CÂY PHỔ THÔNG GIÁO LÝ ĐÃ
ĐƠM BÔNG KẾT QUẢ CHƯA?

Sau giai đoạn 40 năm tu học và hành đạo, chúng ta cũng cần thành thật tự kiểm điểm một cách nghiêm túc để nhận xét đã làm được những gì lợi ích cho bản thân mình, cho tập thể Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo và cho toàn Đạo để không phụ lòng dìu dắt chắt chiu của các Đấng Thiêng Liêng.
Năm xưa khi Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý vừa hình thành, tại Thiên Lý Đàn, ngày 14-01 Ất Tỵ (15-02-1965), Đức Chí Tôn đã ban cho những lời dạy dỗ: “…Khi lòng con đã thành, TRI, THUYẾT, HÀNH như nhứt, thì các con sẽ thấy lý siêu việt đến với các con, là ngày mà cây Phổ Thông Giáo Lý đơm bông kết quả.”
Chúng ta hãy xét qua từng lĩnh vực: Tri, Thuyết và Hành.
1. Tri. Tri là biết, là hiểu biết rõ ràng, sáng suốt rành mạch, không còn nghi ngờ lầm lạc, hoang mang nhờ sự học hỏi. Chính Đức Lý Giáo Tông đã bảo người tu mà không học như người mù, như người đi trong đêm tối, làm sao thấy được ánh sáng chơn lý, làm sao rõ được đâu là chơn giả, đâu là chánh tà để khỏi bị lạc vào tả đạo bàng môn mê tín dị đoan.
Cơ Quan chúng ta có học đủ chưa? Có học và đã học rất nhiều rồi, chiếu theo Lịch Trình Hành Đạo của Đức Lê Đại Tiên để tự học và qua các lớp đào tạo tu sĩ, giáo sĩ, những lớp bồi dưỡng các chức vụ từ Vụ Trưởng, Trưởng Ban, Phó Ban được tổ chức hằng tuần, hằng năm. Nhân viên Cơ Quan hàng tháng được học triển khai các Thánh giáo của Cơ Quan vào mỗi tối mùng 2 trong tháng. Cơ Quan cũng có lớp nghiên cứu kinh Dịch hằng tuần và thường xuyên tổ chức những buổi giao lưu trao đổi kinh nghiệm
với Minh Lý Thánh Hội.
Cái Tri cũng nhờ có công phu thiền định để được thông minh, sáng suốt, minh mẫn, dần dần phát sanh ra huệ mà đạt đến bát nhã chơn tâm. Nhờ định mà huệ được hoát khai, thông suốt mọi lý lẽ cao siêu mầu nhiệm của Đạo lý ẩn vi.
Việc siêng năng kiên trì bền chí học tập chắc chắn sẽ mang đến kết quả ít nhiều, còn được cao thăng hay không tùy căn trí mỗi người và Ơn Trên kiểm chứng mà thôi.
2. Thuyết. Thuyết là nói lên rõ ràng, diễn tả bằng lời nói những tư tưởng, ý nghĩ, lý luận của mình có được nhờ sự học hỏi cho người khác cùng biết. Trong tôn giáo thường gọi là thuyết minh giáo lý hay giảng đạo, thuyết đạo, thuyết pháp.
Nhân viên Cơ Quan nhất là các giáo sĩ đã được học nhiều về giáo lý, nghiên cứu nhiều triết thuyết về đạo lý, sắp xếp, hệ thống lại rồi trình bày rõ ràng qua những buổi thuyết minh giáo lý tại hội trường Cơ Quan, hay tại các Thánh thất, Thánh tịnh cho tha nhơn thính giả nghe, biết mà giác ngộ con đường tu hành, gắn bóvới đạo lý tầm ra chánh pháp, thoát khỏi luân hồi, trở lại quê xưa.
Đó chính là đường lối, mục đích của Cơ Quan:

“Đem đạo mầu công dụng mọi nơi
Cho người thông cảm cùng người
Dẹp tan sắc phái phục hồi tình thương.”

Thầy đã bảo tri và thuyết phải song hành, y hệt nhau, không sai biệt, bày vẽ đi đôi canh cải làm cho sai lạc chơn truyền hoặc Thánh ý mà chúng ta đã học nơi các Thánh giáo của Ơn Trên đã ban cho. Thí dụ hễ học và hiểu được thế nào là đạo công bình của Thánh, hạnh bác ái của Tiên và lòng từ bi của Phật thì phải diễn tả y như vậy, không được thêm bớt vẽ viên cho sai Thánh ý thì đắc tội.
Ơn Trên dạy thuyết trình viên phải giữ tác phong đạo hạnh thuần thành đạo đức, với vẻ mặt hiền hòa từ ái, lời nói phải nghiêm trang dịu dàng êm ái dễ thương để cảm hóa tha nhân thì chúng ta có hành y hay không?
Sang phần hành tức là thực hành, cụ thể hóa bằng hành động, việc làm, những điều mà Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý đã học, đã thuyết rồi, in khuôn, in rập rồi, giờ chúng ta hãy minh tra lại xem nào! Để tránh tiếng đời dị nghị rằng thuyết hành không đi đôi, có khi làm trái ngược, làm mất uy tín cá nhơn và của tập thể đạo đức Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý.
Thí dụ, chúng ta đã học được chữ thương yêu của Ơn Trên, cũng đã hiểu rành thế nào là sự thương yêu, chớ không phải lời nói thương yêu suông, thì khi bắt tay vào áp dụng sự thương yêu thì chúng ta không làm đúng theo lời dạy của Ơn Trên cũng như những lời thuyết minh của mình về sự thương yêu? Tại sao chúng ta thực hành chưa được. Vì chúng ta chưa mở hoát được cõi lòng từ ái của chính mình, chúng ta còn thương cái ta bản ngã của mình hơn người khác, chúng ta chưa quên mình được, còn biệt phân nhĩ ngã, ta người. Chúng ta chưa thật sự thấm nhập lời dạy của Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ về sự thương yêu, chúng ta không tin hay không sợ rằng “Kẻ nào ghét sự thương yêu thì không được gần Thầy”, hay lời răn của Thầy: “Nếu không đủ sức thương yêu, thì cũng chẳng đặng ghét nhau, nghe à!”
Thí dụ thứ hai, Ơn Trên dạy làm công quả để giải tiền nghiệp và trợ duyên cho phần công phu nhẹ bớt khảo đảo, chúng ta không trọn vẹn vâng lời. Học được hai chữ thương yêu, thuyết rất hùng hồn sự thương yêu, hô hào kêu gọi đồng đạo làm công quả như giúp thiên tai bão lụt, động đất, sóng thần, mà chúng ta ngần ngại cân nhắc đắn đo sợ hao tiền của. Đó là ba việc tri, thuyết và hành không đi cùng nhau một lượt như nhứt.
Chúng ta hãy thử mở mắt huệ nhìn xem để đo mức độ tu chứng sau bao năm tu học, hành đạo và công phu để nhìn coi cây Phổ Thông Giáo Lý đã trổ nụ, kết hoa chưa. Chúng ta hãy lấy ví dụ cây mai của mùa Xuân Ất Dậu vừa qua trồng trước sân nhà, đến ngày 29, 30 tháng Chạp trổ nụ đều chưa, hoa vàng đã nở đều chưa hay còn thưa thớt, để so sánh với cây hoa của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý mà cảm nhận cái lý siêu việt do Cơ Quan thực hành được ba điều: Tri, Thuyết, Hành như nhứt như lời Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ đã bảo   
 

 Trở lại Mục Lục