ĐƯỜNG THI LƯU KÝ Hà Việt (Ngọc Ánh Hộ ) Thánh Tịnh Long Thành 101. Xuân thơ 1992 102. Ngày hội xuân thơ 103. Hồng duyên mai phẩm 104. Chia sẽ nỗi niềm 105. Tiển ngầm 106. Chúc duyên 107. Việt, triều lưu niệm 108. Hội ngộ thi nhân 109. Mừng tinh tú xuất 110. mừng Xuân Tổ Quốc 111. Thơ mời hội xuân 1993 112. Đáp từ hội xuân 1993 113. An bần lạc Đạo 114. Ngộ niềm thi cảm 115. Màn nhung sân khấu 116. Giải thoát 117. Say đấm làm chi 118. Tìm cơ giải thóat 119. Khánh thọ thân sinh 120. Chiều tây 121. Tây Đô 122. Quê hương yêu dấu 123. Đất nước với tình yêu ( BÀI 1 ) 124. Đất nước với tình yêu ( BÀI 2 ) 125. Cần Thơ khởi sắc 126. Tài nguyên thiên phú 127. Kỷ niệm Trà Vinh 128. Nông Trường Cổ Lịch 129. Chúc duyên giai ngẫu 130. Xuân thơ 1993 131. Tam Kỳ Phổ Độ 132. Nhiệm vụ Hiệp Thiên 133. Trách nhiệm Cửu Trùng 134. Lễ Phẩm 135. Tiên Thiên Chánh Vị 136. Anh thư nữ kiệt 137. Hoàng Hoa Thám 138. Hồn Thiêng Yên Bái 139. Nguyễn Trung Trực 140. Nhớ gương Nguyễn Trãi 141. Phan Đình Phùng 142. Đinh Bộ Lĩnh 143. Lê Hoàn 144. Lý Thường Kiệt 145. Nguyễn Thời Trung 146. Lương Hữu Khánh 147. Nguyễn Thái Học 148. Mai Thúc Loan 149. Nguyễn Bỉnh Khiêm 150. Câu trần lưới tục 151. Trước bao thử thách 152. Bình tâm định pháp 153. Chợt tỉnh 154. Một giấc tương tư 155. Danh vọng 156. Thương tiếc xa ngàn 157. Công ơn sanh dưỡng 158. Sáng ngời truyền thống 159. Chúc thơ Trần Hà tiếp vận 160. Việt, triều lưu niệm 161. Thơ tặng thi hữu Song Vũ 162. Mừng cháu tròn trăng 163. Kính mừng tăng thọ 164. Tình thơ tâm pháp ( Bài 1 ) 165. Tình thơ tâm pháp ( Bài 2 ) 166. Thơ tặng kỷ sư Vũ Thế Trụ 167. Tưởng nhớ Thi hữu Thiện Linh vừa khuất 168. Bài thơ tâm pháp tặng Lê Thanh Nga 169. Bài thơ tâm pháp tặng Thiên Nhiên Thanh 170. Bài thơ tâm pháp tặng huynh Chí Đạt 171. Bài thơ tâm pháp tặng huynh Nguyễn Tấn Phát 172. Bài thơ tâm pháp tặng huynh Phạm Tấn Thành 173. Thơ tặng hiền muội duyên 174. Nhiên Đức Bồ Tát 175. Nhiên Hoà Như Lai 176. Trầm Ẩn Kim Tiên 177. Thuần Dương Đàn 178. Gởi bạn Văn Kuôl 179. Thơ tặng Thi hữu Hãi Hà 180. Thơ tặng Thi hữu Thanh Trần 181. Thơ tẶng Thi hữu Tứ Bạch 182. Thơ tặng Thi bá Đức Nghiệp 183. Thơ tặng Thi hữu Khánh Triều 184. Thơ tặng Thi hữu Thanh Bình 185. Thơ tặng Thi hữu Năm Ngay 186. Thơ tặng Thi hữu Ký Ốm 187. Thơ tặng Thi hữu Hoàng Linh 188. Thơ tặng Thi hữu Bảo Trâm 189. Thơ tặng Thi hữu Huỳnh Thanh Phong 190. Thơ tặng Thi hữu Trần Lệ Khánh 191. Thơ tặng Thi hữu Lê Minh 192. Thơ tặng Thi hữu Hà Bửu Phát 193. Thơ tặng Thi hữu Ái Nhân 194. Thơ tặng Thi hữu Nam Phong 195. Thơ tặng Thi hữu Năm Thiệp 196. Thơ tặng Thi hữu Trần Minh Thông 197. Thơ tặng Thi hữu Hoàng Thân 198. Thơ tặng Thi hữu Ngũ Sắc 199. Thơ tặng Thi hữu Thiện Linh 200. Thơ tặng Thi hữu Giang Hồ Khách
101. Xuân thơ 1992 Việt Nam Văn Hiến ánh xuân ngời, Nghệ thật Tao Đàn tỏa khắp nơi. Điểm nét thanh tân, tình hậu đất, Tô duyên trang nhã, nghĩa phương trời. Huy hoàn tợ ngọc lung linh hiện, Lộng lẫy hình mai bát ngát hơi. Đất nước con người ôi ! trác tuyệt, Chúc mừng năm mới đẹp vui đời. 102. Ngày hội xuân thơ Trời xuân rực rở khắp muôn nơi, Mới biết tin vui của Đất Trời.. Ngọc trắng tươi màu, gìn mãi Đạo, Hoa hồng đượm sắc, giữ y Đời. Loan ca khúc nghĩa, nơi an lạc, Phụng múa điệu tình, cảnh thảnh thơi. Ngày hội Xuân Thơ muôn tiếng chúc, Càng thêm lộng lẩy nét xuân thời. 103. Hồng duyên mai phẩm Được tin Thi Hữu mở Thi Đàn, Hà Việt nhanh chân chuyển tuệ trang. Do bởi đề Xuân hè nối tiếp, Cũng gì lý Đạo hội chưa tan. Chút tình mong mõi thơ như ngọc, Vài ý hằng ghi nhạc tợ vàng. Lưu ảnh, lưu tình bao kỷ niệm, Những gì đẹp nhất của thời gian. 104. Chia sẽ nỗi niềm Ai khỏi dầng hồng hướng điểm tây, Làm sao giúp đở được phen nầy. Tấm lòng đưa đến hầu thanh thoảng, Tấc dạ gởi về để giải khuây. Sống thác chớ màng vì tợ gió, Tồn vong đừng nghỉ bởi như mây. Phú thơ âm hưởng ngời hương sắc, Kính nguyện hồng ân của Mẹ Thầy. 105. Tiển ngầm Qua những thời gian dạ nhớ thầm, Người đi kẻ ở khó về thăm. Trời thương, dẫu phải xa ngàn dậm, Đất cảm, cho đành cách mấy năm. Thuở ấy chờ nhau buồn hiện hữu , Giờ đây gặp lại khổ âm thầm. Biết bao kỷ niệm chưa phân cạn, Lại lúc trời tây, phút tiển ngầm. 106. Chúc duyên Vui mừng lưỡng tộc chẳng phân hai, Hà Việt kịp thời đến dự ngay. Trước tỏ lời trao, Đời điểm mãi, Sau bày ý gợi, Đạo thêm hoài. Bền lòng son sắt, bền ân đức, Vững dạ thủy chung, vững nghĩa tài. Hạnh phúc ấm êm nồng thắm đượm, Chúc duyên hựu hão rạng tương lai. 107. Việt, triều lưu niệm Hà Việt hôm nay đến thất Triều, Thâm tình cảm thấy biết bao nhiêu. Lời thương trao đổi khơi lòng tỏ, Ý nhớ luận bàn gợi dạ khiêu. Chung bước đường dài, hồn bút kính, Cùng đi nẽo thẳng, thể thơ yêu. Thi giao kỷ niệm lưu tình đẹp, Nghĩa ngọc càng thêm đậm sắc nhiều. 108. Hội ngộ thi nhân Thi nhân hội ngộ tiệc vui chơi, Mừng gặp đệ huynh thỏa dạ rồi. Ngọc hữu tương giao đây với đó, Kim bằng kết nghĩa bạn và tôi. Chung trà ngọt đắng, bàn cơ Đạo, Chén rượu nồng cay, luận sự Đời. Tiếng nhạc lời thơ hòa điệu kết, Thâm tình vang mãi khắp muôn nơi. 109. Mừng tinh tú xuất Mừng nay tinh tú hạ trần gian, Với cả tình châu, nghĩa ngọc vàng. Rực rở tâm thành truyền mãi lối, Sáng ngời ý chí sắp thêm hàng. Đẹp lòng quân tử dồi nghiêm thất, Thỏa dạ hiền nhân điểm tuệ trang. Vẹn thảo, tròn trung, Đời Đạo học, Tuyệt vời trăng chiếu tỏa khang an. 110. mừng Xuân Tổ Quốc Hà đồ Bát Quái dưỡng tâm an, Siêu xuất trung hòa ứng điển quang. Tuế thượng mừng cầu, xuân Tổ quốc, Tài tăng nguyện chúc ,tết giang san. Cơ đồ đất nước luôn bền bỉ, Sự nghiệp quê hương mãi vững vàng. Sức mạnh toàn dân chung sức dựng, Ngày thêm giàu đẹp Việt Nam Bang. 111. Thơ mời hội xuân 1993 Kính mới thi hữu nghĩa sâu xa, Nghệ sĩ văn nhân rất đậm đà. Ước đặng ghi âm bài tự xướng, Mong thành kỷ niệm bản song ca. Tình lưu tiếp đón nơi An Nghiệp, Tiệc mở mong chờ tại bổn gia. Kết hợp chủ đề xây dựng cả, 8 giờ mùng 7 tết con gà. 112. Đáp từ hội xuân 1993 Thay mặt tòan ban tổ chức đây, Trước xin cảm tạ địa phương nầy. Sau là Nghệ sĩ chung tô điểm, Cùng với Thi nhân hiệp đấp xây. Trọng nghĩa Tao đàn, nguyền kết mối, Thâm tình Bút mặc, quyết liên dây. Tinh thần đòan kết luôn bền vững, Kính chúc tân niên phước lộc đầy. 113. An bần lạc Đạo Dương thế chỉ là cõi tạm nương, Vì duyên đại điểm mới siêu thường. Mùi danh không nặng, không phiền muộn, Bả lợi chẳng màn, chẳng lụy vương. Ẩn sĩ nhàn tu, gương tỏa sáng, An bần lạc Đạo, tiếng thơm hương. Càng cao đức cả tăng phần huệ, Thông suốt từ linh đến Phật đường. 114. Ngộ niềm thi cảm Ngộ niền thi cảm rộng mông mênh, Trao đổi cùng nhau rạng tuổi tên. Non nước thông tri đường tiến hóa, Đất Trời tỏ rõ hướng đi lên. Tinh thần kiến trúc, nền kiên cố, Ý chí dựng xây, mống vững bền. Sáng đẹp tinh tường hồn bút điển, Thâm tình bút mặc chẵng hề quên. 115. Màn nhung sân khấu Vòng tròn trái đất chẳng ngừng quay, Tuổi thọ lần xem cũng đến ngày. Sân khấu tuồng Đời do giả mượn, Màn nhung bảng Đạo chớ lầm thay. Tường chơn khi thấy điều vô vọng. Rõ thiện vì nghe phút trắng tay. Định hướng duyên tiên hồi tỉnh thức, Mới hầu giải nghiệp thoát bi ai. 116. Giải thoát Giải thoát là phương tối nhiệm hành, Thóat vòng duyên nghiệp dẫu bao quanh. Ở nơi chấp ngã, lòng không chấp, Nương chỗ tranh đua, dạ chẳng tranh. Nương chỗ vọng tâm, tâm bất vọng, Ở nơi biến tánh, tánh vô sanh. Nội thân, ngọai thể đều thông thóat, Thóat ấy chính là bậc Thánh anh. 117. Say đấm làm chi Cảnh thế sao nhiều nỗi ngược xuôi, Lẻ nào đi tới, lẽ nào lui ? Tham mê bả lợi nhiều căn bả, Vọng tưởng mùi danh lắm vị mùi. Chứa chấp ác hung, sao giải tỏa, Chất chồng tội lổi, liệu phanh phui. Chỉ là ảo mộng, là hư ảnh, Say đấm làm chi phút ngậm ngùi 118. Tìm cơ giải thóat Sanh tử trần gian chẳng vững bền, Nào hay sống thác giả đò quên. Còn đi, còn đến, còn cao thấp, Hết đến, hết đi, hết dưới trên. Nhựt Nguyệt Càn Khôn đều vắng bặc, Âm Dương Vũ Trụ cũng buồn tênh. Tìm cơ giải thóat thông bờ bến, Mới đặng rõ bày hướng tiến lên. 119. Khánh thọ thân sinh Thánh Đức Tân Dân tuế thọ trần. Trùng thiên quang điển đượm trời xuân. Ơn nhà hiếu để không dời đổi, Nợ nước trung cang chẳng chuyển dần. Đạo hiếu tâm thông tròn kết quả, Nghĩa ân trí đắc vẹn nguyên nhân. Càng nêu gương sáng cho mai hậu, Lưu sử ngàn năm mãi chiếu ngần. 120. Chiều tây Trời đất mênh mang có rõ thông, Tin chờ đâu nhĩ ! lạnh đêm đông. Tuổi già há sánh thời quanh liệt, Sức yếu sao bì thuở chiến công. Chỉ việc trông mong sao chẳng thấy, Lắm phen ngống đợi cũng như không. Bao nhiêu cơ cuộc chưa rằng thỏa, Xế bóng chiều tây vẫn nặng lòng. 121. Tây Đô Thành phố quê tôi thật vẻ vang, Hùng anh trung dũng sử ghi trang. Lung linh bến Bắc dòng sông bạc, Thoai thoải bờ Nam bãi cát vàng. Đó bến Ninh Kiều ngời chiến thắng, Đây phần Đất Hậu rạng vinh quang. Thuyền xe tấp nập, người mua bán, Sản xuất tăng gia cảnh thịnh nhàn. 122. Quê hương yêu dấu Quê hương yêu dấu tuyệt xuân trang, Tình cảm trong tôi mãi ngập tràn. Sắc nước lung linh tô dáng ngọc, Màu hoa lộng lẩy điểm dung nhan. Đường thương chan chứa ân tình thắm, Lối mộng đầy vơi kỷ niệm vàng. Cảnh vật hồn nhiên tươi sáng đẹp, Hòa theo khúc nhạc với cung đàn. 123. Đất nước với tình yêu ( BÀI 1 ) Gương Anh sáng ngời, Chí nấu nung, Tạo nền thống nhất Bắc, Nam, Trung. Nhớ ơn Liệt Sĩ dành cơ nghiệp, Nhớ nghĩa Thương Binh giữ đất hùng. Nhớ những cụ ông trong lửa đạn, Nhớ từng bà mẹ cảnh bom tung. Hồn thiêng sông núi luôn bừng khí, Lịch sử vinh quang chiếu khắp cùng. 124. Đất nước với tình yêu ( BÀI 2 ) Khắp cùng non nước một tình thương, Xây dựng ngày thêm cảnh phú cường. Phát triển Dân Sanh ngời đất nước, Mở mang Dân Trí đẹp quê hương. Trái tim chàng nghệ luôn bừng thắm, Khối óc nàng thơ mãi rực hường. Tương hợp giao duyên hòa điệu hát, Vui đời hạnh phúc vững miên trường. 125. Cần Thơ khởi sắc Cần Thơ khởi sắc, sắc nguy nga, Phố chợ đông vui, nghĩa đậm đà. Xe cộ ngược xuôi, đường tráng lệ, Gái trai nhộn nhịp, cảnh phồn hoa. Tây Đô anh kiệt, danh lừng lẩy, Sông Hậu nàng hương, tỏa rộng xa. Có những nhà thơ, nhà nghệ sĩ, Luôn đem chí khí điểm sơn hà. 126. tài nguyên thiên phú Aùnh sáng tương lai thắm đượm ngàn, Hướng về đất nước dựng nên trang. Việt Nam thiên phú, nhiều kho báu, Tổ Quốc hùng cường, rực điện quang. Hội đủ nhân tài tô gấm vốc, Đồng chung sự nghiệp điểm giang san. Vui Đời đẹp Đạo hồn dân tộc, Truyền thống đấu tranh đậm sử vàng. 127. Kỷ niệm Trà Vinh Trà Vinh rực sáng cả muôn lòng, Hạnh phúc quê hương thỏa ước mong. Kia những con đường, tình trải mộng, Đây nhiều thời vụ, nghĩa tràn bông. Bờ ngô đượm sắc nàng thôn nữ, Lối nhỏ thơm màu áo trắng trong. Đa dạng cây trồng trên mảnh đất, Tương lai rạng rở kết giao đồng. 128. Nông Trường Cổ Lịch Nông Trường Cổ Lịch rực trời thanh, Nước ngọt hòa duyên với đất lành. Trên tiếp hàng muôn màu trái đỏ, Dưới chờ trùng vạn sắc tom xanh. Nhân tài có sẳn cùng vươn tới, Lực lượng còn đây hãy tiến nhanh. Khai thác tận nguồn theo hướng mới, Thành công tiến đến đại công thành. 129. chúc DUYÊN GIAI NGẪU Hoa hồng rực rở điểm xuân thì, Giai ngẩu vầy duyên, sắc thắm ghi. Kính bút trăm năm, ngày Hội Cưới, Chúc lời hạnh phút, lễ Vu Quy. Song tình kết mối, gìn chân lý, Nhị tộc đoàn viên, giữ Đạo nghi. Nét ngọc trang ngà hòa điệu kết,. Bài thơ kỷ niệm đậm tương tri. 130. Xuân thơ 1993 Chúc mừng năm mới thắm tình xuân, Hội ngộ duyên thơ tuyệt tác trần. Rượu tiếp hân hoan, khơi ý chí, Trà dâng hớn hở, gợi tinh thần. Quê hương tươi sắc tròn ân nước, Tổ quốc rực màu, vẹn nghĩa dân. Trí thức tỏa ngời hương Đạo đức, Tân niên ngũ phúc đủ trăm phần. 131. Tam Kỳ Phổ Độ Con đường phổ độ khá tầm tri, Nhứt, Nhị, Tam Nguơn cổ đại thì. Trước có Nhiên Đăng truyền Phật Giáo, Sau là Thái Thượng điểm Tiên Quy. Đạo hiền Đạo hiếu thời Hy Phục, Đạo Thánh, Đạo Nhân thuở Phục Hy. Thích, Lão,Nho Tông lần kế tiếp, Ngọc Hoàng Thượng Đế chuyển Tam Kỳ. 132. Nhiệm vụ Hiệp Thiên Hộ Pháp đồng thông điểm nhất quy, Lập thành Chi Pháp chẳng sai di. Hữu phân Thượng Phẩm coi Chi Đạo, Tả định Thượng Sanh giữ Thế Chi. Thập Nhị Thời Quân cùng tiếng gọi, Tam Cơ Sứ Mạng phải cho y. Tiếp, Khai, Hiến, Bảo thông tường luật, Nhiệm vụ Hiệp Thiên rạng rở kỳ. 133. Trách nhiệm Cửu Trùng Cao Đài Nam Việt rạng Thiên thư, Ứng Cửu Trùng Thiên trách nhiệm như : Nhứt Phật Giáo Tông thông bổn Phật, Tam Tiên Chưởng Pháp tiếp Đầu Sư. Phối ba mươi sáu ghi phần Thánh, Giáo bảy mươi hai chỉ bậc từ. Đồ đệ tam thiên hàng Giáo Hữu, Lễ Sanh, Chức Việc thật vô ư. 134. Lễ Phẩm Tả hưũ không nghiêng, giữ chánh tông, Trước đèn Thái Cực đặt bên trong. Hậu Thiên Ngũ vị, tầm nơi trái. Ngũ sắc Tiên Thiên, nghiệm ở bông. Trà kết tửu hoa, Tam bửu định, Trà chung bạch thủy lưỡng nghi đồng. Nấc thang tiến hóa Nguyên Chân Lý, Gồm đủ Âm Dương,Thủy Hỏa Phong. 135. Tiên Thiên Chánh Vị Vận hành Bát Quái rõ càn Khôn, Nam Bắc phân minh sự bảo tồn. Ly thuộc, Đông cung huyền ứng điển Khảm vềTây độ biến siêu hồn, Chấn Đoài, Đông Bắc, Đông Nam ải, Tốn Cấn Tây Nam, Tây Bắc môn Tứ Chánh hiệp đồng, thông Tứ Ngẫu, Tiên Thiên vô Cực Đại Từ Tôn. 136. Anh thư nữ kiệt Thế thượng thường nhiên, luật chẵng thường, Học nhân tiếng để rạng danh gương. Nhị Trưng Nữ Kiệt, tình lưu dấu, Chân Thị Anh Thư, nghĩa vấn vưưng. Đất Á gương trinh, người vẫn nhớ, Trời Âu sử tiết, chúng còn thương. Trăng thanh soi tỏ bao hình ảnh, Chiếu cả lòng dân đến Thượng đường. 137. Hoàng Hoa Thám “Hùm Thiêng Yên Thế” tướng quân hùng, Mượn chước gian tà lập kế trung. Cả Trọng thật thù nên chẳng vị, Ông Đề giả tử để không dung. Lầm mưu giặc Pháp thua vong loạn, Phải lược nghĩa quân đánh tứ tung. Thương Phức khiếp kinh giờ rõ mặt, Hoàng Hoa Thám vẫn tiếng vang lừng. 138. Hồn Thiêng Yên Bái Phong trào sôi nỗi chí hùng anh, Bởi hận thù kia nặng chỉ mành. Khắp tỉnh Đông Tây cờ thắm đỏ, Các miền Nam Bắc nước ngời xanh. Lời kêu vạn chúng, ta càng đượm, Thơ gởi Toàn Quyền, giặc vẫn tanh. Lịch sử vẻ vang muôn thuở kiếp, Hồn Thiên Yên Bái mãi trường sanh. 139. Nguyễn Trung Trực Nguyễn Trung Trực một đại danh thần, Mưu lược chiến trường thật khó cân. Nhật Tảo lửa hồng thiêu xác giặc, Kiên Giang sóng chuyển, dậy lòng dân. Sống thời vẹn chữ trung non nước, Chết để tròn câu hiếu mẫu thân. Giặc Pháp thảy nghe đều khíp sợ, Lừng danh Quảng Lịch chiếu gương ngần. 140. Nhớ gương Nguyễn Trãi Hà Đông sao sáng mãi không tàn, Hiếu nghĩa nhân tình rạng sử trang. Vì nước trả thù, kinh giặc ngoại, Vì nhà rửa hận, khíp Minh bang Trước vì Thái Tổ tru tam tộc, Sau được Thánh Tôn giải tỏa an. Đó nghiệp hùng anh gương Nguyễn Trãi, Ngời linh hiển hích khắp giang san. 141. Phan Đình Phùng Tại ngọn Ngàn Trươi họp nghĩa quân, Giữa mùa mưa lũ, giặc bao vần. Giang sơn gẩm lại đau lòng nghĩa, Gấm vốc tầm qua xót dạ nhân. Mượn khoản rừng thưa lừa giặc kế, Nhờ khe núi kín tiến binh gần. Phan Đình Phùng tiếng tâm vang vội, Chiến thắng vụ quang sử sáng ngần. 142. Đinh Bộ Lĩnh Cũng bởi nước nhà loạn sứ quân, Nhờ Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong phần. Đại Cồ Việt quốc, vui lòng tướng, Vạn Thắng Vương ngôi, thỏa chí dân. Nguyễn Bặc, Đinh Điền ngời tiếng để, Lê Hoàn, Phạm Hạp rạng danh nhân. Đinh Tiên Hoàng Đế lưu truyền sử, Niên hiệu Thái Bình cảnh thạnh tân. 143. Lê Hoàn Lê Hoàn danh rạng chức càng cao, Thái Hậu đề dương, khoát ngự bào. Giữa lúc Ấu Vương còn thế chậm, Vưà khi Tiên Đế mãn phần mau. Ngoại bang phải lúc đang chờ tới, Quân Tống thưà cơ đã kéo vào. Khiến giặc thua to không sánh nỗi, Tiền Lê rực rở đến ngàn sau. 144. Lý Thường Kiệt Mưu lược chiến trường thật khó cân, Phò vua giúp nước rạng trung thần. Nhiều phen chống giặc, ngời danh dũng, Lắm lúc thủ thành đậm tiếng nhân. Lập những kỳ công cùng đất nước, Tạo bao chiến tích với quân dân. Lý Thường Kiệt mãi danh đề sử, Soi sáng niềm tin tỏa chiếu ngần. 145. Nguyễn Thời Trung Ông Nguyễn Thời Trung, tổ đóng giầy, Sang Tàu tìm học chuyển về đây. Vương lên dẫu phải đầu chông nhọn, Tiến tới xá chi mặt đất lầy. Chung sức vì dân hầu trọn đủ, Góp công với nước mãi thêm đầy. Cũng là ý nghĩa cho đời sống, Sống mãi trong nghề được đắp xây. 146. Lương Hữu Khánh Lương Hữu Khánh xưa thật tướng hùng, Phi thường sức mạnh hổ còn rung. Văn chương soi sáng nguyên lòng chánh, Tài đức tỏ ngời một dạ trung. Ẩn Mạc không công, công lại nãn, Phò Lê lập trận, trận thêm nung. Thời lai thế dũng không quên thuở, Qua một bài thơ lúc túng cùng. 147. Nguyễn Thái Học Độc Lập Tự do Hạnh phúc nền, Xa gần hưởng ứng để làm nên. Giữa thời thù hận bao mùi khói, Nhằm lúc giặc cuồng lắm đạn tênh. Được thế, hùng anh đồng hiệp sức, Sa cơ, chí khí vẫn luôn bền. Trước giờ lịch sử dòng thơ thép, Chặt đứt mộng hồn lũ quạ kên. 148. Mai Thúc Loan Mai Thúc Loan người địa phận Hoan, Tuy nghèo nhưng khó sánh tâm vàng. Trải bao phiền thuế, toan trừ biến, Lắm cuộc hờn sưu, quyết giải nàn. Lời gọi đồng thề xây rạng sử, Tiếng kêu hưởng ứng dựng ngời trang. Nghe uy Đường Lý đều rung sợ, Hắc Đế lừng danh khắp Vạn An. 149. Nguyễn Bỉnh Khiêm Trình Quốc Công xưa Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng nguyên thời Mạc được phong quyền. Tinh thông lý số, đề thơ để, Tuyệt thấu tiên tri, sấm ký truyền. Đạo đức con người bền nghĩa khí, Tình thương nòi giống vẹn trung kiên. Soi gương trí Đạo muôn đời kiếp, Học một biết mười, hiểu tự nhiên. 150. Câu trần lưới tục Say đấm làm chi cảnh khổ nàn, Yêu tinh lấp ngõ lại chen đàng. Câu trần ám muội, bao phiền muộn, Lưới tục hôn mê, lắm thở than. Chạnh kiếp sa cơ, ai giải cứu, Tủi đời thất thế, mặc kêu oan. Ôi ! vòng duyên nghiệp thương hờn đủ, Phải khá tầm tri chớ buộc ràng. 151. Trước bao thử thách Từng trãi phong sương bước Đạo trường, Đi từ ý thức đến đề chương. Đời cho cay đắng, cho lề luật, Đạo giúp mặn nồng, giúp kỷ cương. Mỗi đoạn chông gai nung chí khí, Từng cơn thử thách, luyện kiên cường. Xung quanh sự khảo là phương tiện, Xây dựng niềm tin vững lối đường. 152. Bình tâm định pháp Bao điều nghiệp lực mãi đua tranh, Mơ tưởng chi trần thứ giả danh. Bạc gió theo mây, tuồng phú quý, Vàng sương cuộng nước, tích công khanh. Mưa trôi, trôi cả thân phàm tục, Gió cuống, cuống theo khối điển thanh. Việc thế rõ bày nên tỉnh ngộ, Bình tâm định pháp hởi nhân sanh. 153. Chợt tỉnh Trải bao gian khó nghiệp duyên đầy, Kiểm lại hành trang những phút giây. Đếm thử bao phen hư ảo vọng, Lường xem mấy đoạn mịch mờ tây. Thành công rực rở theo bèo nước, Chiến tích vang lừng gởi gió mây. Cát bụi trả về cho cát bụi, Vẩn vơ hồn phách đến đâu đây ?... 154. Một giấc tương tư Còn chăng mơ ước thuở ban đầu, Tâm sự vơi đầy có rõ đâu. Khoé mắt bờ mi, dòng nước xoáy, Con tim mạch máu, giọt mưa ngâu. Tình yêu ngắn ngũi bao trường đoạn, Mộng ước chưa tròn lắm bễ dâu. Một giấc tương tư dường thế kỷ, Nguồn thương, suối nhớ Đạo nên cầu. 155. Buộc ràng danh vọng Người ở trên đời dạ khó cân, Những gì đánh mất bổn lương chân. Cao sang quyền quý sanh tâm độc, Danh vọng bạc tiền khởi ác nhân. Ôi ! nghiệp bản thân che bản thể, Ôi ! tình đơn thể buộc đơn thân. Làm sao giải tỏa bao phiền lụy ?... Tỉnh định ai ơi ! chớ lắm lần!... 156. Thương tiếc xa ngàn Thôi rồi ! một kiếp trải nhân gian, Để lại người thương giọt lệ tràn. Cách ngã đường đi về cảnh giới, Chia phương kẻ ở lại trần hoàn. Kim ngôn Phật dạy xin lưu giữ, Bửu huấn kinh truyền khá định an. Trước phút đưa người về vĩnh cửu, Nỗi buồn rung động, khóc ly tan. 157. Công ơn sanh dưỡng Công ơn sanh dưỡng lắm gian truân, Mừng trẻ tập tành những bước chân. Nghĩa mẹ sanh thành không kể xiết, Công cha dưỡng dục khó lường cân. Khi vì sự sống nơi đồng áng, Lúc phải mưu sinh giữa bụi trần. Công tợ thái sơn, ơn tợ hãi, Mong con khôn lớn đặng nên thân. 158. Sáng ngời truyền thống Khá vững đường tu bước dạng dày, Gương lành soi sáng hướng tương lai. Vẹn gìn chánh ý cùng năm tháng, Tròn giữ chơn tâm mãi tháng ngày. Hiệp bút tình thương, lời sáng đẹp, Hòa thơ bác ái, tiếng thơm bay. Sáng ngời truyền thống dân Hồng Lạc, Đạo đức con người chẵng đổi thay. 159. Chúc thơ Trần Hà tiếp vận Gia đình sum họp Đạo Tông truyền, Bảo nhiệm chung phần kết bút nghiên. Đường sáng gieo nhân, hồng huệ điểm, Thi xanh kết quả, phúc ân truyền. Trần giao đậm nghĩa từng chi nhựt, Hà hiệp thâm tình trãi tất niên. Tiếp nhận lưu hành thông lý chánh, Vận kỳ thể tựu ứng chân nguyên. 160. Việt, triều lưu niệm Hà Việt hôm nay đến thất Triều, Thâm tình cảm thấy biết bao nhiêu. Lời thương trao đổi khơi lòng tỏ, Ý nhớ luận bàn gợi dạ khiêu. Chung bước đường dài, hồn bút kính, Cùng đi nẽo thẳng, thể thơ yêu. Thi giao kỷ niệm lưu tình đẹp, Nghĩa ngọc càng thêm đậm sắc nhiều. 161. Thơ tặng thi hữu Song Vũ Thi nhân hội ngộ tiệc vui chơi, Mừng gặp đệ huynh thỏa dạ rồi. Ngọc hữu tương giao đây với đó, Kim bằng kết nghĩa bạn và tôi. Chung trà ngọt đắng, bàn cơ Đạo, Chén rượu nồng cay, luận sự Đời. Tiếng nhạc lời thơ hòa điệu kết, Thâm tình vang mãi khắp muôn nơi. 162. Mừng cháu tròn trăng Mừng nay cháu đã được tròn trăng, Vui bởi Lê gia tiếp ngọc bằng. Rực rở Huỳnh tâm truyền mãi lối, Sáng ngời Minh trí sắp thêm hàng. Đẹp lòng Mẫn định dồi nghiêm thất, Thỏa dạ được trao điểm tuệ trang. Vẹn thảo, tròn trung, Đời Đạo học, Tuyệt vời trăng chiếu tỏa khang an. 163. Kính mừng tăng thọ Hà gia kính chúc vạn bình an, Việt xuất tâm trung gởi đá vàng. Kính nguyện niên cao luôn khí phách, Mừng cầu tuế thượng vẫn hiên ngang. Tăng tài phúc lộc, danh ngời sáng, Thọ đức khương ninh, tiếng vẻ vang. Bác mãi nêu gương đàng hậu tấn, Nhãn linh khai mở chiếu soi đàng. 164. Tình thơ tâm pháp Bài ( 1 ) Hà Việt đôi câu đậm nghĩa thơ, Thâm sâu tình Đạo thỏa mong chờ. Nhân ngày đến viếng, thông từ nhiệm, Tiện buổi qua thăm, thấu bổn cơ. Trước có ngộ duyên nên trúng điểm, Sau hay nhiếp thọ mới ăn rơ. Những gì siêu diệu trên thuyền pháp, Chí hướng Đồng Nguyên rõ bến bờ. 165. Tình thơ tâm pháp Bài ( 2 ) Bến bờ soi sáng vạn tình thương, Trước sự chuyển xoay đấng diệu thường. Biết đó chẵng ngờ cầu Chúa Thánh, Rõ kia là thật nguyện Minh Vương. Hay đây niệm vị Huyền Khung Thượng, Rằng nọ trì danh Bổn Phật Đường. Nhất thể cũng đồng về chánh giác, Đó lời tâm pháp đến Văn Tường. 166. Thơ tặng kỷ sư Vũ Thế Trụ Vũ Thế Trụ người đã có công, Tinh thần yêu nước dẫu ngăn sông. Tìm ra sự nghiệp, ngời tinh ý, Đoán được tươn glai, đẹp thỏa lòng. Kế hoạch tăng gia nhiều hưởng ứng, Chương trình sản xuất lắm chờ mong. Cẩm nang lưu để muôn kỳ hậu, Kỷ thuật nuôi tôm đến Đại Đồng. 167. Tưởng nhớ th Thiện Linh Tưởng đến Nguyễn truyền bổn tộc gia, Nhớ thương Thị đã khuất ngày qua. Người hay Thu mộng , đời bi lụy, Vừa rõ Ba sinh, kiếp lệ nhòa. Khuất bóng, Bút nghiên đành vắng vẻ, Dạng hình Hiệu triệu cũng phôi pha. Nhà tu Thiện chí, gìn chơn Đạo, Thơ thới Linh hương, kiến Phật Đà. 168. thơ tặng Lê Thanh Nga Bài khai Thánh ý chuyển kỳ công, Thơ phú ngân vang đẹp thỏa lòng. Tâm cảm như nhiên cần thật có, Pháp duyên tuyệt nhiệm phải tầm không. Tặng trao bổn giác nơi tâm định, Lê lựu đào viên ở ý thông. Thanh thế tỏ tường chung nhất điểm, Nga danh rạng rở nghĩa tương đồng. 169. thơ tặng Thiên Nhiên Thanh Bài bản thông truyền, rạng lý minh, Thơ hòa diệu ứng thật siêu linh. Tâm trung nhiếp phục, tươi ngời nghĩa, Pháp ấn chuyển luân, đậm thắm tình. Tặng phẩm lưu danh tròn đại thể, Thiên ân đề bảng vẹn Nguyên Sinh. Nhiên nhiên tinh tuyệt cơ huyền nhiệm, Thanh cảnh đài khai rực điển huỳnh. 170. thơ tặng huynh Chí Đạt Bài giải từ linh khiếu diệu thường, Thơ ngâm thâm thúy tỏa ngời hương. Tâm hồn hiến Đạo, thông duyên giác, Pháp dâng Thầy, kết điểm chương. Tặng phẩm tinh tường cơ Thế Pháp, Huynh hiền thấu triệt luatä Âm Dương. Chí thành nhất mực vì Nguyên Lý, Đạt bản huyền cơ ứng nhiệm trường. 171. thơ tặng Nguyễn Tấn Phát Hà giang luân chuyển luyện tâm nhiên, Việt quốc Thiên ân góp điểm truyền. Kính bút lâu dài, quy bổn thiện, Tặng thơ kỷ niệm hiệp Chân nguyên. Huynh hiền phúc phẩm tầm chơn phẩm, Nguyễn tộc duyên trường ngộ Đạo duyên. Tấn hóa thể đồng thông ý pháp, Phát huy tài đức rạng linh thuyền. 172. thơ tặng Phạm Tấn Thành Kính lời Hà Việt đến nhân hiền, Tặng gởi tinh tường hiệp hữu duyên. Huynh đệ kim bằng càng tuyệt quý, Phạm, Hà kết nghĩa thật cao nhiên. Tấn tâm tìm Đạo, hành Thiên mạng, Thành ý nghiệm kinh thọ bí truyền. Lưu dấu ngôn từ, thông mật chỉ, Niệm ân Kim vị rạng Sinh Nguyên. 173. Thơ tặng muội duyên Tấm lòng hướng Đạo rất cao nhiên. Cũng vốn vô vi sẳn diệu huyền. Dù cuộc bể dâu, lo nợ nghiệp, Mặc tình đeo đuổi, nặng ưu phiền. Còn bao tiếng gọi xa vòng tục, Lắm chuyện cơ may chọn phẩm Tiên. Cảnh mộng có chi mà luyến tiếc, Cần nên chọn đúng pháp lành duyên. 174. Nhiên Đức Bồ Tát Dựng Đài Nguyên Pháp luyện viên dung, Thuyết giảng châu thân chuển khắp vùng. Hành hóa Đại Đồng xây Thánh Miếu, Chuyển đàn Bộ Phận lập Tòa Cung. Nho Tông nền tảng gìn nhân Đạo, Giáo Tổ nguồn ân giữ hiếu trung. Bồ Tát vị ngôi, Nhiên Đức hiệu, Tự Trần Văn Tấn điểm gương chung. 175. Nhiên Hoà Như Lai Cao Văn Tư hiệu thọ Đài chương, Phụng sắc từ ân vững lập trường. Tân Chiếu Minh Đài Thiền Điện Các, Long Hoa Đại Lễ Trước Lâm Đường. Tàng Thơ ẩn chuyển trong tam cõi, Chánh Pháp hoằng dương khắp tứ phương. Đắc vị Như Lai gương Diệu Pháp, Nhiên Hòa bổn định, đắc Thuần Dương. 176. Trầm Ẩn Kim Tiên Nguyễn Văn Năm hiệu thọ Thiên ân, Học Đạo Đại thừa, giữ nghĩa nhân. Chung khối Đại Đồng, rèn Thánh thể, Cùng cơ Pháp Tổng, luyện Kim thân. Thanh bần vẹn kiếp bồi âm đức, An lạc tròn duyên lập phúc phần. Chiếu triệu Đơn thơ ngày quả mãn, Kim Tiên Trầm ẩn sáng gương ngần. 177. Thuần Dương Đàn Thuần Dương Đàn Điện thọ Thiên ban, Kính đức trọng nhân, tiếp phẩm vàng. Diệu lýTàng thơ minh tự ngữ, Đơn kinh Dịch Thuật điểm từng trang. Hoằng khai Pháp Nhiệm thông từ huệ, Ứng chuyển Đại Đồng rực điển quang. Cảnh vật hồn nhiên vui học Đạo, Bổn linh tinh tuyệt, tuyển khoa tràng. 178. Gởi bạn Văn Kuôl Đôi giòng thơ tả gởi Năm Kuôl, Dẫu vắng từ lâu chẳng phải chuồl. Khi rõ thuyền kia, giờ tís tís, Rằng hay xe nọ, phút tuôl tuôl. Lẽ đâu đắm mộng như nàng tuốs, Há lại say tình thể cậu Buôl. Đạo Pháp gắng nhanh, lòng chớ huộl, Cũng không huổl huổl, cũng không huồi. 179. Thơ tặng thi hữu Hãi Hà Có một thi nhân tự Hãi Hà, Tinh thần xây dựng thật bao la. Hiền hòa nghĩa cảm tô màu ngọc, Trung thực tình lưu điểm sắc ngà. Ưu ái bạn bè dầu cách trở, Quan tâm thân thuộc dẫu gần xa. Tuổi cao ý chí càng năng động, Từ việc kinh doanh đến việc nhà. 180. Thơ tặng thi hữu Thanh Trần Thi hữu Thanh Trần tuyệt tác thơ, Hương danh phưởng phất tự bao giờ. Thiên nhiên tạo hóa tường nguyên bổn, Luật định nhân loài rõ ý cơ. Yêu mộ văn chương xây vững bến, Mến trao bút điển đắp nên bờ. Tình thương cuộc sống càng nung nấu, Đạo đức con người giải mộng mơ. 181. Thơ tẶng thi hữu Tứ Bạch Nhà thơ Tứ Bạch tự Thành Nam, Rộng mở tình thương tiếp luận đàm. Ứng đối văn chương quy bổn nhứt, Hài hòa thi phú hiệp đồng tam. Trọng gìn Đạo đức điều ưa thích, Năng giữ nghĩa nhân việc chọn làm. Đúng Mạnh Thường Quân, ngời sức sống, Cũng là duyên trước cội Già Lam. 182. Thơ tặng thi bá Đức Nghiệp Nhà thơ Đức Nghiệp bậc Tiên sinh, Trong sáng tâm thanh đẹp nghĩa tình. Tuổi đã cao ngời luôn mẫu mực, Đời thêm ngút tỏa mãi uy linh. Tinh thần bền bỉ thời giông tố, Ý chí vững vàng buổi chiến chinh. Thần bút khí Thiên càng hiển hiện, Nguồn thơ điêu luyện vững quy trình. 183. Thơ tặng thi hữu Khánh Triều Nguyễn Khánh Triều đây tự Giáo Triều, Một nhà thơ tuyệt, dễ người yêu. Vui tình thi nghĩa, duyên càng mở, Đẹp ý văn nhân, thể cũng siêu. Nét điểm thật như dòng nước chuyển, Màu tô đúng tợ ánh trăng nêu. Càng thêm trong sáng câu hòa ái, Chơn lý niềm tin rõ vẹn điều. 184. Thơ tặng thi hữu Thanh Bình Gíao Bình thi hữu tự Thanh Bình, Khiêm tốn cần cù nghiệp kế sinh. Có cả hương thơ như huệ trắng, Cùng thêm vị phú tợ đường tinh. Ngọt ngào ý thức , Đời xây dựng, Thơm ngát văn chương, Đạo giữ gìn. Cởi mở tâm lành nhân nghĩa trọng, Nguồn thơ dào dạt thắm ân tình. 185. Thơ tặng thi hữu Năm Ngay Thi hữu Năm Ngay một lão nhân, Cũng là bút hiệu gọi Nông Dân. Chân tình góp ý dầu nghi kỵ, Trung thực tiếp lời dẫu oán ân. Chứa đựng pháp tâm đâu thể sánh, Ẩn tàng thể tánh dễ nào cân. Hết lòng vì bạn, vì trung nghĩa, Đạo đức càng thêm ánh sáng ngần. 186. Thơ tặng thi hữu Ký Ốm Nhà thơ Ký Ốm bậc tài hiền, Trí thức góp phần chẵng bởi riêng. Có những tâm hồn ngời khí khái, Lại thêm ý thể rực hùng thiên. Hòa tình tri kỷ tròn nhân phẩm, Hiệp nghĩa thâm giao vẹn bổn duyên. Trọng Đạo, yêu Đời thành sự sống, Sáng trưng ý chí bởi căn tiền. 187. Thơ tặng thi hữu Hoàng Linh Hoàng Linh Kim Chưởng một thi nhân, Có sẳn nguồn thơ thật sáng ngần. Ý chí mạnh lành, ngời nghĩa lý, Tinh thần vững chắc rạng từ chân. Ẩn tàng lưu mãi hơi thiên phú, Phát triển vươn lên sức tự thân. Trẻ đẹp tâm hồn như nét bút, Sắt son giòng chữ dẫu phong trần. 188. Thơ tặng thi hữu Bảo Trâm Thi hữu Bảo Trâm trọng nghĩa tình, Hồn thơ xuân sắc vẹn niềm tin. Cung thương uyển chuyển lời tươi thắm, Nhạc điệu nhịp nhàng, ý tuyệt minh. Dạ những dạt dào cầu hạnh phúc, Lòng nghe rung cảm nguyện thanh bình. Văn đàn tri kỷ còn lưu mãi, Sức sống mạnh lành tự chí linh. 189. T. tặng T.h Huỳnh Thanh Phong Huỳnh Thanh Phong hiệu một nhà thơ, Lý luận văn chương thế có ngờ. Xây dựng cho người không phải dễ, Đấu tranh với giặc chẳng đơn sơ. Dân Sanh góp ý thông trường ảo, Quốc kế điểm lời giải mộng mơ. Hiểu cảnh, rõ tình vì cuộc sống, Đường thi thúc giục sáng như tờ. 190. Thơ tặng t.h Trần Lệ Khánh Nhà thơ Lệ Khánh nữ tài danh, Tình cảm thâm sâu ý chí thành. Rung động lời thơ, lời nhạy bén, Nồng nàng ý cảm, ý truyền nhanh. Điểm tô hương vị thông đường sáng, In đậm sắc màu hiện nét thanh. Nổi bậc văn chương duyên dáng ngọc, Càng thêm rạng tỏ đức ân lành. 191. Thơ tặng thi hữu Lê Minh Ngòi bút tài hoa rực ánh xuân, Lê Minh thi hữu sáng gương ngần. Lời thơ ca ngợi cầu trung hiếu, Ý nhạc hân hoan tiếp nghĩa nhân. Sự sống đậm ngời câu hảo hiệp, Cuộc đời thắm đượm chữ tương lân. Góp phần trí thức xây hoài bảo, Thêm sắc, thêm hương mãi sáng ngần. 92. Thơ tặng t.H Hà Bửu Phát Tiếng gọi nghĩa nhân đậm nét tình, Nhà thơ Bửu Phát hướng tâm kinh. Lời văn êm ái, gìn nguyên bổn, Nét bút dịu dàng, giữ ý minh. Hiếu khách tầm thi, thi mãi luyện, Say duyên mộ luật, luật càng tinh. Rõ phần xử thế, đông bằng hữu, Nhắc nhở cùng nhau Đạo đức gìn. 193. Thơ tặng thi hữu Ái Nhân Ái Nhân thi hữu rất yêu đời, Xây dựng góp phần rạng rỡ nơi. Tuổi tác càng cao, công vẫn tiến, Tâm hồn trẻ mãi, việc không lơi. Kiên trì việc nước, thêm tinh lẽ, Nhẫn nại Đường thơ, mãi tuyệt lời. Sinh động hòa tình, niềm cảm đẹp, Hương thơ thắm đượm sắc mây trời. 94. Thơ tặng thi hữu Nam Phong Nam Phong thi hữu bậc tài năng, Sống động, uy nghiêm, lại chuẩn thằng. Đằm thắm lời văn, tình mãi nở, Dịu dàng nét bút, nghĩa thêm tăng. Nồng nàng giao hữu dầu lai chuyển, Nhuần đượm duyên thơ dẫu giáng thăng. Ý đẹp sắt son còn hậu để, Quyết tâm xây dựng chữ công bằng. 195. Thơ tặng thi hữu Năm Thiệp Năm Thiệp thi nhân chí hiệp hào, Tấm lòng bác ái, Đạo gìn trau. Sưu tầm thơ luật , thông lề lối, Nghiên cứu sách kinh, rõ trước sau. Nghị lực vững vàng, hòa nẽo thấp, Tinh thần bền bỉ, thuận đường cao. Đượm ân đức cả từ duyên bổn, Sáng rực niềm tinh đủ sắc màu. 196. T. tặng t.h Trần Minh Thông Một nhà thơ cũng một lương y, Thi hữu Minh Thông rõ vận thì. Bác ái tình Đời không biến chuyển, Hòa đồng nghĩa Đạo chẳng sai di. Bảo toàn truyền thống càng như thuở, Gìn giữ hậu lai thật đúng kỳ. Nét bút tinh thần chung sức dựng, Sáng ngời chí cả tuyệt vời thi. 197. Thơ tặng t.h Hoàng Thân Hoàng Thân nghệ sĩ lại thi đàn, Thiên phú làng hơi để tiếng vang. Lối diển vững vàng, thêm lẫm liệt, Giọng ngâm truyền cảm, lại nghiêm trang. Vui tình mến bạn, tình như ngọc, Đẹp nghĩa trao duyên, nghĩa tợ vàng. Hâm mộ văn chương, giàu nét chữ, Tình thương ý chí giữ bình an. 198. Thơ tặng thi hữu Ngũ Sắc Thi nhân Ngũ Sắc tuổi cao ngời, Mẫu mực tinh thần góp sức hơi. Tiếng gọi giác mê, kia sự thế, Lời kêu say tỉnh, đó tuồng đời. Hòa tâm hướng thượng càng tinh nhiệm, Hiệp chí tầm nguyên rất tuyệt vời. Đạo đức con người, chung góp ý, Hương thơ phưởng phất khắp muôn nơi. 199. Thơ tặng thi hữu Thiện Linh Thiện Linh thi hữu đượm thơ ca, Sắc thái văn chương ý mặn mà. Đạt lý đối nhân, tình tợ ngọc, Thông tình xử thế , ý như hoa. Tấm lòng Bác Ái hòa nguyên bổn, Tấc dạ Đại Đồng hiệp nhất gia. Đức sáng tài gương, giàu nghĩa cả, Hương thơ phưởng phất tỏa muôn xa. 200. Thơ tặng t.h Giang Hồ Khách Giang Hồ Khách hiệu, đậm tri âm, Kết hợp tình thơ, nguyện nhất tâm. Mãi võ cầu duyên, tình thắm đượm, Sơn đông hiếu khách, nghĩa thâm trầm. Văn chương tô điểm từ muôn kiếp, Nghệ thuật trau giồi mãi vạn năm. Chí hướng nhìn lên trời, đất, nước, Giữ tâm trong sáng thể trăng rằm.
|