ĐƯỜNG THI LƯU KÝ Hà Việt (Ngọc Ánh Hộ ) Thánh Tịnh Long Thành 301. Khí phách hùng anh 302. Đại Đồng khai mở 303. Hiến dạ chân thành 304. Khúc tương tư 305. Thoát mộng trường 306. Mùi đời tục lụy 307. Vượt trùng ba 308. Nằm bệnh 309. Chiếc xe đạp lịch sử 310. Hãy trọng lễ nghi 311. Cơn khảo 312. Trọn lòng dâng hiến 313. Khá mau gìn Đạo 314. Cõi đời ảo mộng 315. Thức tỉnh mộng hồn 316. Vạn nẽo đường trần 317. Chấp cứ làm chi 318. Thâm tình viếng mộ 319. Tiển biệt 320. Trước cơn giôn bảo 321. Hãy khá tỉnh tâm 322. Lửa nung vàng thật 323. Hồn thiêng hiển hích 324. Sầu tiển biệt 325. Ngẫm đời tỉnh mộng 326. Khóc chồng 327. Công viên quả mãn 328. Cải số 329. Xin đừng lưu luyến 330. Đường tu vẹn giữ 331. Thơ mời hội xuân 1994 332. Đáp từ hội xuân 1994 333. Xuân duyên ngộ 334. Tâm pháp tình thơ 335. Cầu xuân phúc huệ 336. Trái tim hồng 337. Gương sáng Chu Trinh 338. Phạm Ngũ Lão 339. Mạc Đỉnh Chi 340. Chu Văn An 341. Lý Công Uẩn 342. Lê Lợi 343. Lê Thái Tổ 344. Lê Thái Tông 345. Lê Nhân Tông 346. Lê Ngọa Triều 347. Duyên thơ kỳ hữu 348. Duyên đắc kỳ giao 349. Nước 350. Không 351. Hòa đàn 352. Thanh và trược 353. Tà và Chánh 354. Đàn trăng thức gọi 355. Xuân mộng canh trường 356. Mật chỉ truyền tâm 357. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 1 ) 358. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 2 ) 359. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 3 ) 360. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 4 ) 361. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 5 ) 362. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 6 ) 363. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 7 ) 364. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 8 ) 365. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 9 ) 366. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 10 ) 367. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 11 ) 368. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 12 ) 369. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 13 ) 370. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 14 ) 371. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 15 ) 372. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 16 ) 373. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 17 ) 374. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 18 ) 375. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 19 ) 376. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 20 ) 377. Chúc Xuân 378. Táo Quân 379. Tấm Cám 380. Mèo lại huờn Mèo 381. Chim Quấc 382. Sơn Tinh Thủy Tinh 383. In màu kỷ niệm 384. Thơ con Muỗi ( Bài 1 ) 385. Thơ con Muỗi ( Bài 2 ) 386. Thơ con Muỗi ( Bài 3 ) 387. Thơ con Muỗi ( Bài 4 ) 388. Thơ con Muỗi ( Bài 5 ) 389. Thơ con Muỗi ( Bài 6 ) 390. Thơ con Muỗi ( Bài 7 ) 391. Thơ con Muỗi ( Bài 8 ) 392. Thơ con Muỗi ( Bài 9 ) 393. Thơ con Muỗi ( Bài 10 ) 394. Khuôn Viên thọ học 395. Tịnh Tâm Tối Thượng 396. Thập Nhị Thuần Dương 397. Hội Kiến Pháp Môn 398. Tri Huyền Quang 399. Thông Thiên Nhĩ 400. Hạo Nguơn Khí 301. Khí phách hùng anh Khí phách hùng anh hiển hích trần, Mất còn không phải việc cân phân. Sống thời danh rạng, gìn công trận, Thác để gương nêu, trọng đức ân. Đất nước đẹp giàu, vừa dạ sĩ, Quê hương tươi sáng, thỏa lòng nhân. Suy tư đếm lại bao trường đoạn, Dâng hiến cuộc đời cho quốc dân. 302. Đại Đồng khai mở Đại Đồng khai mở, thọ Kim Cung, Chơn lý bừng soi khắp tận cùng. Điểm chuyển luật trình hành chánh Đạo, Khai minh giáo pháp học trung dung. Tinh thần tập thể nhiều công lớn, Nghị lực cá nhân góp sức chung. Tất cả hợp thành nền tảngvững, Hưởng đời Thánh Đức phúc muôn trùng. 303. Hiến dạ chân thành Tu thân phước huệ phải thông truyền, Để kịp tuổi đời thoát nghiệp duyên. Giải mộng phù du, tường Khối Đại, Tan mờ ảo ảnh, rõ Chân Nguyên. Đem lòng nhiệt quyết, cơ Hồng Lạc, Hiến dạ chơn thành, Đạo Tổ Tiên. Đuốc huệ ngời soi, bừng vạn lối, Hiếu trung nhân nghĩa sáng gương hiền. 304. Khúc tương tư Biết phải hờn ai ! tự trách mình ?... Niềm đau tràn ngập kiếp nhân sinh. Vì đâu tư tưởng in thương nhớ ?... Lại phải con tim khắc bóng hình ?... Suốt những tâm tư còn dối giả, Trải bao ước vọng mất niềm tin. Đèn trăng soi thấu chăng liều mộng, Những đoạn tương tư, khúc lụy tình. 305. Thoát mộng trường Thân thể có gì đáng luyến thương, Bởi mang tứ đại luật vô thường. Một đời hoằng gánh, ôi vô nghĩa ! Trọn kiếp nặng nề, tưởng hết phương ! Mịt mịt tro than lờ chóa mắt, Mờ mờ cát bụi, lắm lem gương. Lụy trần những ngỡ thân là thật, Giác ngộ mới hay thoát mộng trường. 306. Mùi đời tục lụy Mùi đời tục lụy cứ quanh đây, Trong gió, trong sương ngát tỏa đầy. Những ước nhàn vui trà nhựt Đức, Hồi mơ hưởng lạc rượu Tàu Tây. Nào sa xí phẩm tha hồ phủ, Nào ngũ vị hương mặc sức vây. Cho lạnh cả hồn, rung cả phách, Mới hay một giấc tỉnh cơn mây. 307. Vượt trùng ba Vòng tròn nhân quả luật xưa nay, Cứ tiếp vận hành chẵng dị ai. Tam nghiệp đeo mang, nên định tỉnh, Tứ tường vây phủ, liệu an bày. Cơ duyên điểm Đạo, tròn nhân đức, Căn phẩm tầm tu, vẹn chí tài. Phước huệ song hành thì mới kịp, Vượt trùng ba để thoát ra ngoài. 308. nằm bệnh Vì chuyện sinh nhai, lúc cạn khô, Dẫu thân vướn bệnh, rán làm hồ. Giờ như kẻ níu, khi thì đẩy, Phút tợ người lôi, lúc lại xô. Mấy bửa nhó nhăn, đau cứ đến ! Bao ngày rên rỉ, bệnh càng vô ! Thân phàm giả mượn chưa đòi trả, Đày đọa làm chi cực thấy mồ ?... 309. chiếc xe đạp lịch sử Hành trình đâu quảng sớm hay chiều, Phương tiện dẫu rằng chẳng bấy nhiêu. Khoản lộ đường trường, bường chậm chậm, Chiếc xe hai bánh, đạp đều đều. Lòng nghe xót dạ, đêm mờ mịt, Dạ thấy nóng lòng, phút quạnh hiu. Chợt bị hư xe đành dẫn bộ, Lại thêm mưa gió phải đi liều. 310. Hãy trọng lễ nghi Người tu càng được phước ân dày, Sao lại lắm điều nghiệp quả vay. Trên bởi khẩu cuồng, sanh thất lễ, Dưới còn ý vọng, khảo người ngay. Biết chăng chư Thánh ghi thường bửa ! Lại có Thần linh chép mỗi ngày ! Vậy khá nghiệm tầm, mau tỉnh ngộ, Lập công bồi đức thoát bi ai. 311. Cơn khảo Dồn ép khảo thi đến nực cười, Ngoài thừa, trong lại quá chừng dư. Dân Sanh nhồi sọ dường tan tác, Kinh tế nghiền thân đến nhảo nhừ. Pháp chuyển đa đoan thêm lắm việc, Thế hành bận rộn mãi lắm thêm người. Bởi trời chưa tạnh cơn mưa móc, Đợi nắng lên rồi mới rõ ư ! 312. Trọn lòng dâng hiến Xuân đến rồi đi rõ lắm lần, Vui buồn lẩn lộn để so cân. Buồn Đời bở ngở nhiều chi phối, Vui Đạo niềm tin rất đủ phần. Hôm sớm suy Đời sao tối mịt, Chiều trưa nghiệm Đạo thấy tươi ngần. Từ đây khá trọn lòng dâng hiến, Cho Đạo, cho Đời, cho kiếp nhân. 313. Khá mau gìn Đạo Từ đâu nghiệp chướng mãi đeo mang, Sao lắm tiền khiên những buộc ràng. Sự ách còn đây chờ sức kiệt, Điều tai hiện đó đến hơi tàn. Tấm thân khắc khổ bao phiền muộn, Tâm ý âu sầu nỗi thở than. Ôi ! trải can qua nhiều biến đổi, Khá mau gìn Đạo để nhàn an. 314. Cõi đời ảo mộng Cõi đời ảo mộng khiến sầu mơ, Phí sức biết bao những đợi chờ. Ảo mộng quây quần người thất thế, Say mơ cuồng nhiệt kẻ sa cơ. Niềm đau dạ sĩ, buồn ngơ ngẩn, Nỗi xót lòng nhân chạnh ngẩn ngơ. Biết phải giải nguy sao kịp lúc, Khi vòng ám muội phủ che mờ. 315. Thức tỉnh mộng hồn Tiếng gọi trần ai khá tỉnh về, Trên đường Đạo Pháp giải hôn mê. Số đời Bành Tổ càng ngao ngán, Bổn mạng Nhan Hồi gẫm tái tê. Danh ảo Thạch Sùng nhiều kẻ sợ, Lợi phiền Vương Khải lắm điều ghê. Hơn thua chi để bao năm tháng, Khá thức mộng hồn hướng bổn quê. 316. Vạn nẽo đường trần Vạn nẽo đường trần kẻ đấm say, Chỉ vì quên mất bổn duyên hài. Trông qua thấy đó cơn đày đọan, Ngó lại còn đây cảnh đoái hòai. Trễ bước thuyền xa, vòng lẩn quẩn, Sa chơn lở chuyến, đoạn lay quay. Đâu nguồn giác huệ mau hồi tỉnh, Để được trở về với bổn lai. 317. Chấp cứ làm chi Tiếng Quấc không gì thảm mãi kêu, Mà do hiện kiếp cộng thêm nhiều. Biết Linh mới rõ sao khe khắt, Thục Đế hầu hay lẽ chắt chiu. Tinh Vệ đâu rằng không kịp sớm, Tử Quy há những chẳng lo chiều. Thảy đều tính lại mang thân giả, Mãi chấp cứ còn thảm sử nêu. 318. Thâm tình viếng mộ Thâm tình viếng mộ chạnh thê lương, Gió động hồn cây khúc nhạc trường. Mặt đất rung rinh rơi giọt lệ, Bầu trời chuyển động nhỏ hơi sương. Hoa sầu tơi tả, ngàn lưu luyến, Lá úa não nề, vạn tiếc thương. Tiếng réo gọi về sao vắng bặc, Biết chăng người mất có an khương !… 319. Tiển biệt Người hởi phân thân cách biệt ngàn, Hồn về phương ấy có nhàn an. Chuông hồi đưa rước, sầu lưu luyến, Trống giục tiển chân, lệ cảm ràng. Cố hữu tình chung còn nhắcnhở, Thân bằng nghĩa cả hết chờ sang. Đượm nồng hương Đạo còn nghi ngút, Nguyện thoát khỏi vòng nghiệp thế gian. 320. Trước cơn giôn bảo Trước cơn giông bảo chớ nao lòng, Thế sự tranh hờn bởi chẳng thông. Mặt nước phẳng bằng dầu gió đổ, Chân trời trang lặng dẫu sương đông. Tâm nhàn đâu ngại trời tan tác, Ý định nào lo đất não nồng. Vẫn giữ như nhiên chân pháp tựu, Nguồn ân thêm lớn giải tâm đồng. 321. Hãy khá tỉnh tâm Quyền danh ảo vị chẳng tường thông, Đặng thế thường hay biến đổi lòng. Những tưởng mọi phần là thật có, Ngờ đâu tất cả cũng huờn không. Bao năm tranh chấp đều vô nghĩa, Đọan tháng tỵ hiềm cũng uổng công. Khá tỉnh tâm tu tròn chánh định, Hầu sau đạt được đại ân hồng. 322. Lửa nung vàng thật Trí dũng, gươm lòng sát ác ma, Lửa nung vàng thật mới tài ba. Thóat cơn say ảo trong mờ ảo, Vượt kiếp trùng sa cõi dậm xa. Bản sắc triển khai ngời vạn sắc, Tinh hoa rút kết rực muôn hoa. Luật nhiên điểm định lừng uy dũng, Tựa thể mài dao thấy sáng lòa. 323. Hồn thiêng hiển hích Nhớ thương lưu luyến chạnh thâm tình, Bởi gốc con người đức dưỡng sinh. Pháp thể trở về, lòng tự tọai, Giả hình gởi lại, dạ đinh ninh. Cầu ân Phật Tổ ban ân tưởng, Nguyện đức Từ Bi rãi đức tin. Đuốc Đạo chiếu soi gương sáng mãi, Hồn thiêng hiển hích tận đài linh. 324. Sầu tiển biệt Duyên nghiệp vì đâu ngấn lệ tràn, Cõi sầu giả ảo nặng phiền than. Đòi phen nếm trải bao mờ phủ, Đọan thuở cang qua sự úa tàn. Một kiếp gởi trao hình tiển biệt, Ngàn đời thương tiếc bóng hà phang. Còn chi đâu nữa giờ đôi ngả, Nguyện được hồn thiêng đến cảnh nhàn. 325. Ngẫm đời tỉnh mộng Phù đồ huyển vọng lẽ thường không, Chỉ đoạn vô minh rõ nỗi lòng. Vạn vật thảy đều cơ mạc trắc, Muôn người cũng ở luật tồn vong. Trời xanh mây phủ màn phong bạc, Đất thẳm sương giăng thảm bụi hồng. Ngọc nát vàng tan, tình ái khổ, Ngẫm đời tỉnh mộng gắng tu công. 326. Khóc chồng Thương tiếc luyến lưu vợ khóc chồng, Người buồn nức nở trả lời không. Ai ơi ! vạn tuổi chưa tròn kiếp, Người hởi ! trăm năm chẳng kịp hồng. Muôn thứ côn trùng sao lặng tiếng ! Ngàn loài thảo mộc lại im phong ! Phải chăng ý thức cho ta thấy, Hãy định tâm nhiên khỏi nát lòng. 327. Công viên quả mãn Công viên quả mãn khá tường tri, Chiếu luật Thiên đình trước đã ghi. Bởi lúc sanh tiền gìn đức cả, Nên ngày thoát xác được triều nghi. Chuyển về Trung Giới hầu ban thưởng, Chờ ở Thượng Cung để thọ trì. Hoặc đặng phục hồi nơi bổn vị, Hoặc còn tu học, hoặc còn đi. 328. Cải số Cải số là do tự kết mình, Cũng tùy theo việc để phân minh. Ai vì bổn phận vuông tròn phận, Ai đã hy sinh cứu chúng sinh. Hay bởi sầu đau, buồn cá thể, Hoặc do nhu nhược, sợ lao hình. Mỗi đều có đủ phần cân xét, Để được điểm công, hoặc tội tình. 329. Xin đừng lưu luyến Nương trần hành Đạo cũng là duyên, Quả mãn công viên thoát nghiệp phiền. Mượn bước hành trình cầu Cực Lạc, Nương nhờ Pháp Đạo chứng Tây Thiên. Giả thân trả lại nơi trần thế, Hồn thật quy về cảnh Phật Tiên. Huynh đệ người thân giờ tiển biệt, Đừng nên lưu luyến, hãy an nguyền. 330. Đường tu vẹn giữ Tu tỉnh tròn duyên, giải sự phiền, Tu rèn trí Đạo, luyện khuôn viên. Tu xoay Tam Nghiệp thành Tam Bửu, Tu chuyển Lục Trần đạt Lục Nhiên. Tu chỉnh cơ thân khai mẫn huệ, Tu trau nhiệm ý hóa chơn thiền. Tu thông Cửu Khiếu, Thiên ân tựu, Tu học thọ truyền kết hóng diên. 331. Thơ mời hội xuân 1994 Một vừng ánh sánh rực trời đông, Kịp tiến văn minh đượm sắc hồng. Xuân đẹp tình yêu, ân Quốc Tổ, Thơ vui hạnh phúc, đức Tiên Long. Thi đua kinh tế giàu non nước, Đẩy mạnh Dân Sanh đẹp núi sông. Nay mở Xuân Thơ mừng thắng lợi, Mời chung Thi Hữu kết tâm đồng. 332. Đáp từ hội xuân 1994 Thỏa lòng xướng họa buổi Tao Đàn, Cám cảnh xuân thơ tuyệt cảnh quan. Đây Hậu Tiền Giang ngời nghĩa ngọc, Kia Thành Phố Bác rạng tình vàng. Tròn năm phấn đấu tăng năng suất, Suốt tháng bền tâm vượt điểm trang. Mặc khách tao nhân tình thắm thiết, Mừng cầu hạnh hưởng phúc an khang. 333. Xuân duyên ngộ Cảm đề xuân sắc tỏa muôn nơi, Tác hợp duyên thơ giữa đất trời. Văn bản Dân Sanh mừng đẹp Đạo, Chương trình Kinh Tế tiếp vui Đời. Nghĩa sâu hòa nghĩa, tình thêm đậm, Tình đượm hương tình, nghĩa chẳng vơi. Thi phú ngân xa còn vọng mãi, Hữu duyên thiên lý tuyệt vời vời. 334. Tâm pháp tình thơ Tâm pháp tình thơ gởi bạn vàng, Đại Đồng khai triển cõi nhân gian. Bền tâm chung hướng Thiên ân điểm, Vững dạ cùng phương Sứ mạng ban. Diệu giác muôn khơi thông vạn đại, Hữu linh một cõi ứng mười phang. Ngẫm suy kỳ nhiệm quy linh tử, Thêm sắc thêm xuân khắp rộng tràng. 335. Cầu xuân phúc huệ Xuân qua, xuân lại đã bao lần, Xuân kết tựu về những trọng ân. Xuân Đạo hòa chung, Đời thạnh lạc, Xuân Đời hiệp lẩn, Đạo thanh tân. Xuân hồng thắm đượm, thiền tâm pháp, Xuân sắc tươi nguyên, định ý trần. Xuân rõ thế thời, thông diệu hữu, Cầu xuân phúc huệ khắp xa gần. 336. Trái tim hồng Trời cho ta một trái tim hồng, Ấm áp tình chung thỏa ước mong. Nóng lạnh đều hòa, thông hậu ứng, Cứng mềm hổn hợp, chuyển tiền phong. Xem thường dễ bị nhầm thanh trược, Thấy trọng thường hay lẩn đục trong. Bởi lý Âm Dương truyền kết tựu, Làm ra nhịp thở hợp chơn không. 337. Gương sáng Chu Trinh Gương sáng Chu Trinh thắm đượm nồng, Tây Hồ phó bảng chẳng cầu phong. Tình cùng nho sĩ, cùng câu hiệp, Nghĩa với văn thơ, với chữ đồng. Đòi cuộc giảm sưu càng hận việc, Kêu phần bớt thuế vẫn buồn công. Đây Huỳnh Thúc Kháng, đây Trần Cáp, Chí cả rạng ngời dẫu biệt trông. 338. Phạm Ngũ Lão Phạm Ngũ Lão người ở Hải Dương, Bình sinh tính khí vẫn phi thường. Mê ngồi làm lụng dầu thân khổ, Say việc nghiệm tìm dẫu máu tuôn. Vệ Sĩ Quản Cai bừng chiến tích, Điện tiền Thượng Tướng rực danh gương. Phúc Thần Thượng Đẳng vua ban sắc, Phù Ủng nghìn năm lập miếu đường. 339. Mạc Đỉnh Chi Bông sen trong giếng ngọc danh nhân, “Trí huệ thông minh khước thọ bần”. Gia thế tuy nghèo, tâm mẫn tuyệt, Hình dung dẫu xấu, trí tinh ngần. Thắp đèn đom đóm vì ham học, Gánh củi mưu sinh bởi hiếu thân. Mạc Đỉnh Chi người gương sáng mãi, Góp nhiều việc lớn với quân dân. 340. Chu Văn An Đời Trần có cụ Văn An đây, Nhà giáo, nhà văn nổi tiếng hay. Trên dạy Tử Hoàng bền đức cả, Dưới dìu Sư Mạnh vững nhân tài. Học trò nhớ mãi người trò học, Thầy dạy không quên bậc dạy thầy. Thắm thía nghĩa tình làm nghiệp giáo, Góp phần non nước đẹp tương lai. 341. Lý Công Uẩn Hết thuở Tiền Lê, Lý tiếp đàng, Dời đô lập miếu, điện, dinh, trang. Đạo Thành mưu trí, danh muôn cõi, Thường Kiệt hùng anh, tiếng khắp phang. Mấy thuở truyền trao luôn vững tiến, Nhiều thời nối trị vẫn bền gan. Lý Công Uẩn, Thánh Tôn Vương hiệu, Cồ Việt đổi thành Đại Việt bang. 342. Lê Lợi “Bình Ngô Đại Cáo” khúc vinh quang, Chiến thắng Lam Sơn dứt chiến tràng. Tiếp mở Nhà Lê, xây đất nước, Khai triều phong kiến, dựng giang san. Lê Lai bất khuất, hùng thiên sử, Nguyễn Trãi kiên trung, sứ mạng vàng. Lê Thái Tổ người danh vị ngọc, Là gương Lê Lợi diệt hung tàn. 343. Lê Thái Tổ Lê Lợi kiên cường lập nghĩa binh, Lam Sơn khởi xướng chống quân Minh. Mười năm chiến đấu vì an lạc, Một thuở thành công cảnh thái bình. Niên hiệu Thuận Thiên xây quốc thể, Đương triều Thái Tổ dựng kinh dinh. Sáu năm ngôi báu truyền cơ nghiệp, Bình Định Vương danh lập sử kinh. 344. Lê Thái Tông Nối truyền Thái Tổ có Nguyên Long, Ngôi vị lập thành Lê Thánh Tông. Niên hiệu Thiệu Bình càng mẫn đạt, Hiệu niên Thiệu Bảo rất thành công. Chín năm điều ngự lo triều chính, Mười tuổi lên ngôi tạo phúc hồng. Thanh Hóa quê hương ngời sách sử, Nghìn thu tươi sáng đất Tiên Rồng. 345. Lê Nhân Tông Lê Nhân Tông thật nghĩa cơ tầm, Nối chí Thái Tông lập phúc âm. Niên hiệu Diên Ninh càng sáng tỏ, Hiệu niên Hòa Thái chẳng mơ øtăm. Lên ngôi một tuổi không trừ tuổi, Triều chính mười năm cộng bảy năm. Sau bởi Nghi Dân bừng nổi dậy. Giết vua đoạt vị, cắt tình thâm. 346. Lê Ngọa Triều Thời Tiền Lê có Ngọa Triều Vương, Long Đỉnh là danh thích nhúng nhường. Niên hiệu Ứng Thiên truyền để bảng, Hiệu niên Cảnh Thụy tiếp đề chương. Bởi mê dâm đảng thường đau bịnh, Vì thích bạo tàn lắm họa ương. Thoán đã bốn năm làm Đế vị, Lâm triều ngọa thể vẫn luôn luôn. 347. Duyên thơ kỳ hữu Điểm phúc duyên thơ ngộ hữu kỳ, Rạng nguồn ân đức tỏ tình thi. Huyền Linh Cửu Phẩm khai Đài báu, Diệu Pháp Thông Thiên ứng Điện tri. Thị hiện hữu hình tìm Bổn giác, Kim chương siêu thể chọn Cơ quy. Thi Thơ Tâm Pháp niềm thâm hậu, Thánh Đức truyền lưu, sử ngọc ghi. 348. Duyên đắc kỳ giao Hôm nay hội ngộ tại Phong Điền, Gặp lại nghĩa tình thật bổn duyên. Hà Việt lưu thơ, niềm tự toại, Thanh Tùng kỷ niệm, cảm an nhiên. Xuân Đời hữu thể tầm linh nhiệm, Xuân Đạo vô vi kiếm diệu huyền. Đoạt phẩm hồng ân cầu đại điểm, Nguồn linh chánh pháp lý siêu truyền. 349. Nước Khắp trên mặt đất, biển, sông, trời, Đều có nước tràn, nước chảy vơi. Trong sạch đượm nhuần, nồng ý Đạo, Tinh nguyên hương vị, thắm tình Đời. Nước tùy cao thấp, không phân điểm, Nước tự sắc màu, chẳng luận nơi. Nước rất hòa mình, nhưng cứng chắc, Chặt không thể đứt, bứt không rời. 350. Không Không luận sắc màu, thật thảnh thơi, Không mang duyên nghiệp, tuyệt vời vời. Không đem trí Đạo mà thay Đạo, Không lấy trí Đời để đổi Đời. Không nặng Lục Trần, thêm tiến bộ, Không phiền Ngũ dục, thỏa vui chơi. Không tranh, không chấp ta hay pháp, Không ấy là Cơ của Đất Trời. 351. Hòa đàn Đàn trỗi xự, u, cống, xễ, lìu, Xừ, hò, oan, cộng, ú, xang, liu. Âm thanh uyển chuyển lời tinh biếc, Dương điệu dịu dàng, ý tuyệt siêu. Nhạc khúc giáng thăng cùng định hướng, Hòa giao trầm bỗng vẫn chung chiều. Bầu, tranh, cò, sến, gi, kiềm, gáo, Vĩ, hạ đồng thông bản nhịp đều. 352. Thanh và trược Thanh trược là do ở tự lòng, Lẽ nào thanh có, trược rằng không. Trược thanh do luyện, đâu rằng pháp, Thanh trược nhờ trau, chớ tưởng công. Lọc trược trong thanh, tâm bất động, Lưu thanh ở trược, ý tinh trong. Trược thanh giả định thông nguồn điển, Lý nhiệm huyền cơ điểm Đại Đồng. 353. Tà và Chánh Thành Phật thành Ma cũng tại ta, Có đâu rằng Phật lại rằng Ma. Bởi tâm thường vọng nên lầm chánh, Vì tánh hằng mê mới lạc tà. Tà chánh viên thông, đồng nhất bổn, Chánh tà diệu giác, hiệp nguyên gia. Chơn như thanh tịnh không phân biệt, Hiệp nhứt tùy duyên kiến Phổ Đà. 354. Đàn trăng thức gọi Đôi giòng đề cảm tiếp Đông quân, Tình vẫn chia xa vẫn mãi gần. Nhạc gió kêu sầu, mau nghiệm cổ, Đàn trăng thức gọi khá suy tân. Tìm vui hướng Đạo, vui miên viễn, Nhận khổ đường tu, thoát khổ dần. Bút mặc tâm giao vì nghĩa cả, Chang hòa sâu sắc đậm tình xuân. 355. Xuân mộng canh trường Xuân đã bao lần vẫn tiếp qua, Kiếp người gẩm lại chẳng bao xa. Phù sanh trãi bấy, nghe đau đớn, Ảo mộng bừng cơn, giọt lệ nhòa. Lẩn quẩn trong đời, hoằng nghĩa mẹ, Lanh quanh cõi thế, nặng ơn cha. Công danh phú quí ai lòng thỏa, Mọi việc đều do luật định mà.
356. Mật chỉ truyền tâm Bổn thiện nguồn ân cõi Thánh anh, Thừa ban điểm giáo thọ ân lành. Quy Tam hóa chuyển thông đơn Đạo, Hiệp Ngũ luân khai đạt phẩm danh. Đoạt giả, đoạt chơn từ ý tịnh, Ngộ viên, ngộ giác tại tâm thanh. Siêu linh hiển hích cơ mầu diệu, Mật chỉ truyền tâm pháp vận hành. Hòa vận Bát Tiên (Bài nầy do Hà Việt họa lại bài Hội Bát Tiên của 8 thi hữu Lệ Khánh, Thanh Trúc, Phong Linh, Hoàng Triều, Thanh Cao, Aùi Nhân, Thanh Phong, Nhật Lệ ). Bài xướng : Hội Bát Tiên Lệ Khánh : Không hẹn mà tròn hội Bát Tiên, Thanh Trúc : Chung nhau “ 8 trự” đã thành hiền. Phong Linh : Tiên xưa sao sánh Tiên thời đại, Hoàng Triều : Thánh núi sao bằng Thánh mái hiên. Thanh Cao : Nhấp nhấp chén hồng say lúy túy, Ai Nhân : Ngây ngây vần biếc nổ liên miên. Thanh Phong : Lay lay cành lá hanh vàng nắng, Nhật Lệ : Nằng nặng nàng thơ Đạo khẩm thuyền. 357. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 1 ) Cảnh trần nay bỗng hội thơ Tiên, Tình tứ mê ly quá các hiền ?... Rượu thắm mềm môi, chừng trước cửa, Men say nồng cháy, khéo ra hiên. Ngây ngây khói tỏa, hoa tung toé, Ngất ngất mây trời, pháo nổ miên. Tiệc mãn tình lưu, trời đất biết ! Còn thơ hay nhạc! Bạn hay thuyền ! ?... 358. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 2 ) Hay thuyền thử một chuyến du Tiên, Ai dám dự thi chẳng phải hiền ! Rượu với Lão Quân nơi Bửu Điện, Thơ cùng Thái Bạch tại Kim Hiên. Diêu Cung dự yến, thêm trường thọ, Bạch Ngọc hội xuân, tuổi viễn miên. Tửu cúc, đào nương hòa nhạc Thánh, Hồn xuân phơi phới chắc quên thuyền ?... 359. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 3 ) Quên thuyền ở lại cảnh Thần Tiên, Còn nhớ hay chăng những bạn hiền ? Lần thấy Táo tâu nơi Ngọc Điện, Lén nghe Phật thuyết tại Tòa Hiên. Nói về sự thế nhiều đen đỏ, Bàn chuyện dương trần quá mộng miên. Mặc sức model ôi ! đủ kiểu, Bạn hàng tấp nập lắm con thuyền. 360. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 4 ) Con thuyền hút chích gọi thuyền Tiên, Hối lộ quan liêu kết bạn hiền. Rượu độc truyền đi, còn để nổi, Thuốc mê rao bán, dấu ngoài hiên. Văn minh khoa học trưng bày thuật, Tiến bộ điện cơ lấp ráp miên. Nghe Táo tâu qua nơi chính điện, Ngọc Hoàng lo sợ những phi thuyền. 361. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 5 ) Phi thuyền đã gặp Hằng Nga Tiên, Nơi một vầng trăng giả ý hiền. Để được lấp bằng, dầu sỏi đá, Hầu toan đoạt cả, dẫu ranh hiên. Dĩa bay ào ạt nhờ sân thượng, Người máy vụt vù mượn cảnh miên. Minh kính đài gương xem hạ giới, Chỉ thương cho các chủ con thuyền. 362. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 6) Con thuyền nào cũng bởi căn Tiên, Đến trước hay sau vẫn bậc hiền. Vì cửa, vì nhà đành ẩn sĩ, Bởi mây, bởi gió phải ra hiên. Trí nhân dẫu trải điều tai biến, Quân tử chi sờm sự khổ miên. Thời mạng hậu tiền duy đức cả, Luôn theo nhịp tiến hợp duyên thuyền. 363. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 7) Duyên thuyền dù phải cách xa Tiên, Vẫn có chư linh hộ hữu hiền. Nào ngại gió mưa nơi trái bếp, Xá gì giông bão ở thềm hiên. Qua bao thử thách thời chinh chiến, Vượt sự mê lầm ám ảnh miên. Sau những phút giây suy ngẫm lại, Ngọc Hoàng gợi ý: -“hãy du thuyền”. 364. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 8) Du thuyền cõi thế điểm lời Tiên, Răn kẽ tà gian, độ sĩ hiền. Bắc Đẩu Nam Tào phò triệu giá, Đế Thiên Đế Thích ứng môn hiên. Lời tâu Thái Ất bàn phương Việt, Ý bạch Bát Tiên luận cảnh Miên. Khi mới nghe qua rằng “8 trự”, Thì đây đã rõ nghiệp thơ thuyền. 365. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 9) Thơ thuyền xướng họa đáp lời Tiên, Ngọc Đế nghe qua rõ mỗi hiền. Đã có Bát Tiên phò triệu giá ? Sao còn Tiên Bát trấn Tây Hiên ? Vì đâu cảm tác toàn dương thế, Lại phải hòa thi cả sự miên. Hay nghiệp nước non còn nặng gánh, Thời thôi cõi giả kíp lui thuyền. 366. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 10) Lui thuyền cho nhắn những lời Tiên, Về cõi trần gian chỉ sự hiền. Thánh Thượng khuyên đời gìn bổn thiện, Mẫu Hoàng dạy thế chớ mê hiên. Sau khi bái biệt đài Kim Khuyết, Cùng lúc tạ từ cảnh Viển Miên. Khánh, Trúc, Linh, Triều, Cao đủ mặt, Cùng Nhân, Phong, Lệ phản hồi thuyền. 367. Hòa vận Bát Tiên( Bài 11) Hồi thuyền dương thế đất Rồng Tiên, Vẹn nghĩa, tròn ân , đẹp hiếu hiền. Chí cả sáng ngời không cách ngõ, Tâm tình cởi mở chẳng xa hiên. Mặn nồng sắc nước luôn trùng viễn, Ấm áp màn mây mãi vạn miên. Thơ phú âm vang nguồn tuệ khiếu, Niềm tin rực rở đáng phương thuyền. 368. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 12) Phương thuyền chuẩn bị thật là Tiên, Tiếp mở chuyến đi ngộ hữu hiền. Kết mối Đại Đồng, bừng thể Việt, Hòa tình Đại Thể, sáng danh hiên. Đông Tây nghiên cứu luôn thời mộng, Kim cổ nghiệm tàng cả đoạn miên. Tô thắm sắc hương đời mãi đẹp, Vòng quanh thế giới chiến công thuyền. 369. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 13) Công thuyền phân biệt tục và Tiên, Chơn giả do tâm đóan dử hiền. Nam Việt, Nam Dương, Dinh, Phủ, Điện, Quốc Trung, Mỹ Quốc, Các, Thành, hiên. In Đô, Nhật, Đức, Cao Li, Thổ, Ấn Độ, Tàu, Anh, Thụy Sĩ, Miên. Hi Lạp, Hà Lan, Nga, Pháp, Thái, I Răn, I Rắc, Lỗ, Cam thuyền.
370. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 14) Cam thuyền Hung, Áo lại Triều Tiên, Lần đến Ba Tư rõ bạn hiền. Ha Núc, Bồ Đào nghe đón tiếp, Na Đa, Ái Nhĩ được khai hiên. Cao Phi, Phi Luật thêm lào luật, Miến Điện, Cao Miên thật ý miên. Và Argentina là nước, RaXin tiếp nối cũng như thuyền. 371. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 15) Như thuyền quanh quẩn mấy vòng Tiên, Từ khắp Đông Tây kết bạn hiền. Càng thấy xa quê, bao dạ dũng, Lắm nghe nhớ nước, những lòng hiên. Dẫu người phân biệt, khôn g lời phán, Mặc thế đua tranh, chẵng nói miên. Rút kết tinh hoa từ các nước, Góp phần Tổ Quốc nghiệp cơ thuyền. 372. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 16) Cơ thuyền nguồn máy của Thần Tiên, Nên lắm tôi trung, bậc Thánh hiền. Trãi mấy nghìn năm, ôm nhiệt quyết, Qua bao niên kỷ, chiến công hiên. Kẻ gieo nô lệ cam nhường bước, Người mộng xâm lăng vỡ mộng miên. Để Việt Nam ta luôn tiến mãi, Vượt bao sóng gió lập nên thuyền. 373. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 17) Nên thuyền đối chiếu sử Tàu Tiên, Võ, Hạ còn lưu mấy bậc hiền. Vận bỉ,Trụ Vươngđành phải mạc, Thời lai, Cơ Phát chẵng sai hiên. Xuống trần, Lão Tử đề cơ ứng, Hạ thế, Khổng Khâu luật tỏa miên. Nam Việt bốn nghìn năm hấp thụ, Càng nung chí khí một kim thuyền. 374. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 18) Kim thuyền chở nặng khách duyên Tiên, Nhân nghĩa thủy chung, việc hiếu hiền. Trong cuộc thử thi, người được điểm, Ở phần tuyển chọn, kẻ ra hiên. Vòng quanh thơ luận, tinh tinh viễn, Giáp lại đề chương, tuyệt tuyệt miên. Văn toát lên trời sang thế giới, Giờ đây trở lại Việt Nam thuyền. 375. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 19 ) Nam thuyền từng bước lập công Tiên, Mượn điểm thi ca kết nghĩa hiền. Mừng hội Ninh Kiều ngời hiển đạt, Vui thơ An Nghiệp tuyệt danh hiên. Con người nếp sống luôn tân tiến, Xã hội văn minh mãi viễn miên. Chung góp sức công nâng bút điển, Cùng nhau tô điểm bản linh thuyền. 376. Hòa vận Bát Tiên ( Bài 20 ) Linh thuyền ôn sử Lạc Hồng Tiên, Mười tám Hùng vương nối chí hiền. Tiếp có Đinh, Lê danh tráng kiệt, Cũng như Trần, Lý bậc danh hiên. Trãi bao thời Chúa, văn siêu việt, Lại mấy đời Vua, sử tuyệt miên. Nay đến thời lai, qua vận bỉ, Nhớ ơn các bậc lái con thuyền. 377. Chúc Xuân Mừng xuân kính chúc vạn thời lai, Lộc, thọ, khương, ninh, phước, lợi, tài. Nghệ sĩ lời hoa, hương ngát tỏa, Văn nhân ý đẹp, vị thơm bay. Hăng say sản xuất đồng kiên quyết, Tích cực tăng gia hiệp triển khai. Nghĩa Đạo tình xuân thêm thắm đượm, Lòng nghe rộn rả nhớ bao ngày!... 378. Táo Quân Để lại đẹp ngời chuyện Táo Quân, Vì đâu đã được lệ chầu xuân. Lửa hương tâm thệ bền muôn kiếp, Ấm áp giao duyên đẹp mãi tuần. Cay đắng mặn nồng, chồng chết thảm, Hờn thương sâu nặng, vợ vong thân. Thêm người tình cũ sầu ly biệt, Để lại đẹp ngời chuyện Táo Quân. 379. Tấm Cám Chuyện xưa nhắc lại một đôi trang, Tấm Cám cũng bài học thế gian. Người chị cùng cha, nhiều đức hậu, Đứa em khác mẹ, lắm tham tàn. Em thì ngã gục vì nhân trả, Chị lại vươn lên bởi phúc ban. Kế mẫu mưu thâm đành họa diệt, Còn đây dạ sắt hợp lòng vàng. 380. Mèo lại huờn Mèo Giờ đây diệt chuột phải ra mèo, Chớ ỷ phận mình cứ giỏi leo. Trời rộng bao la, lòng vọng tưởng, Mây giăng trùm khắp, dạ trèo đèo. Nhưng mây gặp gió đành di tản, Lại gió gặp thành cũng hết reo. Thành trụ rung rinh do lũ chuột, Giờ đây diệt chuột phải ra mèo. 381. Chim Quấc Nhớ lại thuở nào Quấc với Nhân, Buồn vui chia sẻ học chuyên cần. Ngờ đâu nông nỗi sầu tri kỷ, Lại phải hiểu lầm hởi bạn thân. Nghĩa đó đau lòng kêu Quấc Quấc, Tình đây xót dạ gọi Nhân Nhân. Còn chi đâu nữa xa biền biệt, Để mãi lời kêu thật não nần. 382. Sơn Tinh Thủy Tinh Thời Hùng xuất hiện nhị kỳ Tinh, Ứng cuộc tranh tài việc cưới xinh, Thủy Chúa chậm chân đành lỡ mộng, Sơn Thần nhanh bước vẹn duyên tình. Kẻ thua biến thủy tàn ly loạn, Người thắng hô sơn giữ thái bình. Nhưng sắc Mỵ Nương ôi! Lắm cảnh, Hằng năm lũ lụt, cảnh điêu linh. 383. In màu kỷ niệm Vừa hay nhận được một đôi hàng, Thơ phú thâm tình đã chuyển sang. Cám nghĩa Văn nhân, trăng bến Hậu, Đáp tình Thi hữu, cảnh Trà Giang. Ngày xuân sắp đến, hoa tua tủa, Hội tết gần bên, nắng chảng chang. Cảnh sắc hữu tình, tình biết mấy, In màu kỷ niệm viết nên trang. 384. Thơ con Muỗi ( Bài 1) Giữa thời loạn lạc cảnh điêu linh, Ác quỉ đâu đâu cũng hiện hình. Ám khí phủ giăng đầy chiến lủy, Mê hồn rên rỉ khắp thành dinh. Chúng mong hút máu người lương thiện, Chúng muốn moi xương kẽ bất bình. Nên khắp nước non đều xuất hiện, Lứơi thần, quạt phép chống yêu tinh. 385. Thơ con Muỗi ( Bài 2) Yêu tinh thách thức bảo nằm yên, Nếu lọt ra ngoài khỏi lưới thiên. Kẽ tỉnh thời hay nhừ mặt cả, Người mê cũng phải nát thân liền. Dầu tung nguyên tử không xao động, Há nổ đạn bôm phải ngữa nghiêng. Ai cũng cam điều châm chít ấy, Khiến nên máu đổ, khổ triền miên. 386. Thơ con Muỗi ( Bài 3 ) Triền miên thảm cảnh nước non nhà, Kẻ hút máu người cứ hiện ra. Thuốc độc dễ sanh nhiều ác quỉ, Bùa mê dễ tạo lắm yêu ma. Lưới thần nhuộm máu nam cùng nữ, Quạt phép in xương trẻ lẩn già. Vẫn giọn ù u cười ngạo nghễ, Trước Quân ,Thần, Tướng hoặc Vương gia. 387. Thơ con Muỗi ( Bài 4 ) Vương gia đài các hoặc cung đình, Hoàng hậu Công nương chốn điện kinh. Ai cũng trung trinh vua với chúa, Nhưng không tiết liệt quỉ và tinh. Mặt cho yêu nghiệt bày hun hích, Kệ kẽ tà gian cứ rập rình. Đâm thọc nhiều bề gây tác tệ, Khiến cho máu đổ lụy thân mình. 388. Thơ con Muỗi ( Bài 5 ) Thân mình cũng phải liệu phăng tìm, Yêu nghiệt từ đâu cứ hiển nhiên. Gây ác dầu ai đau nhức nhối, Gieo phiền dẫu chúng chết vô biên. Thân gầy, cánh mỏng, gầy như chỉ, Mỏ nhọn, hình đen, nhọn tợ kim. Được thế tấn công càng mảnh liệt, Máu người mãi miết hút như giềng. 389. Thơ con Muỗi ( Bài 6 ) Như giềng cái chuyện quá hôi tanh, Nhứt ở thôn quê, nhị thị thành. Rác rến bùn lầy nhiều quỉ đói, Cỏ rom bẩn thiểu lắm ma ranh. Nhà không thoáng mát càng phương tiện, Đất chẵng cải canh dễ lộng hành. Chúng chỉ ngại đời càng tiến bộ, Nơi nào cũng có sạch và xanh. 390. Thơ con Muỗi ( Bài 7 ) Và xanh với sạch khắp con đường, Làm chúng không còn chỗ náo nương. Ép quỉ vào nơi sâu cống rảnh, Dồn ma ở phía tận đường mương. Đêm bay ào ạt còn kêu hảnh, Ngày hát ù u vẽ tự cường. Khoa học bày ra nhiều loại thuốc, Nhan linh khói tỏa chống ma vương. 391. Thơ con Muỗi ( Bài 8 ) Ma vương vẫn mãi hiện trên đời, Cỏ rác bụi bùn sạch có nơi. Công nghiệp là phương cần ẩn náo, Nông trường là điểm dễ sanh sôi. Cũng do thoán khí chưa cần mẫn, Vì bởi vệ sinh chẳng kịp thời. Điểm chứa lăng quăng còn tụ điểm, Ma còn giởn mặt, quỉ còn chơi. 392. Thơ con Muỗi ( Bài 9 ) Còn chơi ác độc gắp trăm lần, Chích bệnh di truyền sốt rét thân. Lắm kẽ vướng vào, tê mặt mũi, Nhiều người mắc phải, liệt tay chân, Thị thành hướng mới đang từng bước, Đồng án đổi thay đã tiến lần. Nhất định có ngày mang chiến thắng, Không còn yêu quỉ hại người dân. 393. Thơ con Muỗi ( Bài 10 ) Người dân cam khổ đã lâu rồi, Vô cớ bị loài quỉ bẩn hôi. Hút máu lắm lần, dòng máu đổ, Moi xương mấy lược, khớp xương lồi. Lưới thần, quạt phép đồng tâm nhất, Thuốc mới, nhang linh hiệp lực rồi. Chuyển sạch và xanh toàn khắp nước, Yêu ma tự diệt, đẹp vui đời. 394. Khuôn viên thọ học -Giữ hạnh người tu phải gắng ghi, -Văn nho tầm học tiếp ân kỳ. -Nêu cao quang điển ngời phương định, -Vững một niềm tin rạng lối đi. -Rèn luyện pháp tâm thông bổn chuyển, -Thọ hành nhiệm ý ứng cơ qui. -Tinh thần rộng rãi tình thương khắp, -Hội kiến pháp môn -Tâm pháp thi. 395. Tịnh Tâm Tối Thượng Tịnh Tâm Tối Thượng pháp vô vi, Thiền giả hành chuyên chớ huởn trì. Nền tảng thành công nhờ thấu suốt, Nấc thang tiến hóa điểm minh tri. Tập hơi thở chậm, theo phương định, Tạo máy điển đều, đúng bảng ghi. Báu nhiệm nơi mình luôn vẹn giữ, Đừng cho thố lộ kẽo hao đi. 396. Thập nhị Thuần Dương Thập Nhị Thuần Dương chuyển thượng hành, Thêm ngời trí tuệ, huệ tâm thanh. Kim thân muôn thuở là chơn vị, Thánh thể vững bền mới thật danh. Bửu Pháp sáng soi tròn sứ mạng, Tàng thơ điểm chuyển vẹn căn lành. Nâng cao đơn Đạo thông thời nhiệm, Nguyên Lý Đại Đồng kịp tiến nhanh. 397. Hội Kiến Pháp Môn Trong phần Pháp chuyển sáng như tờ, Hội Kiến Pháp môn tự thuở sơ. Ôn lại lý hành theo Bửu Pháp, Nhắc qua động tác đúng Tàng Thơ. Tịnh Tâm cho tốt không sai hướng, Kiểm thể cho nghiêm chẳng trễ giờ. Thường lệ theo đà nâng trí Đạo, Tỏa ngời ấn chứng rạng linh cơ. 398. Tri huyền Quang Tri Huyền Quang luyện điển song mâu, Thần Điển sáng trong rất diệu mầu. Khiếu giác nhiếp thông đều tại đỉnh, Nguồn linh khai ẩn cũng do đầu. Bế quang theo hướng thâu và chuyển, Khai nhãn cùng phương chuyển lại thâu. Thực hiện cả hai cho trọn đủ, Tăng phần hiệu quả khỏi chờ lâu. 399. Thông Thiên Nhĩ Thông Thiên Nhĩ chỉ sự Tinh ngời, Thính giác mở đường các mạch hơi. Nên rõ tâm an thì trọn đủ, Cần hay trí định mới không vơi. Thuận vòng Bát Quái sang bờ giác, Nghịch giáp Trung Cung chuyển lại nơi. Nếu biết tồn Tinh cho đúng cách, Kim Thân nhờ đó vững muôn đời. 400. Hạo nguơn Khí Hạo Nguơn Khí lực hấp hô hòa, Lấy pháp môn hầu phóng xuất ra. Một cõi hư linh mình có cả, Một bầu vũ trụ cũng do ta. Âm Dương thuận nghịch ngời linh huệ, Đời Đạo chuyển xoay tuyệt phẩm hoa. Hiển hóa tựu đài Tam Thế Phật, Ân lành chan rãi khắp bao la. |