình hài chúng ta bằng sanh quang do nơi Phật Mẫu tạo mà có. - Linh hồn ( THẦN ) ta là của Chí Tôn ban cho. Mà có ba thành một, một thành ba gọi là Tam Bửu : Tinh, Khí, Thần. Chí Tôn lại chọn lựa vật quí báu là : Bông ( Tinh ), Rượu ( Khí ), Trà ( Thần ) là ý nghĩa Ngài muốn đòi hỏi con cái của Ngài những món quí mà ta có để sống ấy hiến cho Ngài, tức là Ngài muốn toàn con cái của Ngài sống mãi với Ngài đó vậy. Muốn cho khỏi phụ lòng Chí Tôn thì ta phải đào luyện cho đệ nhị xác thân ấy đặng tinh khiết nhẹ nhàng. Muốn được vậy, ta chỉ có hai điều là phải trau giồi : - Chỉnh tu cho cái đệ nhị xác thân được tráng kiện hoạt bát, tùng khuôn viên thiện đức. Ðệ nhị xác thân ta khi còn sống ở quanh mình ta, bảo hộ về sanh quang tiếp với đệ tam xác thân là linh hồn. Khi lìa khỏi xác thúi hôi hữu hoại thì nó trực tiếp ngay với linh hồn nếu nó được thanh khiết; - bằng nó nghiệt ác thì nó phải dính líu với cái xác thúi hôi nầy mà phải chịu lìa xa cái linh hồn thì thần tử sẽ rước đi mà phải đọa là vậy. Bởi cớ Chí Tôn ban cho ta cái Bí Pháp (phép xác ) cắt đứt dây oan nghiệt cho nó rời hẳn với đệ nhứt xác thân được khinh phù nhập một với linh hồn tức là hằng sống. Loài người quá xảo quyệt khôn khéo tiềm tàng sự sung sướng xác thịt nầy, tại do đó mà gây nên biết bao nhiêu việc thần sầu quỉ khốc...Chí Tôn biết rõ loài người tiến hóa tột bực mà tự đắc tự tôn, chỉ biết lo cho xác thịt mà thôi, không chuyên lo cho đệ nhị xác thân và tinh thần nên Chí Tôn đến khai Ðạo là cố ý giáo hóa cho loài người biết rõ câu tội phước, giồi luyện cho con người tận thiện đến hiệp cùng Ngài… Nếu ta thấy được cõi Hư Linh kia, cái tinh của vạn loại bị giết chóc một cách tàn nhẫn, bởi loài người kết oán thù thâm với nó, chực chờ thù ghét, vì vậy mà có vay trả luân hồi mãi mãi đọa đày, bất năng thoát tục. Mong sao chúng ta từ đây phải biết trọng lấy lẽ ấy mà luyện đệ nhị xác thân cho đủ đầy sự tinh khiết là phải thương loài vật, phải thương tất cả để chấm dứt cái oan nghiệt ấy mà truyền bá cái huờn thuốc linh đơn nầy là đạo đức của Chí Tôn, để cứu vớt quần sanh thoát vòng đọa lạc hoàn toàn. Cả thế gian nầy biết được vậy thì chắc chắn không còn cảnh thảm khổ nầy tái diễn lại nữa. Loài người do một nguyên căn mà thôi, bởi do tâm lý và tập quán của các nước, của các sắc dân vì cái khác ấy mà chia phôi nhau, nghịch lẫn nhau, thù địch nhau mà tranh tranh đấu đấu không ngừng. Vậy Thánh Ý của Chí Tôn khai mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Tam Giáo Qui Nguyên, Ngũ Chi Phục Nhứt là muốn dung hòa tâm lý toàn cả con cái của Người để cứu vãn trên 92 ức nguyên nhân vì thế mà bị sa đọa nơi đây. Chí Tôn đã đại từ đại bi chỉ rõ nguyên căn mà ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đạt ngôi vị là phải trau luyện cho Tinh hiệp với Khí, Tinh Khí huờn Thần là cơ huyền bí để mà đắc Ðạo vậy. Trọng giá của Tam Bửu mà Chí Tôn ưa chuộng để dâng Ðại Lễ cho Ngài là nguyên nhân chấm dứt cái họa tranh thù mà gây nên trường oan nghiệt cho toàn thế giới. Ấy vậy, muốn duy trì sự hòa hiệp đại đồng nầy cũng do nơi gốc Bí Pháp đó mà thôi, dầu triết lý uyên thâm đạo đức mà tôn giáo nào cũng không qua lẽ ấy ; mà nếu không đạt được thì toàn lẽ ấy là đệ nhị xác thân của toàn thể ô trược tội tình thì thế giới sẽ điêu tàn tiêu diệt mà chớ. (Thuyết Ðạo QI / tr 34) 3. SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA TAM BỬU VÀ TAM TRẤN OAI NGHIÊM Chúng ta suy nghĩ coi không có gì quí hơn xác thịt, trí óc và linh hồn ta hơn hết. Ðức Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng ba báu vật ấy cho Ngài, Ngài không đòi hỏi dâng cho Ngài cái gì khác. Giả tỷ như đời thượng cổ nhơn loại dâng cho Ngài tới cái sanh mạng con người, nên người ta phải giết người để làm tế vật. Sau đó thay thế mạng sống con người, nhơn loại lại dâng tam sanh tức nhiên bò, trâu, heo. Bên Âu Châu theo Ðạo Do Thái thì dâng cho Ðức Chí Tôn một con Chiên trắng, con Chiên ấy phải trắng như tuyết mà thôi. Giờ phút nầy Ðức Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng Tam Bửu: Bông, Rượu. Trà ; tưởng đâu là gì, thiên hạ nói báu gì đâu ba món ấy gọi là báu. Ai ngờ ba món báu ta dâng cho Ngài là báu vật, bởi vì Ngài là Chúa của ta, Ngài tạo sinh ta, Ngài là Cha của ta về phần hồn và phần xác, Ngài đòi ba món quyền sở hữu của Ngài cho ta, lấy ba món báu của ta đó vậy. Bây giờ nếu như người tầm Ðạo kia nói: Tôi không biết Ông đòi ba món ấy để làm gì? Tôi không biết Ông dùng ba món báu là xác thịt, trí não và linh hồn của mình để Ông làm gì? Người ta để dấu hỏi tức nhiên ta phải trả lời. Chúng ta đã thấy hiện tượng Ðức Chí Tôn đến qui Tam Giáo: Nho, Thích, Ðạo; lấy cả tinh thần đạo đức của ba nền tôn giáo ấy đặng làm môi giới chuẩn thằng. Rồi lập thêm làm gì Tam Trấn Oai Nghiêm? Có phải chăng lập Tam Trấn Oai Nghiêm là để bảo vệ ta và Tam Trấn Oai nghiêm có bổn phận dâng lên cho Ðức Chí Tôn, sự thật như vậy, Nếu không, Ðức Chí Tôn chẳng hề khi nào sắm Tam Trấn Oai Nghiêm ra làm gì cho chúng ta thờ phượng, ấy vậy Tam Trấn Oai Nghiêm tượng trưng ba báu vật ấy. - Ðức Quan Thánh tượng trưng Tinh, tức nhiên tượng trưng xác thịt của chúng ta…. Bần Ðạo đã có thuyết minh Ngài tượng trưng Tinh, tức nhiên Ngài là đại diện của Nho Tông chuyển thế đó vậy. Nếu trong cử chỉ hành tàng kiếp sống của chúng ta, chúng ta có thể học đòi theo cả hành tàng của Ngài, lấy Xuân Thu làm chuẩn thằng lập chí. Tưởng nếu cả toàn thiên hạ lập chí cho xã hội, phục vụ cho xã hội dường nầy, tôi tưởng nhơn loại không hạnh phúc nào cho bằng. - Ðức Lý, tức nhiên anh Cả Thiêng Liêng chúng ta, giờ phút nầy Ðấng Thiêng Liêng đến cầm quyền Giáo Tông trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ mà cũng là Nhứt Trấn Oai Nghiêm nữa. Ngài đại diện cho Tiên Giáo đó, mà Tiên Giáo chúng ta đã thấy gì? Thấy kiểu vở Tiên Giáo trong tinh thần chữ Ðạo, phải chăng Ðức Ngài chỉ cho chúng ta thấy chữ Ðạo là gì? Ðạo là cái sống, cái sống mà thiên hạ đã biết nhưng mà không hiểu tình trạng và tướng diện của nó, bí mật của nó thiên hạ nơi thế gian nầy chưa biết. Bần Ðạo lấy một tỷ thí như nam nữ phối hiệp nhau, sao lại sanh ra đứa bé, cái bí mật đó là gì? Trứng gà, nếu có trống khi ấp lại nở ra con, cái sống đó là gì? Ðức Lão Tử gọi đó là Ðạo. Ðạo ấy trong cái sống tối thiểu, có cái sống tối đại của nó. Cũng như cái sống bí mật của ta, đương giờ phút nầy, đương nhiên sống với bạn đồng sinh của ta đây. Ngoài ra cái sống nữa, cái sống bí ẩn, sống Thiêng Liêng mà Ðức Chí Tôn gọi là Hằng sống của Ngài ban cho ta đó vậy, đấy là Ðạo. Ðức Lão Tử đã dạy cho trí khôn ngoan của loài người mở rộng cái sống bí ẩn, sống với vạn linh trong sự sống với càn khôn vũ trụ. Các người bảo trọng cái sống của các người thì các người phải cung kỉnh thờ phụng cái sống của vạn linh. Ấy là Ngài dạy cho ta tôn sùng cái sống, tức nhiên trí não của mình mở mang, hiểu sống đã là Ðạo mà Người thay quyền cho Ðạo tức nhiên Ðức Lão Tử đặng cầm giềng mối giữ gìn cái mực thước sống của chúng ta cho còn tồn tại đó vậy. Ấy vậy, Ðức Lý tượng trưng cả trí não tinh thần chúng ta, bảo vệ Ðạo tức nhiên bảo vệ sự sống còn của nhơn loại vạn linh, thuộc về Khí. - Ðức Quan Âm Bồ Tát, Ngài tượng trưng cho Linh Hồn chúng ta. Phải chăng chúng ta sanh ở thế gian nầy đang mang nặng thi hài xác tục nầy, cả toàn nhơn loại trên mặt địa cầu có mặt nơi đây phải chăng do quả kiếp của họ. Bần Ðạo không nói trọn hết thảy bị quả kiếp, cũng có những Ðấng lãnh sứ mạng của Ðức Chí Tôn đến giáo đạo dìu dắt vạn linh. Hại thay! Chín mươi hai ức nguyên nhân cũng vì sứ mạng tối yếu tối trọng ấy, thay vì lãnh sứ mạng của mình trọn vẹn lại quá ham sống, gây nên tội tình phải bị sa đọa. Thành ra một ông thầy đến giáo đạo lại trở thành một học trò, quá tệ hơn trò nữa. Giờ phút nầy có một điều thắc mắc hơn hết, chúng ta thấy trong vạn linh, con người tối linh hơn vạn vật mà ta ngó thấy có thứ người không phải là người. Họ đã mang xác thịt làm người như mình, họ tàn ác dối trá gian ngược làm cho các Ðấng Thiêng Liêng hay là người đạt đạo ở thế gian nầy cũng vậy để dấu hỏi đến phẩm người mà vậy, hỏi họ có đáng làm người không? Họ có đáng ngồi trong phẩm vị đại hồi nầy, hay tiểu hồi vật loại? Nếu chúng ta để nhóm người đó ở trong tiểu hồi vật loại thì bất công vì chính mình người ta đã đạt tới nhân phẩm. Nếu để trong đại hồi, trong nhân phẩm thì không đáng vị, bởi vì cớ cho nên Ðạo Giáo để phẩm Maya, tức nhiên Quỉ Vị, phẩm vị riêng biệt là 'Quỉ Vị'.
Ấy vậy Ðức Quan Bồ Tát là một Ðấng thường du Nam Hải. Các cửa Phong Ðô nơi Cửu Tuyền kia là con đường của Ngài đi lên đi xuống không biết mấy lần, không biết thế kỷ nào dứt để tận độ cho thiên hạ, Ngài tượng trưng cho một cơ chế Thiêng Liêng giải cả oan nghiệt tội tình, giải cả nhơn quả cho chúng sanh đạt vị, tức nhiên đạt cơ giải thoát… ( Thuyết Ðạo QV / ) 3. HỒNG ÂN CỦA ĐỨC CHÍ TÔN … Hai mươi bốn năm qua Bần Ðạo không hề tưởng tượng được một cái hồng ân vô đối của Ðức Chí Tôn đã chan rưới cho giống nòi Việt Thường. Nay giữa hồi nhơn tâm điên đảo, quyền hành tinh thần đạo đức điêu linh, tâm hồn loài người thống khổ vì thiếu phương an ủi, ta đã ngó thấy nhiều lẽ bất công của xã hội diễn ra trước mắt, nhiều tấn tuồng đau thảm không thể tả ra bằng ngôn ngữ đặng! Bần Ðạo chỉ nói rằng trong thời buổi hổn độn cả nhơn luân của nhơn loại bị sập đổ, Ðức Chí Tôn đến, Ngài đến với một phương pháp đơn giản tạo nền Chơn Giáo của Ngài. Bần Ðạo nhớ lại buổi Ngài mới đến, Ngài xin với mấy vị Tông Ðồ ba món báu gọi là Tam Bửu. 2-Là trí não. 3-Là linh hồn của mọi người hiến dâng cho Ngài, đặng Ngài làm cơ quan cứu thế độ đời. Hồi buổi nọ chúng ta chưa hiểu nghĩa lý là gì ? Biết bao nhiêu kẻ, biết bao tín đồ đã để dấu hỏi Ðức Chí Tôn đến xin ba món báu đặng tạo quyền gì kia chớ ? Thưa cùng toàn thể con cái của Ðức Chí Tôn, Ngài lấy trong một số ít của Thánh Ðức Ngài tạo cho thành tướng một khối thương yêu vô tận. Có một điều làm cho chúng ta ngạc nhiên hơn hết là từ thử đến giờ nhơn sanh đã hiểu quyền năng vô đối của quyền lực thương yêu, nhưng họ chưa hiểu biết thống nhứt cả khối thương yêu ấy đặng làm phương cứu thế độ đời, hay là làm phương châm tạo hạnh phúc cho kiếp sanh của họ. Trái ngược lại họ chỉ thống hiệp tinh thần thù hận, oán ghét làm cho mặt địa cầu nầy biết mấy phen đẫm máu, nhơn loại tương tàn tương sát với nhau là vì họ bội tín của họ, biết thù hận hơn là thống hiệp thương yêu. Bần Ðạo ngày nay đứng đây xin thú thật rằng : Mấy em toàn thể con cái Ðức Chí Tôn đừng có tưởng rằng tới ngày nay Qua mới hưởng được cái hạnh phúc của mấy em đã trải ra trước mắt đây, mà Bần Ðạo hưởng hạnh phúc trước ngày Ðức Chí Tôn hiệp mấy em lại làm Thánh Thể của Ngài, trong khối yêu thương vô tận của Ngài tạo dựng nên một đại gia đình Thiêng Liêng mà từ thử đến giờ mặt địa cầu nầy chưa có. Mấy em đã ngó thấy có bạn, có cha, có anh có em, có thân bằng cố hữu, có chủng tộc, thiên hạ dưới thế gian nầy chưa hề tưởng tượng giá trị nó được. Gia tộc hiện hữu đã có nó, mất còn tại đây. Còn gia tộc Thiêng Liêng trong đại gia đình mấy em nó vẫn trường tồn mãi mãi bất tiêu bất diệt. Mấy em suy nghĩ điều ấy, kẻ nào hưởng giá trị ấy mới có hiểu cái mùi vị cao siêu của nó; cái ơn ban thưởng của Ðức Chí Tôn nó còn giá trị và quí trọng hơn nữa. Mấy em là Qua, Qua là mấy em, nam nữ cũng vậy ; cả thảy mặt địa cầu nầy giờ nào nhơn loại biết hiệp với nhau làm cho thành tựu cái gia tộc tại mặt thế nầy là đại gia đình Thiêng Liêng đó vậy... Cây cờ cứu thế Ðức Chí Tôn, nó đã hiện tượng một cái quyền Thiêng Liêng vĩ đại giờ phút nầy và còn tới nữa, thật quyền năng vô đối của nó là quyền năng thương yêu vô tận của mình đó vậy. Ngày giờ nào toàn thể nhơn loại biết thương yêu với nhau như lời Ðức Chí Tôn đã dạy thì giờ ấy là hạnh phúc cho nhơn loại đã đoạt đặng. Chúng ta đã ngó thấy những điều Ðức Chí Tôn đến nói không phải là mới vì trước kia có hai Ðấng đã làm : - Ðấng thứ nhứt là Ðấng mỗi bữa mang Bình Bát Vu đi hành khất xin ăn, đem về Cấp Cô Ðộc Viên, nuôi những kẻ đói khổ là Ðức Phật Thích Ca đó vậy. - Ðấng thứ nhì là Ðấng bẻ từ miếng bánh mì, chia từ miếng cá, cho đến mảnh áo Tam Tinh của Ngài cũng lột cho kẻ rách, Ðấng ấy là Jésus Christ. Bần Ðạo nói quả quyết hai vị Giáo Chủ đã làm nên nền tảng tinh thần đạo đức cõi Á Ðông và Âu Châu là hai nền Phật Giáo và Công Giáo. Nếu đã được thi thố như thế ấy, lưu lại cho đời một khối vĩ đại là do năng lực yêu thương của Ðấng ấy. Ấy vậy không chi mới mẻ hết. Cây cờ cứu khổ của Ðạo Cao Ðài là thương yêu mà thôi, sau nữa là quyền công chánh. Nếu thi hành hai điều ấy được thì mới đem hòa bình thực hiện nơi mặt địa cầu nầy được. ( Thuyết Ðạo QIII / tr 90 ) 5. DÀNH SẴN GIA NGHIỆP & PHẨM VỊ CHO CHÚNG TA Ngày nào ta về cảnh vô hình sống trong khối tạo đoan chừng đó ta mới biết Ðạo là có phận sự bảo trọng chúng sanh, khuyên lơn dạy dỗ và giục thúc cho các đẳng linh hồn tăng tiến trên đường tấn hóa. Ta chỉ đặng phép thương yêu binh vực chớ không ai đặng mưu hại giục hư. Cõi Hư Linh, nếu ta đạt pháp xuất ngoại xác thân, tương hội cùng các bạn cõi vô hình thì ta thấy khác hẳn theo tánh chất phàm tâm tưởng tượng. Cõi Hư Linh các bậc cao trọng, Thánh, Tiên, Phật chỉ có mơ ước thiết thực nhất môt điều là làm thế nào giúp ích cho chúng sanh. Các Ðấng ấy rất may mắn gặp những dịp để an ủi tâm hồn chúng sanh hằng giờ hằng buổi không thiếu tình thương. Chúng ta đến làm người, cốt yếu đạt cho được cơ tạo đoan trở nên chí linh chí thánh, một kiếp học thêm một bực, để ngày kia mong mỏi làm Trời. Các bạn biết Phật Thích Ca xưng là Bổn Sư, người tu gọi là Thầy, nếu các chơn linh ấy gặp được, thấy được, gần được Phật thì đối với Phật không ngoài mức bạn thân ái. Ở thế nầy dầu một vị Phật cũng không chê ai, không hạng nào chê, hạng nào khen vì Phật đã biết con đường đi trước kia, dầu ai phàm, dầu ai lạc hậu cũng tới sau, họ chỉ biết một điều là chỉ từ nẻo quanh co, vui vẻ chỉ cho bạn đi cùng đường đạt lên Phật vị. Họ không dám chê ai, chẳng phải đối với loài người mà thôi mà đối với tất cả vạn loại, chúng sinh chỉ là anh em còn lạc hậu đó vậy. Con vật mà ta thấy bị giết được là vì nó không phương bảo vệ. Ngày nay giết nó mà ăn thịt biết đâu sau nầy các bạn lạc hậu ấy tiến hóa đến phẩm người trở lên, rồi chúng ta sẽ gặp nó bên mình, khi ấy nó ngó ta mà cười và hỏi: 'Xưa kia Ðức Phật có ăn tôi một lần'. Nghĩ tưởng chẳng gì sĩ hổ thẹn thuồng bằng. Thế nên ta phải ăn chay. Chưa có ai nhẩn tâm giết người đặng ăn thịt, cũng không có ai đặng quyền giết các bạn lạc hậu ấy để ăn. Ta đến đây làm bạn cùng vạn vật chúng sanh, vạn vật giúp ta học cho thấu đáo huyền vi cơ đạo, tạo chí linh nối nghiệp Ðức Chí Tôn. Thầy có nói: Thầy dành sẵn gia nghiệp phẩm vị cho chúng ta, Thầy không khi nào lấy lại, trừ ra kẻ nào từ bỏ bởi Ðại Từ Phụ mà không tin sao? Ông cha phàm kia còn yêu ái con, trước buổi nhắm mắt còn tính để lại cho con một phần gia nghiệp hương hỏa. Một điều là ông cha phàm làm với phạm vi nhỏ, phương pháp nhỏ theo phàm. Còn ông cha thiêng liêng không lẽ thua ông cha phàm, Thầy nói : Thầy dành sẵn gia nghiệp ngôi vị thì Thầy không có quyền cho kẻ khác, trừ khi mình bỏ… Bần Ðạo dám chắc Thầy không hề chịu thiếu ai và Thầy không hề quên mối nợ tình ái của con cái của Ngài. Nếu Thầy không thường món nợ ấy thì Hộ Pháp hứa sẽ tái kiếp luân hồi bồi thường cho đủ. Vì những kẻ dám đem mình làm tế vật cho Thầy để lập nên một quốc gia Thiên định tại thế nầy, Bần Ðạo chắc quốc gia ấy phải thành. Ðức Chí Tôn tạo cho con cái của Ngài một cửa nhỏ tuy khó đi mà Bần Ðạo chắc rằng những hạng con cái dám chết vì Ngài thì chúng nó dám đạp văng cửa ra, chúng nó đi sấn đến. Nếu chúng ta có con mắt Thiêng Liêng, ngày nào họ đi ngang qua thì ta sẽ thấy các Ðấng dầu chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tức là các chơn linh cao trọng cũng phải cúi đầu. Thầy sẽ trả bao nhiêu món nợ tình ái của con cái của Ngài thì không biết, chớ không khi nào Ðức Chí Tôn trả cho một mà phải trả nhiều hơn là hẳn vậy. Xin cho toàn Ðạo nam nữ sao lục nguyên văn để phổ thông chơn lý. TÔN GIÁO & NỀN VĂN MINH HIỆN ĐẠI 1. LỄ ÐĂNG ĐIỆN XÁ LỢI PHẬT Xá Lợi của Ðức Phật Thích Ca là gì ? Khi Ðức Phật Thích Ca qui vị thì Ngài để Di Chúc cho cả môn đệ của Ngài Hỏa Táng , tức nhiên thiêu cái thi hài đó. Thi hài của Ngài đã đốt nhưng chẳng hề khi nào tiêu hết, vẫn còn lại mấy miếng xương của Ngài dư thừa lại không cháy gọi là Xá Lợi. Buổi sau nầy nước Anh tức nhiên Anh Quốc hiệp lại với nước Ấn Ðộ mới đào lên gặp một cái hộp bọc pha lê, trên nóc có để chữ rằng 'DI HÀI XÁ LỢI ÐỨC PHẬT THÍCH CA' lúc đó nước Anh mới lấy cả hộp Xá Lợi ấy. Sau nầy nước Ấn Ðộ được độc lập mới đòi nước Anh phải trả Xá Lợi Phật cho Ấn Ðộ, nhưng Ấn Ðộ buổi đó cuộc cách mạng tranh chủ quyền độc lập vẫn còn ở trong Liên Hiệp Anh. Mãi đến sau nầy nước Ấn Ðộ mới hoàn toàn độc lập, nhưng trong tín ngưỡng về Phật Giáo tức nhiên Ðức Phật Thích Ca đã giảm suy nhiều vì cái lẽ loạn lạc của đất nước nên chánh phủ nghĩ rằng: Ðể trong nước e Xá Lợi có thể bị mất nên dành để có một ít, chia cho Tích Lan một ít. Ðức Narada Théra đem hiến cho Toà Thánh Ngọc Xá Lợi là người Tích Lan đó vậy. Ba cây Bồ Ðề cho Tiểu thừa một cây, cho Tiểu Thừa Miên quốc một cây còn một cây của Ðại thừa đem về Tòa Thánh. Hột Ngọc Xá Lợi đem về Tòa Thánh hôm nay là đặc biệt của Ðại đức Narada Théra, Phó Giáo Tông của Ðạo Giáo Tích Lan, lấy của tư của Ngài hiến cho Toà Thánh. Ðức Phật Tổ tức nhiên Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ( Boudda Cakyâmouni ), cả thảy con cái Ðức Chí Tôn đã nghe Ðức Narada Théra thuyết Ðạo rồi. Ngài nói Ðức Phật Thích Ca là người cũng như chúng ta, có xác thân như ta, sống chết như ta chớ không phải là người ở trong thần thoại. Nhưng cái cao siêu về tâm hồn của Ngài, về tiền căn Thiêng Liêng của Ngài đã lên tới Phật Vị. Ngài tái kiếp làm người với mảnh thân phàm của Ngài cũng như ai kia vậy. Cái quí trọng của Ðức Phật Thích Ca họ đã nhìn nhận cái cao siêu về linh hồn của Ngài trước khi chưa đầu kiếp… Cảnh Hằng Sống không phải ở thế gian nầy với thi phàm xác tục của ta, mà cảnh Hằng Sống ấy nó ở nơi cảnh Thiêng Liêng vô hình kia. Cảnh ở thế gian nầy là cảnh đau khổ, họ muốn cho các vị giáo chủ của họ phi phàm, họ bày ra nhiều cái thuyết thần thoại, giờ phút nầy làm cho khoa học phải đánh đổ về cái lý lẽ ấy, đánh đổ rất khoa học không thế gì chối cãi được. Nào là họ nói Ðức Chúa Jésus Christ do một người đồng trinh đẻ ra, chính trong Ðạo Sử của Ðức Chúa Jésus, Cha của Ngài là Ông Thánh Josept, Mẹ của Ngài là Bà Marie. Họ lại nói Ðức Phật Thích Ca khi xuất thế ở trong nách của bà Maya mà ra, Ðức Lão Tử cũng thế, họ làm cho giờ phút nầy cả tín đồ các tôn giáo khó giải quyết, họ đem cái lý do thần thoại nêu ra làm một chơn thật. Hại thay! Nếu mọi sự chơn thật nó có thể làm cho cả đức tin con người phải điên đảo. Chúng ta ngó thấy cơ thể tạo đoan có âm dương tương hóa mới sản xuất hình ảnh tức nhiên cả kiếp sanh và sanh mạng cả toàn thể vạn linh nơi mặt địa cầu nầy. Ðừng nói chi nhiều, như điện lực, nếu không âm điện và dương điện thì chúng ta không có ngọn đèn sáng như thế nầy được. Lại nói đến hơi thở của ta không có âm khí (Nitrogen), dương khí (oxygen), nếu chúng ta không có hơi thở đó chưa chắc gì chúng ta sống đặng, Đừng nói chi nhiều, cả cơ thể tạo đoan không có hàn nhiệt ôn lương thì vạn linh nơi mặt địa cầu nầy chưa chắc họ sống còn và tồn tại được. Huống chi luật tạo đoan phải có cha mẹ, có âm dương của cha mẹ mới sản xuất cái nhơn hình của chúng ta, thành thử Ðức Phật Thích Ca cũng sanh như ai kia vậy, nhưng tiền căn của Ngài cao siêu hàng phẩm của Ngài tới Phật Vị, cho nên sự sáng suốt khôn ngoan của Ngài phi phàm hơn hết nên cả nước Tích Lan (Ceylan) đều gọi Ngài là Mâu Ni tức nhiên một vị hiền triết vô đối của họ. Họ tôn tặng chức tước, tôn tặng Ðức Thích Ca xứng đáng quá chừng cũng như Ðức Chúa Jésus Christ nhờ thiên căn sáng suốt thành thử người ta gọi Ngài là 'Le Saint des Saints' ( Một vị Thánh trên các Thánh ), Ðức Lão Tử, Ðức Khổng Phu Tử cũng thế, các vị ấy đều do nơi tiền kiếp phi phàm mà thôi, chớ các vị ấy xác tục cũng như ta, người cũng như ta, sống chết cũng như ta, đầu óc trí não cũng như ta, sống trong cảnh khổ não cũng như ta. Bần Ðạo ước mong các con cái Ðức Chí Tôn hiểu đặng các điều chơn thật ấy đặng Tu, cố gắng làm sao cho phi phàm, làm sao dòm tánh đức của Ðức Chí Tôn thế nào? Học đòi cho đặng Huệ Quang của Ngài ban cho thì trí não ta mới thông suốt như Ngài đặng. Trước kia, Ðức Phật Thích Ca đã thành Phật đặng thì chúng ta cũng thành Phật đặng, chính Ngài làm bằng chứng lẽ ấy. Bần Ðạo mong mỏi cả con cái Ðức Chí Tôn cố gắng học đòi như Ngài đặng thành Phật như Ngài vậy. (Thuyết Ðạo QV / tr 153) 2. ẢNH HƯỞNG TRIẾT LÝ ĐẠO GIÁO CỦA ĐỨC THÁI THƯỢNG LÃO TỔ A. Bí truyền của Ngài để nơi tinh thần luyện khí cốt yếu là đạt đặng nguyên tử lực vào con người. Các nhà học thức đã tìm, đã đạt huyền vi bí mật và năng lực của cơ thể tạo đoan mà đào luyện kiếp sanh hôm nay, có lẽ chúng ta tưởng đã đi đến một đặc điểm khá cao. Bần Ðạo nói thời kỳ nguyên tử, nhơn loại đã đạt đặng do sự xu hướng đặc biệt huyền vi bí mật dòm bên kia huyền năng tạo đoan cũng khá nhiều. Nhưng chỉ có một điều là đạt được cái năng lực của cơ thể tạo đoan ấy thay vì để phục vụ nhơn loại với đạo đức nhơn nghĩa, trái ngược lại cả tài tình của họ đào luyện thâu hoạch quyền lực, cơ tạo đoan của nhơn loại nắm trong tay là để làm một cái lợi khí tiêu diệt nhơn loại. Thật vậy, nguyên tử lực của các nhà học thức bác sĩ, bác vật đã đạt đặng, Ðức Thái Thượng Nguơn Thủy đã biết nó trước, duy có một điều vi chủ hướng của Ngài bảo tồn sanh mạng con người chớ Ngài không tiêu diệt người như ngày nay… Bí mật của sự luyện khí là do đó, điều Ngài biết đã chính mình thâu hoạch được trước 2.500 năm. Ngài tưởng năng lực ấy để bảo vệ nguyên linh ta thắng được phản lực của hình thể ta, tinh thần ta vi chủ kiếp sống của chúng ta. Hại thay ! những nhà truyền giáo tưởng đã đủ năng lực bảo vệ sanh mạng loài người bằng triết lý cao siêu ấy. Trái ngược lại, ta thấy những nhà hành đạo truyền giáo họ thúc giục tương tranh, tương đấu nhau vào đường chiến trận mà thôi. Ta thấy lịch sử lưu lại triết lý Tiên Gia chỉ giục loạn chớ không trị bình đặng. Ngày giờ nào nhơn loại biết chỗ chơn thật của triết lý ấy thấu triệt đặng phụng sự nhơn loại với cái trí hóa khôn ngoan trong năng lực của Ngài thì ngày giờ ấy nhơn loại mới hưởng được đặc ân của Ngài đã để nơi mặt thế nầy. (Thuyết Ðạo QIII / tr 76) C. Quyền năng Tiên Giáo Có bốn Nguyên Linh yếu trọng giúp Ðức Chí Tôn khi Ngài đã đoạt định thành hình. Mỗi Chơn Linh giúp Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu tạo ra càn khôn vũ trụ hữu hình nầy : 1. Ðứng đầu hơn hết là khối Thái Cực, nó dùng tiếng đầu tiên là Ðức Thái Thượng Lão Quân đó vậy. Khi Thái Thượng đã nguội, vật đã xuất hiện. 2. Ðấng thứ nhì là nước tức nhiên là Ðức Thái Thượng Nguơn Thủy 3. Khi tượng hình, đã có khí Sanh Quang bao trùm càn khôn vũ trụ đặng biến sanh vạn vật, là Hộ Pháp đó. 4. Khi đất nguội thì trái địa cầu nảy sanh ra, đất là Thông Thiên Giáo Chủ đó vậy. Bốn Chơn Linh đã giúp cho Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu tạo cơ quan hữu hình của càn khôn vũ trụ. Tinh ba của nó đặc sắc. Ðức Thái Thượng, Nguyên Linh của Ngài tối yếu tối trọng là cái huyền vi bí mật tạo đoan vô đoán của loài vật, muôn vật ở càn khôn vũ trụ nầy tức nhiên là nguyên căn sản xuất vạn linh đó vậy. Còn Ðức Thông Thiên Giáo Chủ, nguyên căn sản xuất hình thù của vạn linh. Một là Nguyên Linh, hai là vật. Ðức Thái Thượng vốn là Nguyên Linh tức nhiên là THẦN, nếu chúng ta nói rõ hơn nữa Ðức Thái Thượng vốn là Thiên Lương, tức nhiên TÂM, của đời đã đặt tên. Ðức Thông Thiên Giáo Chủ là VẬT, cái thuyết mà chúng ta đã ngó thấy. Bây giờ các nền tôn giáo cũng thế, cơ quan hữu hình tại mặt địa cầu nầy cũng thế; có hai quyền năng tương đương nhau: một là tâm, hai là vật; một là Trời, hai là thú. Tương đương với nhau, cái thuyết duy tâm và duy vật chẳng phải buổi nầy mà thôi. Cơ quan Tạo Ðoan Thiêng Liêng thế nào mới nảy sanh càn khôn vũ trụ đã có trong Phong Thần; là một áng văn về Ðạo Giáo đã minh tả Ðức Thái Thượng, Ðức Nguơn Thủy và Ðức Thông Thiên Giáo Chủ trước đã được một đặc ân thọ giáo ngay với Ðức Hồng Quân Lão Tổ tức là Ðức Chí Tôn đó vậy. (Thuyết Ðạo QIII tái bản / tr13) c. Thuyết Nhân Nghĩa Nhắc lại thầy Mạnh Tử khi qua yết kiến Vua nước Lương, ông Huệ Vương hỏi Ðức Mạnh Tử: - Lão già chẳng nệ đường xa muôn dặm sang đến nước quả nhân, có chỉ giáo điều chi hữu lợi chăng ? Thầy Mạnh Tử đáp rằng : - Tôi chỉ biết nói đến nhơn nghĩa mà thôi chớ không nói về lợi. Nếu trong nước mà dục vọng về sở lợi thì đình thần có trăm hộc lại muốn có thêm ngàn hộc; thượng hạ đại phu có ngàn hộc lại muốn có muôn hộc; còn vì Thiên Tử đã có dư muôn hộc lại muốn có thêm triệu hộc. Nếu trong nước mà cầu lợi như thế thì bá tánh phải chịu lao lung, muôn dân đồ thán, trong nước thế nào bình trị được? Còn như trong nước biết chú trọng đạo nhơn nghĩa thì toàn thể quốc dân đặng chung hưởng mọi điều hạnh phúc, lạc nghiệp âu ca. Thầy Mạnh Tử thuyết minh đủ mọi điều lợi hại rồi thì Vua Huệ Vương chịu nạp dụng. Hiện nay là buổi kim tiền, ưu thắng liệt bại, mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất, con người trên mặt thế đều bôn xu theo quyền lợi chẳng kể gì nhơn nghĩa đạo đức, tinh thần nên mới có nạn chiến tranh tương tàn, đồng chủng giết hại lẫn nhau. Hằng ngày diễn ra nhiều tấn tuồng thảm thương, bi kịch xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, khiến cho giọt lụy thương tâm của khách ưu thời mẫn thế không thể nào ngưng được. Chức Sắc trong Ðạo đem hột giống nhơn nghĩa gieo khắp các nơi mà nhơn sanh không ưng nạp, bởi họ không biết cái năng lực của họ mạnh mẽ thế nào, không cần để ý đến, chớ chi họ trọng dụng đạo nhơn nghĩa thử một thời gian coi có hiệu quả gì chăng? Nhắc lại lời Thánh Giáo của Ðức Chí Tôn có dạy về chữ Nhơn : Nhơn là đầu hết các hành tàng, Cũng bởi vì nhơn dân hóa quan. Dân trí có nhơn nhà nước trị, Nước nhà nhơn thiệt một cơ quan. Ngày nào toàn thể quốc dân mà biết thực hành hai chữ nhơn nghĩa cho ra chơn tướng thì chẳng luận là xã hội nào cũng được hưởng mọi điều hạnh phúc, đời chiến tranh sẽ trở nên thái bình an cư lạc nghiệp .(Thuyết Ðạo QI / tr 15) 3. TRIẾT LÝ ĐẠO KHỔNG Ðức Chí Tôn đến lấy chơn tướng Nho Tông đặng chuyển thế. Vì cớ cho nên triết lý của Ðạo Cao Ðài là Nho Tông chuyển thế. Ðức Khổng Phu Tử giáng sanh buổi Ðông Châu Liệt Quốc, chúng ta dư hiểu từ thử đến giờ chưa có một quốc gia nào hổn loạn hơn là Ðông Châu Liệt Quốc buổi nọ…Ðức Khổng Phu Tử đã sanh ra trong cái thời kỳ hổn loạn ấy, vì cớ nên Ngài mới tìm một phương pháp để cứu nước, cứu toàn sanh mạng của giống dân Trung Hoa của Ngài cho còn tồn tại, chớ không thì tấn tuồng tương tàn tương sát ấy không thế nào dứt được. Vì cớ cho nên Ðức Chí Tôn đã nói: Hễ chúng ta sống một ngày thì hay một ngày, chớ chẳng hề khi nào chúng ta cãi đặng khuôn luật thiên nhiên của Tạo Hóa được. Ví như muốn cứu vãn, muốn thức tỉnh các nước như Ðông Châu Liêt Quốc buổi nọ, Bần Ðạo xin nói: Phải giữ gìn phương pháp đạo đức thì mới có thể làm dứt được cái nạn nồi da xáo thịt của nước Trung Hoa. Vì vậy nên Đức Khổng Phu Tử mới đem Ðạo Nhơn Luân của con người ra làm căn bản. Bởi cớ cho nên Ngài chỉ tìm một phương pháp là Nhơn Ðạo để cứu vãn tình thế dân Trung Quốc. Ấy vậy, cái thuyết bảo vệ Nhơn Luân Chi Ðạo của Ngài đó, chúng ta đã hiểu như thế. Ðức Chí Tôn đến đặng đem Thượng Nguơn Tứ Chuyển và tinh thần đạo đức để làm căn bản, nhưng hiện giờ đạo đức tinh thần của nhơn loại không còn như thời Thượng Cổ nữa. Chúng ta có thể nói theo Tiên nho rằng: Cổ nhơn hình tợ thú, tâm hữu đại Thánh Ðức, kiến nhơn biếu tợ nhơn, thú tâm an khả trắc. Tất cả nhơn quần xã hội trong thời văn minh nầy họ hay hỏi lắm, họ làm tinh thần trí não của chúng ta thêm rối, tiếc có một điều Thánh Ðức của họ không có. Hại thay! Họ không cần Thánh Ðức thì tức nhiên cái sống của họ không phương nào bảo vệ được Ðạo Nhơn Luân của họ. Nếu bảo vệ không được Ðạo Nhơn Luân, tức nhiên họ xu hướng theo vật hình thú tánh mà thôi. Họ sống theo vật hình, theo thú tánh thì ngoài ra không biết gì hết, như thế Thánh Ðức không còn giá trị gì nữa. Nhơn loại đã ly loạn, Ðạo Nhơn Luân nó đi đảo ngược con đường Thánh Ðức. Bởi cớ cho nên Ðức Chí Tôn đến lấy Nho Tông trước kia làm căn bản, Ðức Khổng Phu Tử đã cứu vãn tình thế nước Trung Hoa thế nào thì ngày nay Ðức Chí Tôn đến cứu vãn nhơn loại với phương pháp ấy. (Thuyết Ðạo QV / tr 77) 4. NHO TÔNG CHUYỂN THẾ A. THUYẾT TRỜI & NGƯỜI ĐỒNG TRỊ Trong buổi nọ nước Trung Hoa thống trị một đại cường quốc chỉ lấy tinh thần làm căn bản vĩ đại trị vì thiên hạ thái bình; giờ phút nầy đeo đuổi theo nền văn minh tối tân mà chúng ta gọi là nền văn minh hóa học, chỉ biết tương tranh mà sống, lấy mạnh làm căn bản, tức nhiên lấy gươm đao làm phương trị thế. Hai cái phương pháp, hai cái hành tàng ấy để trước mắt nhơn loại đều thấy rõ phương nào hay, phương nào dở, nên hay hư, một nền văn minh vĩ đại vi trị tức nhiên thiên hạ và thiên thượng đồng trị. Cái làm cho chúng ta cảm kích hơn hết, tấn tuồng đã diễn ra đây chưa có định quyết ngày giờ nào chấm dứt. Tội nghiệp thay cho Trung Hoa làm chủ một nền văn minh dường ấy, nắm trong tay một mãnh lực phi thường mà hôm nay phải chịu nạn tương tàn tương sát dường ấy. Bần Ðạo đến Kiêm Biên có gặp một vị võ quan tức nhiên là quan sáu Des Basaords, Ngài hỏi một điều lạ thường là Ðức Khổng Phu Tử sanh trước Ðức Chúa Jésus Christ 500 năm, Mohamed sanh sau Ðức Chúa Jesus-Christ 500 năm, Ngài vừa nói đến đây Bần Ðạo liền chú ý đến ba người ấy tương lai cũng như một, bởi thuyết Trời Người đồng trị của họ đó vậy. Bần Ðạo liền nói: Ba người ấy cách biệt nhau 500 năm mà ba người vẫn như một. Ông lại cười, ông hiểu Bần Ðạo đã quan sát tấn tuồng triết lý của ba nền Tôn Giáo ấy. Trời Người đồng trị phải chớ! Nếu không vậy, sự sống chết còn mất của nhơn loại phải làm sao, hành tàng của họ tồn tại hay chăng? trường cửu hay chăng? Hay nạn tiêu diệt hầu đến, ấy là vấn đề trị nước đến giờ vẫn để trong óc các nhà đại tư tưởng của nhơn loại. Chúng ta đã ngó thấy có trường tranh sống để quên cái chết, lại có cái trường tưởng cái chết quên cái sống, hai lẽ bất đồng. Hại thay cho nhơn loại, nếu toàn thể nhơn loại đều hưởng cái triết lý vô đối trung dung đạo đức của Khổng Phu Tử để lại thì mạng căn kiếp số của nhơn loại chưa đến mức nguy hiểm, chưa đến mức hại tương lai họ, không biết chừng đưa đẩy họ không đến nạn diệt vong mà chớ! Ðương nhiên bây giờ có hai triết lý oái oăm: - Một đàng nói tôi chủ về phần xác đây, tôi biết sống chớ không biết chết, duy có cái tranh sống hay ăn thịt, hay giết người để thay thân. - Một đàng nói bỏ phế kiếp sống thân hình nầy không đáng kể, chỉ trọng linh hồn mà thôi. Hai đàng đều quá khích, biểu sao không có trường tranh đấu náo nhiệt về tinh thần và hình thể nơi mặt địa cầu nầy. Vì sự tranh đấu ấy mà nhơn loại xáo trộn không biết theo bóng nào để nương thân cho tồn tại… Dầu các người mạnh thì các người sống với phương pháp mạnh, yếu sống với phương pháp yếu mà cái sống ấy các người chưa có làm chủ được, cái sống tạm nầy chưa có cái sống thiệt. Cái sống thiệt là sống có nguồn cội, cái sống chủ quyền, cái sống đó là cái sống trong tay Ðấng Tạo Ðoan mà ra. Cái sống nầy mới là thiệt, cái sống các người không có bảo trọng được, không có vi chủ; tức nhiên phải nhìn Ông Trời có quyền trị về phần xác thịt và linh hồn của chúng ta nữa…Ta phải tranh đấu, giựt giành cái sống của cả thảy đặng làm cái sống của mình; khi ta chết nó sẽ ra con vật mà thôi không có nghĩa lý gì. Nếu ta nói vậy thì ta không có tin ai, nếu ta tin có số hay chăng là sợ Ðấng nầy, Ðấng có thể tiêu diệt cả hình thể và linh hồn sa đọa nơi địa ngục mới sợ, nếu biết sợ mới giữ được, không thì trường tranh sống mãi tiếp diễn… (Thuyết Ðạo QIII / trang 79) B. TINH BA CỦA NHO TÔNG Thế Ðạo của Ðạo Cao Ðài là Nho Tông chuyển thế, mà Nho Tông tức nhiên Ðạo của Tổ Phụ chúng ta từ ngàn xưa để lại. Ấy vậy những yếu lý của Nho Tông mới có thể làm mực thước mà định chuẩn thằng trong khuôn khổ cái sống đương nhiên của mình đặng. Chúng ta đã thấy Nho Tông của chúng ta là một nền tôn giáo xã hội, cái đặc điểm của nó là Ðức Chí Tôn đến lập trường Nho Tông trị thế. Ấy vậy tinh ba của Nho Tông là gì? Phải chăng cái chiến thuật của nó là “Tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ”, cái tôn chỉ cao thượng của Ðức Mạnh Tử là 'Ðại học chi Ðạo tại minh minh đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư chí thiện.' Bây giờ xin cả toàn thể con cái Ðức Chí Tôn từ từ nghe Bần Ðạo thuyết chữ 'Tu Thân' trước : Từ Thượng Cổ tới giờ Ðức Thánh Nhơn lấy hai chữ Tu Thân làm căn bản, hai chữ tu thân đã có từ lâu, nếu chúng ta xem lịch sử của Nho Tông thấy nó đã xuất hiện từ Ðức Huỳnh Ðế có trên không biết mấy ngàn thế kỷ, trước Chúa giáng sanh. Ấy vậy nó là tối cổ, cái phương pháp tu thân dầu thời đại nào cũng có, cái chí hướng của các tôn giáo là phải tu thân lấy mình, dầu cá nhân dầu xã hội hay toàn thể nhơn loại cũng vậy. Cái tâm đức của con người bao giờ cũng có mâu thuẩn: hễ họ nghe thấy điều nào hay điều nào thiện đặng họ biết nhìn một cách chơn thật nhưng mà họ không có làm, còn biết chê cái dở cái ác mà họ lại làm. Hai cái đó nghịch cảnh với cái Tâm, không có một vị Thánh nào ở thế gian nầy tìm nguyên lý nó cho đặng.. Bởi vậy cái tâm lý của con người họ hay xu ác mà xa thiện, vì cớ cho nên các vị Giáo chủ lập nền tôn giáo dạy phải làm thế nào gọi là tu thân, dầu cá nhân hay toàn thể nhơn loại cũng phải lấy hai chữ tu thân làm gốc. Bần Ðạo đã nói, nó khởi đường lập đức là tại minh minh đức. Hại thay! Nơi thế gian họ đã hiểu như thế mà họ không kể đức, họ không lập đức, hỏi vậy thành Ðạo làm sao được? Cái đức ấy thiên hạ chỉ ngó mịt mịt mờ mờ nhưng họ đâu có biết rằng nó vô hình, vô ảnh mà huyền năng của nó không ai đảm đương được. Ðã tạo lập cái đức ấy phải trọn tâm làm một mới có thể thiên hạ kính trọng. Nhờ tâm đức ấy chúng ta mới có thể coi cả huyền vi của họ được. ..Bây giờ chúng ta đã ngó thấy từ thượng cổ đến giờ dầu cho từ hàng lê thứ dĩ chí đến bực đế vương muốn lập vị mình cũng phải nương theo cái đức ấy. Nếu chúng ta thấy họ còn dùng cái đức ở chỗ hèn hạ bao nhiêu thì không bao giờ giữ cái đức ấy còn tồn tại đặng rồi đến cái ngày bỏ đức của họ, trở lại dùng bạo tàn như Sở Bá Vương, như Tần Thủy Hoàng thì dầu cho cơ nghiệp họ có bền chắc bao nhiêu cũng phải xiêu đổ... Bởi cái thuyết lập đức người ta đã ham làm mà làm không được, nên cái giá trị của Hứa Do đối với Ðức Nhan Hồi cũng tương đương với nhau. Khi Ðức Nhan Hồi đai cơm bầu nước đi giáo Ðạo đến nước Tề, Tề Vương biểu ở lại thì bực công khanh của Ngài không mất, nhưng Ngài trả lời rằng : Thần đã quen cái thú an nhàn của thần rồi. Thú an nhàn không có thể gì mà đem đổi cái giá trị công danh quyền tước đặng. Nếu Bệ Hạ muốn đổi đặng nên biết cái giá trị lập đức nó trọng hệ là thể nào. Hại thay ! Ở giữa thế gian nầy không biết mấy vị hiền nhân chí sĩ đã hiểu được cái giá trị lập đức chưa đến nên mới ra sự tôi mọi hạ tiện làm hư danh thể của mình, nếu để cái giá trị ấy lại thì không đáng giá gì hết mà phải hạ mình làm chi ? Hai ngôi vị ấy đối chọi với nhau như một trời một vực. Ở nơi cửa Ðạo, Bần Ðạo đã đem con cái Ðức Chí Tôn và thanh niên của Ðạo đặng làm Thánh Thể tương lai của Ngài. Nếu cả thảy đều biết nỗi khổ để làm phương tu thân lập đức thì cái giá trị của thiên hạ làm dễ như ăn ớt chớ không có chi khó. 5. TRIẾT LÝ TRỜI NGƯỜI ĐỒNG TRỊ Ðức Khổng Phu Tử, tức là Ðức Ðại Thần Chư Thánh Văn Tuyên Vương chuyển giáo Ðạo Nho. Ngài là tiền bối của Ðức Chúa Jésus Christ mà Ngài ít đặng hạnh phúc hơn Jésus Christ ; Năm trăm ( 500 ) năm về trước cái thuyết của Ngài, tâm lý nhơn loại buổi ấy chưa có nạp dụng đặng, lại nữa Ngài đến với cái danh từ một nhà triết lý mà thôi. Ngài không có hân hạnh, không có can đảm đến với danh từ con cái Ðức Chí Tôn cũng như Jésus Christ, vì cớ lý thuyết vẫn có một nhưng giáo đạo của Ngài không có hạnh phúc hơn Jésus Christ . Ngài chỉ có làm chứng rằng có một Ðấng thống trị cả càn khôn thế giái, Ðấng ấy Ngài để danh hiệu là 'Nhứt Ðại' mà thôi, tức nhiên là 'Thiên' mà Ngài không nói ra như Jésus Christ. Ngài chỉ làm chứng rằng có một Ðấng tối cao mà thôi, thất bại của Ngài là vì lẽ đó. Ðắc thế của Jésus Christ nói quả quyết nhơn loại có Ông Cha mà Ông Cha ấy là chúa tể càn khôn vũ trụ. 1./ Hoạt động về thi hài xác thịt, tức nhiên như thân thể chúng ta giờ phút nầy vậy, mỗi ngày chúng ta hoạt động mới có sống, bằng không hoạt động thì chết, luật tạo đoan quả nhiên vậy. 2./ Còn cái hoạt động nữa, hoạt động vô hình chúng ta không thể thấy được mà chúng ta nhìn quả quyết có hoạt động về tinh thần trí thức. Vì cớ hai cái hoạt động của con người chia ra hai phần : - Hoạt động về phần Ðời. - Hoạt động về phần Ðạo. Là vì cái thi hài phàm tục nầy nó là con vật, nó phải hoạt động theo con vật, hoạt động theo giác thể của nó, nó chưa có biết hoạt động theo chơn linh. Vì cớ cho nên Ðức Chí Tôn tạo nên hình tướng nó, để tạo nơi mình nó Ngài còn sắp đặt một kỷ cương để cho tinh thần nó vi chủ hình hài của nó. Còn để cho thân thể nó vi chủ tâm hồn , nó sẽ ngây cuồng ngu dại, nó sẽ đi đến chỗ tự diệt mà thôi…Chúng ta phải nhìn có một Ðấng cầm quyền trị về phần tâm hồn, trí não chúng ta. Ðấng ấy đến giờ phút nầy đến ở cùng chúng ta, nhìn chúng ta là con cái của Ngài, Ngài đến với một danh từ là Thầy của chúng ta, mà chẳng phải làm Thầy mà thôi còn làm Cha nữa. Chúng ta tưởng tượng trở lại, để tinh thần suy xét từ thử đến giờ coi các sắc dân nào trên mặt địa cầu nầy đặng hạnh phúc dường ấy chăng ? Hai ngàn năm về trước Ðức Khổng Phu Tử đến tạo Ðạo không đạt được thuyết quí báu cao trọng ấy, cũng do nơi duyên cớ. Chúng ta tưởng Ngài đến tình cờ, không có gì là tình cờ trên mặt địa cầu nầy hết, không phải tình cờ mà Ngài đến. Ngài đến trong đời Chiến Quốc tức nhiên trong buổi ly loạn…Thiên hạ đang chiến đấu với nhau, giành phương sống của mình, lấn quyền thế trong lục quốc phân tranh không ai nhường ai, tranh sống với nhau một cách kịch liệt Ngài mới đến. Ấy vậy Ngài đến không phải tình cờ, nếu chúng ta tưởng tình cờ thì Ðấng cầm cân Thiêng Liêng nơi cõi hư linh hằng sống chẳng có hay sao? Bằng cớ hiển nhiên là Chúa Jésus Christ đến lập Ðạo của Ðức Chí Tôn như Ngài trong buổi loạn ly, buổi mà La Mã làm bá chủ, các sắc dân bị chinh phục quật cường chiến đấu để giải ách nô lệ của mình, buổi ấy cũng là chiến quốc vậy. Hai người đến không phải là tình cờ mà đến đâu, cũng một thuyết với nhau đem đạo lý cứu vãn nhơn loại. Mỗi phen nhơn loại chịu thống khổ về tâm não dường nào thì có Ðấng Từ Bi độ tận đưa tay ra cứu vớt họ luôn luôn, đặng mà cứu khổ nhơn loại, mãi mãi không bao giờ sơ sót hết. Nếu như không có Ðấng cầm quyền năng trị tâm lý tinh thần nhơn loại thì chưa chắc có ai làm nỗi. Cái thi hài của nhơn loại tức nhiên thân thể còn tồn tại được để quyết định tương lai của nhơn loại đương nhiên, hai cái thuyết duy tâm và duy vật, ngày giờ nào hai thuyết ấy tương hòa đặng thì chúng ta thấy cơ quan giải thoát đặng. Ngày giờ nào Trời Người hiệp một cùng nhau đồng trị với nhau tức nhiên Người trị thế, Trời trị hồn. Hai Ðấng cầm quyền thế gian nầy và cõi hư linh hằng sống hiệp với nhơn loại mới được hạnh phúc, tương lai mới được vững chắc và tồn tại. Bằng chẳng vậy con đường chiến đấu đặng sống của họ sẽ xô đẩy họ đến con đường tự diệt . (Thuyết Ðạo QIII / tr 48) 6. QUYỀN NĂNG CỦA NỀN TÔN GIÁO Cả chủng loại loài người và vật loại, chúng ta quan sát ngoại thể thấy loài người và vạn vật phải ở chung hiệp cùng nhau, gọi là xã hội mới sống được. Chúng ta thấy trước mặt nhiều vật loại sống đặng như ong, kiến, cũng nhờ tổ chức xã hội, giống thú mà còn biết chung hiệp từ đoàn thể tức nhiên có tinh thần xã hội. Loài người cốt yếu sống cũng phải có xã hội. Lại nữa, nếu chúng ta tìm chơn lý của Phật Giáo thì thấy Chí Tôn đã phú thác cho loài người làm chúa vạn vật. Ngài để tinh thần của loài người cao trọng, tức nhiên cho người có khối linh vĩ đại, trọng hệ hơn, đủ phương thế làm tròn trách vụ đối với vạn vật, tức Ngài định cho ta làm chủ xã hội vạn linh. Làm trách vụ tức nhiên có tinh thần cảm xúc mà cảm xúc tức nhiên sanh tình. Tình là luật thiên nhiên của Chí Tôn. Tình phân ra hai vở chánh, nơi cõi phàm thì có định luật giới hạn, chúng ta thấy tạo luật pháp xã hội, hiển nhiên nơi cửa Hư Linh cũng có đặc quyền, nên cũng phải có khuôn luật là Thiên Ðiều. Có nhiều vị Phật cầm vững quyền thưởng phạt ấy gọi là nhơn quả, vay trả, hễ nên thì thưởng còn hư phải thường, luật định như thế nên rất công bình chánh đáng. Vì có khuôn khổ luật pháp do quyền thiêng liêng của Chí Tôn định, bằng chẳng vậy dữ cũng ra hiền, lành cũng như ác, hỗn độn cả tinh thần của Chí Linh, tổng số không mực thước, không căn đề, không cội rễ. Ðạo cốt yếu tạo khối tình ái tâm lý của loài người, biết mình là phần tử của xã hội, phải làm điều gì cho xã hội nhờ. Gia đình là một phần nhỏ trong xã hội nếu biết giữ gìn thân thể, tôn trọng danh giá cha mẹ. Anh em thảng có đứa du côn không kể gia pháp, làm rối loạn gia đình thì kẻ đó ai cũng muốn bỏ, muốn đưa ra khỏi gia đình tông tổ… Càn Khôn là đại gia đình, cửa Ðạo cũng vậy, xã hội cũng vậy, là một gia đình có cha mẹ, bà con, như một tông tộc vậy. Lớn hơn gia đình là một quốc gia, là một gia đình lớn, gồm cả các gia đình tổng hợp lại, chìu theo một khuôn luật do quyền năng của Ðạo giáo tức Ðại gia đình. Con người sanh ra phải biết trách vụ của mình, trong tiểu gia đình hay đại gia đình cũng vậy. Người ở gia đình chỉ xưng mình là con, vì cớ Jésus Christ chỉ xưng mình là con của Người ( Le fils de l’home ). Ôi ! chỉ làm người mà được thành nhơn thì hiểu giá trị của nó thế nào? Văn minh Nho Giáo hiểu giá trị làm người ấy khó khăn lắm, khó mà minh biện được : Vi nhơn nan, vi nhơn nan' ( làm người khó, làm người khó ). Tố tố vi nhơn nan (làm người rất nên khó ). Mong làm người cho xứng đáng là người trong gia đình là khó khăn lắm, mà hễ làm người để dìu đỡ được gia đình tức là chúa gia đình đó. Mình là người mà nâng đỡ được quốc vận là chúa của quốc gia. Giờ ta thử hỏi : một nền tôn giáo đem tâm lý loài người hiệp một lại là một điều đứng trên cái mức đại gia đình đó. Làm người chủ xứng đáng của gia đình đã là khó, làm người chủ xứng đáng của quốc gia lại càng khó, rồi làm người chủ xứng đáng của một nền tôn giáo không phải dễ. Hễ làm chủ được xứng đáng, thì đối với nhơn quả, ta chỉ có nhơn mà không còn quả nữa. Người đã đem thân nầy ra làm chúa gia đình, không còn là mình nữa mà là bậc tiền bối; người đáng là người chủ của một nước là bực Thánh nhơn, người đáng là người chủ một tôn giáo ấy là vị Phật. Ấy vậy, chúng ta muốn quan sát một tôn giáo nào được gọi là chánh giáo, thì tôn giáo đó phải đủ yếu điểm tạo nên người chủ của nó đặng dìu đỡ các phần tử của Ðạo ấy, đủ hạnh kiểm, đủ quyền năng. Phải cao thượng hơn sự thường tình, đi cho vững trên con đường hằng sống mới xứng đáng là chủ của Ðại gia đình càn khôn võ trụ. Cả phương pháp không mực thước, quyền hành để đạt đến địa vị chúa một tôn giáo thì không phải chánh đạo…Thể pháp của Ðạo Cao Ðài có khuôn khổ tập cho nhơn loại đi đến mục đích trong luật pháp của một nền chánh giáo. (Thuyết Ðạo QII / tr 17) 7. ĐẠI HÙNG, ĐẠI LỰC, ĐẠI TỪ BI Triết lý nhà Phật từ tạo Thiên lập Ðịa đến giờ đã tạo ra biết bao nhiêu Ðấng đã thừa hành mạng lịnh Phật giáo đang hành hóa chúng sanh nơi mặt thế gian nầy, nếu không có tánh đức ấy chẳng hề khi nào lập giáo đặng. Ðại lực, câu ấy có lẽ để một phương ngôn luận, công lý của một mối Ðạo mình tu, phải có một đức tin hùng dũng mới đặng. Bần Ðạo nói, nếu không có tánh đức hùng dũng chẳng hề khi nào thắng khảo đảo đặng. Cả thảy con cái của Ðức Chí Tôn đều biết từ ngày mở Ðạo đến giờ, một trường khảo đảo kịch liệt; từ ngày Ðạo mới phôi thay đến giờ, nếu không có tinh thần hùng dũng của con cái Ðức Chí Tôn cương quyết lập Ðạo cho thành, Cương quyết phải thắng' vì tổng số cả tinh thần hùng dũng của con cái Ðức Chí Tôn, nên ngày nay nền Ðạo mới ra thiệt tướng như vậy…Quan sát từ buổi thô sơ triết lý do những điều Ðức Chí Tôn tìm Chánh Lý, Ngài đến cầm cây viết Thiêng Liêng lựa chọn đem vô Thánh Thể của Ngài, những kẻ ấy thất Ðạo vì nguyên do buổi trước, không theo dõi bước Thiêng Liêng của Ðức Chí Tôn là do nhút nhát sợ sệt, bạc nhược, sợ cường quyền, sợ luật đối phương mãnh liệt. Họ chưa có chí hùng dũng quyết tranh đấu quyết thắng nên họ thất Ðạo, cái thất Ðạo của họ là thiếu chí hùng dũng, là tại nơi họ nhút nhát, bạc nhược. Tinh thần hùng dũng chẳng phải nơi cửa Ðạo mà thôi, ngoài đời cũng vậy. Bậc vĩ nhân đã tạo thời cải thế từ thượng cổ đến giờ, nếu không có tinh thần hùng dũng thì phải bị làn sóng đời lôi cuốn như một dề bèo trôi giữa dòng sông kia vậy. Ðức Thích Ca đã làm được, khi Ngài đạt vị, Quốc Vương trị an thiên hạ nơi ấy là cha của Ngài bắt tội Ngài bỏ nhà đi tu là bất hiếu. Nếu làm con như kẻ thường tình trở về nói đi tìm Ðạo chắc Ngài không nở bắt tội, mà ông cha cốt yếu muốn thấy Phật nên mới làm như vậy mà thôi. Ngài truyền cho thiên hạ biết, nếu gặp Ðức Phật Thích Ca thì bắt đem về cho Ngài lên án tử hình.Chừng Ngài nghe nói lên án tử hình ấy, Ðức Thích Ca liền ra chịu án tử hình. Ngài nói: án tử hình ấy để một mình con xin chịu mà thôi, còn tín đồ của con xin cha tha thứ để cho nó tu. Nếu không có tinh thần hùng dũng chưa ai làm được như Phật Thích Ca vậy. Nói một chí khí hùng dũng về tinh thần của Ðức Lão Tử, từ hồi ở nơi Thơ Viện nhà Châu bị đuổi, lên xe trâu mà về Côn Lôn Sơn, đi thì có một manh áo, một con trâu ra khỏi dinh nhà Châu. Nếu không có chí hùng dũng chưa dễ gì đang làm một vị đại quan Triều Nhà Châu mà từ nơi dinh nhà Châu ra đi chỉ có một manh áo với một con trâu mà về Côn Lôn Sơn đặng. Ðức Khổng Phu Tử đã châu lưu lục quốc bất kỳ nơi nào cũng bị thiên hạ biếm nhẽ, chê bai, bắt dọa cho đến lúc trở về nước Lỗ, khi về Ngài còn cần cù dạy học trò. Ngài làm quan đến bực Tể Tướng và làm quan đến chức Gián Nghị Ðại Phu mà vẫn còn cần cù dạy học. Nếu Ngài không có chí hùng dũng thì không thể gì làm như vậy đặng. Như Ðức Chúa Jésus Christ khi Ngài đã chết trên cây Thánh Giá, chúng đóng đinh trên cây Thánh Giá mà quân vô đạo đứng dưới cây Thánh Giá kêu Ngài nhiếc mắng Ngài, nói Ngài là con Ðức Chúa Trời quyền năng vô biên cứu cả thiên hạ đặng, đâu người cứu thử người trước coi, người làm sao xuống đặng bốn cây đinh đóng hai tay hai chân của người đó coi. Ngài chỉ ngó lên Trời cầu nguyện : Thưa Cha, xin Cha tha tội tình cho chúng nó, vì chúng nó chưa biết lỗi lầm của chúng nó. Nếu Chúa không có chí hùng dũng thì chưa có tinh thần ấy. Mohamed lập ra Ðạo Hồi Hồi bị xô đuổi, bị bắt nhốt khám trốn chui, trốn nhủi mà không buổi nào thất chí…. Còn nhiều phương nữa nếu không có chí hùng dũng, có đại lực thì chưa làm được. Hùng dũng được, tức nhiên theo lẽ phải, có hùng có lực phải từ bi. Nếu muốn vào hàng Thánh Ðức phải đi ngang qua cửa từ bi. Hễ Ðạo có hành tàng thì lấy từ bi làm căn bản, còn hung tàn thì đi theo cái hung, tức báo đời chớ không phải cứu đời. Các nhà đạo giáo đi đến cửa mà vô không đặng thì trở qua tả đạo bàng môn; còn đi thuận chiều thì là đại từ bi, qua được tức nhiên theo chiều của Ðức Chí Tôn mà đôi khi còn đi qua thiên lý, thiên số và thiên tánh tức nhiên là chơn tánh, tức là chơn đạo. Nếu chơn đạo không biết giữ thì đại hùng đại lực sẽ biến thành đại ác tả đạo bàng môn. Tương lai thay đổi, phải mở con mắt Thiêng Liêng, lấy tinh thần toàn thể, dầu chức sắc Thiên Phong hay tín đồ cũng vậy, con mắt phải mở. Con mắt ấy là Huệ Nhãn phải mở cho rõ ràng minh mẫn đặng coi chừng thay đổi; nền chánh giáo của Ðức Chí Tôn vĩnh cửu trường tồn, đừng để ngày sau đổ sụp mà ân hận (Thuyết Ðạo QII / tr163)
|