Huyền Diệu Cảnh

II. NHƠN ĐẠO THUYẾT

Muốn học đạo trường sanh của Tiên thiên, trước hết phải vụ tất làm đạo người cho trọn.
Sao kêu là nhơn đạo?
Nhơn đạo là: làm vua phải có lòng chí nhơn với kẻ dưới, làm tôi phải ở cho tận trung, làm con phải chí hiếu với cha mẹ, ở cùng bằng hũu phải có dạ thật tình, đùng gian dối.
Từ xưa đến nay, kẻ trung lương hiếu hạnh cũng chẳng thiếu chi. Phàm kẻ trung lương vì nước quên mình, cực nhọc ngàn điềuchẳng tránh, nhịn nhục cho hết lòng trung, khi chết rồi được siêu sanh nơi Thiên đường, thắng cảnh Cực lạc. Còn kẻ có tiết, có hiếu, khi thác rồi đặng vào cõi tiên. Trời trả lại cho mỗi người tuỳ theo việc làm lành dữ của mình làm tại thế gian này. Đấng tạo hoá thuởng phạt phân minh, chẳng sai chạy.
Đức Lử Tổ (là Lử thuần dương, tức Lử Đồng Tân) nói rằng: Đức tu thiên đạo, nhơn đạo hiệp tiên; nghĩa là muốn tu đạoTrời, thì phải làm xong đạo người, mới là hiệp phù với ý của tiên đạo. Nếu xét theo lời đức Lử tổ mà làm cho y lời, thì mìnhcũng đồng vai với Phật, Tiên, Thánh được. Vì không có vị nào bất trung, bất hiếu mà thành Phật, Tiên, Thánh được.

III. THIÊN ĐẠO LUẬN

Thiên đạo ấy là lẻ trời. Khí hạo nhiên của hư vô kêu là đạo. Hễ đạo còn thì sống, đạo tan thì chết. Ấy vậy đạo thiệt là haysanh mà cũng hay sát. Hễ người nào mà suy xét tánh lý cho cùng tột, thì người ấy cũng đã gần thiên đạo rồi. Sách Dung Trungcó nói rằng: Thiên mạng kêu là tánh, xuất tánh kêu là đạo.
Thầy Tăng tử nói: Tri chỉ nhị hậu hữu định, định nhi hậu năng tịnh, tịnh nhi hậu năng an, an nhi hậu năng lự, lự nhi hậu năngđắc; nghĩa là biết đủ thế tình nhơn dục rồi thì phải thôi, hễ thôi thì cái tâm mới định được, hễ định được tâm rồi thì mới thanhtịnh được, hễ thanh tịnh được thì mới bình an được, mà khi trong lòng bình an rồi thì phải lo làm sao đặng cái đạo trườngsanh ấy.
Tri chỉ là biết thôi, là biết nhàm danh lợi, ân ái, mỗi món đều chẳng tuởng tới nữa, cho đến muôn việc trần thế đều coi nhưkhông không. Hễ biết thôi, rồi sau mới định cái phóng tâm của mình được. Định là định trong nơi khí huyết, như mèo rìnhchuột
(một nháy mắt cũng không xao lãng), như gà ấp trứng (cứ bo bo chăm non hoài,
chẳng cho nới ra), một mảy nhơn dụcchẳng phát vọng tới tâm,
một mảy trần thế không muốn đến, vậy mới gọi là định.
Định rồi sau mới tịnh. Tịnh ấy là trong lòng không lo việc thế,
ngoài dầu ngó cũng không thấy hình dạng chi, mờ mờ mịt mịt,
đó là lúc tịnh đốc chi thời, nghĩa là lúc thiệt hết sức tịnh, mới có cảnh ấy.
Tịnh rồi sau mới an. An đây là thần, khí xung hoà, cái mình mình có huân-chưng là ấm ấm, mắt nhìn mà chẳng thấy, tai lóngmà chẳng nghe. Muôn phép trở về một, thì thần nhóm khí gom, trăm bịnh đều tiêu hết. Đó là an, mà an rồi sau mới lo. Lo là thần biết mà chẳng hôn mê, lúc đó như các ngoại thận nó cử động lần đầu tiên thì ắt có kim đơn sanh ra. Lúc đó thì cái thầncủa mình tự nhiên nó biết. Chính lúc này phải lo đem kim đơn vào chỗ huyệt khí (cần minh sư chỉ điểm cho). Nếu chẳng lomà đem cho nhằm chỗ, thì chơn khí tựu rồi lại tan mất, rất uổng cho cái công luyện thuốc mà không được chi cả. Hễ có mộtmảy tâm ý hoảng hốt, thì đơn dược lại chạy bậy ra ngoài. Phải dùng ý mà lấy thuốc đem vào lò. Thoảng như tâm chẳng lo đem màđơn dược cho nhằm chỗ huyệt khí, cho hiệp ngày giờ, thì thần trì, khí tán (thần chạy, khí tan) làm cho dược miêu khôngđặng qui căn. Cho nên nói rằng: Lo rồi sau sẽ đặng, là đặng kim đơn, đắc được qui lư. Được thuốc rồi phải gói gấm kỹ lưỡng mà ôn dưỡng thuốc ấy, đặng đợi tới giờ mà lấy thuốc, rồi vận hành châu thiên lên xuống, theo phép, theo chừng. Đợidược miêu chừng đúng sức, không non, không già, thì lấy thuốc. Nếu ngoại thân động mà chẳng dùng lấy thuốc thì rất lầmđó. Luyện lâu cho khí đủ thì hoá ra kim đơn.

IV. TAM HUÊ TỤ ÐẢNH, NGŨ KHÍ TRIỀU NGƯƠN LUẬN

Tam huê ấy là Tinh, Khí, Thần. Tinh, khí, thần ban đêm thì trú nơi thận. Còn ban ngày thì ở 3 nơi khác nhau. Ba chỗ ấy là: Tinh ở nơi lổ tai, Khí ở nơi miệng, Thần tại con mắt. Miệng nói tai nghe, con mắt thấy điều này điều kia, mà làm cho lần lần hao mòn tinh, khí, thần.Kẻ tu hành phải lấy chơn ý thâu tinh, khí, thần.
Ðem cho nó vào trong kim đảnh, đó là tam huê tụ đảnh.Đạo
Ngũ khí triều ngươn là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tức là ngũ hành. Ðêm ngày mỗi món đều ở yên một chỗ, nghĩa là phần của hành nào thì hành này phải ở đó, chẳng được đi bậy qua chỗ khác. Ban ngày thì kim khí ở nơi con mắt, mộc khí ở nơi lổ tai, thủy khí ở tại lổ miệng, hỏa khí ở tại lổ mũi, thổ khí nơi ngoài da. Còn ban đêm thì kim khí ở tại phổi, mộc khí trú tại gan, thủy khí trú tại thận, hỏa khí trú tại tim, thổ khí trú tại bao tử. Mỗi ngày ngũ khí đều có hao kém bởi vì ngũ tạng là tâm, cang, tỳ, phế, thận nó hay chuyển động.
Như may mà gặp được minh sư truyền chỉ phép hồi quan phản chiếu, đặng làm cho ngũ hành triều tựu (chầu nhóm) nơi huyền-quan-khiếu. Ðó là ngũ khí triều ngươn.

 Trở lại Mục Lục