Huyền Diệu Cảnh

XVII. TAM ÐẠO NGŨ TẶC LUẬN

Hễ con mắt ngó thấy sắc đẹp thì cái thần bị cướp. Lổ tai nghe lời dâm dục, hoặc ca hát thì tinh bị cướp. Lổ miệng hay ăn đồ ngon ngọt thơm tho thì khí bị cướp.
Vậy cho nên, người tu hành trước phải luyện kỷ (sửa mình) đặng làm cho tinh, khí, thần hưng vượng lại, làm cho thất tình, lục dục chẳng động. Thất tình là hỉ, nộ, ái, ố, lạc, ai, dục. Ngũ tặc là: tham, giận, dại, thương, muốn, kêu là nội ngũ tặc. Nhãn (con mắt), nhĩ (tai), tỷ (mũi), thiệt (lưỡi), ý (cái ý) ấy là Thiên-Chi ngũ tặc (năm mối giặc của trời cho). Sắc (sắc tốt), thinh (tiếng), hương (mùi thơm), vị (đồ ăn ngon), xúc (khiến cho mình làm) là Thế-Chi ngũ tặc (năm mối giặc của thường đời).
Ngũ tặc chẳng loạn, lục căn thanh tịnh, tinh không diêu động. Ðó gọi là giặc chẳng đánh phá nhà nghèo khó. Nếu thiên chi ngũ tặc không cẩn thận, thì nội chi ngũ tặc nó dấy loạn. Còn ngũ tặc của thường thế không trừ được, thì ngũ tặc của trời phải sanh. Cho nên con mắt thấy sắc tốt chắc phải ưa, thì hóa ra hại tinh. Tai nghe giọng lảnh lót, ắc sự muốn lừng lên, thì diêu tinh. Lổ mũi hửi mùi thơm thì tham động làm cho hao tinh. Miệng nếm đồ ngon thì sự ưa thích lừng lên, khiến cho hao thần. Ý gặp xúc (là nó làm cho mình làm) ắc ngây dại lừng lên, làm cho hao tinh. Ấy là năm đạo binh giặc ngày đêm hằng ẩn trong mình người ta, thì làm sao mà có chơn tinh cho đặng. Phàm kẻ nào muốn luyện đơn, thì phải tỷ cái thân mình như một nước, tỷ tinh khí mình như là dân. Hễ tinh không động thì dân bình an. Hễ thần khí đủ thì gọi là nước giàu. Luyện đơn là chiến dịch (đánh giặc) tỷ tiên thiên nhứt khí là thánh quân (vua sáng).
Còn trước khi luyện kỷ phải lo đuổi ngũ tặc, không cho nó làm hại trong mình,
đặng bảo tinh, dưỡng khí, tồn thần, rồi sau mới chiến thắng. Chiến thắng (đánh giặc ăn)
thì đặng khí Tiên-Thiên chơn nhứt, chừng đó mới có chỗ trống, luyện được kim đơn.

XVIII. PHỤ NỮ TU HÀNH LUẬN

Ðàn bà con gái tu hành, chẳng nên vào rừng lên núi, xa các xóm làng.
Phải ở gần thành thị, làm chỗ tịnh thất mà an thân.
Hoặc trú nơi chùa miễu, đóng cửa giả đò người tụng kinh, niệm Phật. Còn như có tiền bạc, đủ sức thì làm buồng kín, cất tịnh thất mà tu luyện. Hoặc dùng một, hai người hộ pháp lo việc ăn mặc, chẳng nên làm chán chường, phải cho kiểm mật mà tu luyện mới được. Phải ở một người một phòng riêng, chẳng nên hai người ở chung một buồng. Nếu hai người ở chung chắc phải chuyện vãn mà không tịnh,
thì huyết chẳng hóa khí, khí chẳng hóa thần đặng.Lại nói rằng: đàn bà con gái tu hành,
trước hết phải giữ nhũ phòng cho lắm. Nhũ phòng là chỗ sanh khí. Ðàn ông con trai luyện tinh hóa khí thì lấy trảm Bạch hổ (là hết tinh) làm ấn chứng, đàn bà con gái lấy chỗ trảm Xích long (hết đường kinh) làm ấn chứng.
Ðời nhà Tống, Ông Lử Ðồng Tân độ kỹ nữ Huỳnh Oanh tu luyện dạy phải lo chứa khí nơi vú (nhũ phòng). Dùng hống làm chủ (dương), lấy duyên làm khách (âm). Lại cũng độ kỹ nữ xứ Ngô Hưng tên Trần Nô, dạy luyện chỗ giáp tích song-quang và côn-lôn. Lúc luyện khí qua mấy khí ấy, phải nhớ lời thầy dạy, và về sau trong phép chiết khảm, điền ly, phân tý, ngọ, thái âm luyện hình mấy phép đó cũng luyện y một cách như đàn ông con trai vậy.     

 Trở lại Mục Lục