DƯỢC VẬT - LƯ ĐÃNH
Tý thời, đêm 15 tháng 01 năm Giáp Dần - Đại Đạo 48 (06.02.1974).

THI
NGUYÊN lai vô sắc diệt vô sanh,
THỦY phán âm dương lưỡng thể thành.
THIÊN Địa hàm dinh chiêu nhật nguyệt,
TÔN thừa cương kỹ huợt thời sanh.

Tôn Sư đại hỷ chư hiền Hội Thánh. Miễn lễ, an tọa, tịnh tâm nghe Tôn Sư dạy về: "Dược vật và Lư đãnh".
Dược vật: Chân Tinh hay Chân Dược là vị thuốc vô giá bửu trong con người.
Có Chân Dược mới tạo thành Chân Đơn, mới tạo nên Chân Chủng Tử hay Xá lợi.
Sở dĩ nơi người có Chân Dược phát sanh là do công phu Thiền Định đến trạng thái Thái Cực, tức nơi người có hiện tượng hốt hoảng như tỉnh, như mê.
Chân dược có Chân Diên và Chân Hống.
Lúc động thì hai khí này cách nhau; lúc tịnh thì hai khí này hiệp một và thành Chân Dược, gọi là Linh căn sơ phân nơi thời hổn độn, là sanh vật của Tổ Khí. Lúc hàm tàng thì vốn Chân Không; lúc phát động thì thành Diệu Hữu; lúc dụng sự thì thành Đạo Tâm; lúc ôn dưỡing thì tạo nên Cốc Thần. Chí Vô mà hàm súc chí Hữu; chí Hư mà dung chứa vật chí Thực. Trong đó có khí Ngũ Hành mà không có chất Ngũ Hành. Tàng ẩn nơi trong Ngũ Hành mà không đọa lạc vào Ngũ Hành. Làm Thánh, làm Tiên đều do báu vật này.
Chỉ vì con người bị Thức Thần làm chủ nên vật chí hữu này ngày một tẩu thất, khiến Tánh,
Mạng phải bị tàn tạ theo thời gian.
Chư Hiền nhờ có duyên lành nên được gặp cơ phổ hóa, phải sớm tỉnh ngộ, cầu lấy chân truyền mà vượt lên cõi Thánh.
Tôn Sư không nỡ nhìn thấy chư Hiền bị quanh quẩn mất nhiều thì giờ mà không đi đến đích, nên điểm truyền công phu: "Kim dịch huờn đơn" để viên mãn pháp môn "Thất phản cửu huờn" cho Chân Dược viên thành trong cơ Thiền Định.
Có Thất phản mà không có Cửu huờn thì dược chẳng thành chân,
tức là lạc vào nẽo cô âm độc dương như chư Hiền đã hiểu.
Tiếp dạy về pháp "thể dược":
Thể dược: là hái thuốc, là pháp môn trọng yếu của cơ Thiền Định.
Thể dược gồm có bốn công phu: Thể Dược, Huân Chưng, Phong Cố và Vận Hành.
- Thể dược phải thể Chân Dược, xuất phát từ cơ Chân động (Tâm không động).
- Thể dược phải đúng lúc là lúc Thiên Cơ triền động, là đúng thuốc không già, không non.
- Thể dược phải đúng pháp là trước văn, sau võ.
Thể mười lần hoặc thể hai mươi lần cho đến lúc nào dương quan không còn động nữa, tợ như quy túc (rùa ngũ) mới tròn công. Phải dùng Chơn Ý mà vận động hai Khí ở trong để chiêu nhiếp cho nó quy căn.
Huân chưng: là nấu thuốc. Nấu thuốc chỉ dùng Văn hỏa, chủ đích là để thuần dương hóa chơn đơn.
Phong cố: Thuốc đã nấu xong phải gói, phải cất, gọi là phong cố. Phong cố bằng phương pháp: đóng sáu cửa cho bền then khóa, tức là lục căn bất động.
Vận hành: Cuối cùng là vận hành, tức Vận Châu Thiên. Châu Thiên ở đây là để điều hành Chân Dược. Rồi tiếp tục tịnh để chờ Chân động.
Lư đãnh: là lò chão. Lư để vận hỏa. Đãnh để nấu luyện thuốc.
Luyện kim đơn là thể theo đức nhu thuận của Khôn để làm "lư", tuần tự tiệm tiến; thể theo đức cương kiện của Càn để làm "đãnh", mãnh phanh cấp luyện. Thường cương thường nhu, thường kiện thường thuận. Chí niệm kiên cố, càng lâu càng có năng lực thì Đãnh Lư được ổn định, chẳng dao chẳng động mới nên thể được vận Hỏa.
- Khi ngưng Thần nhập Khí huyệt thì Thần là Đãnh, Khí là Lư.
- Lúc thể dược thì gọi Khí là Lư, Thần là Hỏa.
- Lúc tàng phục chân khí thì Thần là Lư, Khí là Dược.
- Lúc Vận Châu Thiên, khi vận khí lên Càn cung thì Càn là Đãnh, Khôn là Lư.
- Lúc giáng hạ quy căn: Ly là Đãnh, Khảm là Lư.
Tóm lại: Lư Đãnh là Thần Khí. Có thấy được cơ Thần Khí khởi phục mới nhận chân được Lư Đãnh. Tức là Thần Khí phục ở đâu thì Lư Đãnh ở đó, nếu không có Thần Khí thì không có Lư Đãnh. Cho nên nói: Lư nhưng vốn thiệt không Lư; Đãnh nhưng vốn thiệt không Đãnh. Đó mới là Chân Lư Đãnh.

THI
Luyện Đạo pháp truyền: trước luyện tâm,
Tâm không vướng bận những mê lầm,
Tham, sân, hỷ, nộ, muôn duyên đoạn,
Thường tại hư linh thị bửu châm.

THI
Bổn lai diện mục thị Chân Như,
Nhất điểm linh quang tại Thái Hư,
Đốn ngộ chân tâm huờn tự tánh,
Vô lai, vô khứ diệt vô dư.

Đàn dạy đến đây tạm ngưng, đàn sau sẽ dạy tiếp. Tôn Sư ban ân lành cho tất cả. Thăng.
                                                                  Trở Lại Mục Lục