TRIẾT LÝ CAO ĐÀI ĐỐI VỚI
TRIẾT LÝ NHÂN SINH

Triết lý nhân sinh nhìn nhận con người là một hiện hữu, chấp nhận đời sống của con người là một thực tại sinh tồn. Triết lý nhân sinh tự vấn con người sống để làm gì? Đời sống con người có giá trị và có ý nghĩa gì không? Đời sống có đáng sống hay không? Tự giải thoát ra khỏi cuộc đời hay dấn thân vào cuộc đời, đó là hai thái độ căn bản của con người trước đời sống. Dầu muốn dầu không con người phải sống trong xã hội nhân quần, không thể sống tách biệt khỏi cộng đồng vốn dĩ có liên hệ mật thiết nhau. Mặc dầu trong xã hội có nhiều điều xấu, bất công và vô lý nhưng đã là một thành viên phải chấp nhận sự sống giữa các cá nhân trong cộng đồng xã hội liên hệ mật thiết nhau từ những lối ăn, mặc, ở, giao tế, di chuyển… Đã trót nhập cuộc vào đời, không thể sống riêng rẽ cô lập, thì tốt hơn hết ta mưu cầu hạnh phúc chung cho tập thể xã hội cộng đồng.
Đó là triết lý nhân sinh. Người Âu Châu cho rằng triết lý Cao Đài
đượm nhuần triết lý nhân sinh (humanisme).
Triết lý nhân sinh không đặt câu hỏi về nguồn gốc con người và cũng không thắc mắc về số phận con người sau khi chết sẽ ra sao như triết lý của các tôn giáo nói chung, của Cao Đài Giáo nói riêng.
1. Triết lý Cao Đài nhìn nhận nhơn loại là huynh đệ với nhau, con của một Đấng Cha chung Thượng Đế, là Đấng Tạo Hóa chúa tể càn khôn vạn loại. Triết lý Cao Đài không kỳ thị chủng tộc, màu da sắc tóc, tôn trọng mọi tín ngưỡng dị đồng tùy theo tập quán phong tục của các dân tộc. Nếu cởi áo lột trần ra, không kể màu sắc da vàng, da đen, da trắng thì tất cả con người đều giống nhau, dầu người Phi, người Âu, Mỹ, Úc, Á, cũng đầu mình tay chân, xương cốt huyết mạch y nhau. Khoa y học ngày nay đều nhìn nhận sức khỏe và bịnh tật các dân tộc đều không khác biệt, phương thức trị liệu cũng không khác nhau. Đó là chủ trương đại đồng huynh đệ của triết lý Cao Đài và tự do tín ngưỡng.
2. Triết lý Cao Đài nhìn nhận con người là điểm Linh quang của Thượng Đế, là Đại linh quang chiết xuống thế gian, tạm mượn thân xác con người một thời gian hữu hạn để học hỏi trui rèn hầu trở nên hàng siêu nhân thánh triết. Vì thế con người có hai phần thể xác và tâm linh liên hệ mật thiết với nhau không thể phế phần này, bỏ phần kia vì hai phần đều quan trọng cả. Nên triết lý Cao Đài không trọng hữu khinh vô hay trọng vô khinh hữu. Hữu vô đều tương trợ cho nhau Đạo mới thành.
3. Triết lý Cao Đài chủ trương bình hành tâm vật, tức con đường trung đạo không thiên về duy vật và cũng không nghiêng về duy tâm. Linh hồn và thể xác đều tương trợ nương níu lẫn nhau. Một thể xác bệnh hoạn yếu đuối sẽ làm cho linh hồn hay tinh thần con người suy nhược, không được minh mẫn sáng suốt để quyết định cuộc đời.
4. Người tu hành theo Cao Đài Giáo không bị bắt buộc ăn uống kham khổ, ép xác mà phải dưỡng nuôi thể xác bằng những vật thực nhẹ nhàng, thanh khiết dễ tiêu hóa nhưng không thiếu chất bổ dưỡng nơi rau cải, hoa quả, đậu khoai, không có huyết nhục của thú vật, thập trai lần lần đến trường trai. Luật đạo cấm tín đồ sát sanh vì lòng nhơn thương xót loài thú vật cũng biết rên siết đau đớn mỗi khi bị hành hạ, giết hại.
5. Triết lý Cao Đài dạy môn sanh học pháp dưỡng sinh thể dục để giữ cho thân thể được tráng kiện hầu tinh thần được mẫn huệ và cũng dạy môn sinh pháp môn công phu thiền định cũng là một phương pháp dưỡng sinh có hai tác dụng ích lợi cụ thể cho người tu hành trước tiên là con người được luôn luôn tươi nhuận khỏe mạnh ít bệnh hoạn nhờ luyện gân cốt huyết mạch điều hòa, thân tâm được an định, hai là tâm linh được mẫn huệ, sáng suốt, tánh tình được dịu dàng khả ái dễ cảm dễ thương đối với tha nhân.
6. Triết lý Cao Đài dạy môn sanh thực hành hạnh công bình đối với mọi người, mọi giới không phân biệt chủng tộc giàu nghèo, giai cấp và dạy mở lòng bác ái vị tha thương người. Triết lý Cao Đài vị nhân sanh, chớ không ích kỷ độc thiện chỉ biết lo riêng cho mình, cho gia đình hay dân tộc mình và chủ trương thành lập một thế giới đại đồng, một thiên đường tại thế cho nhân loại, với tôn chỉ bảo sanh, nhơn nghĩa, đại đồng, chớ không mơ ước một thế giới mông lung, tưởng tượng xa xăm. Đó là một triết lý nhân sinh có thể thực hiện được nếu con người phục hồi được nhân bản.
7. Triết lý Cao Đài dạy người tín đồ phải làm tròn bổn phận vi nhân, nhơn đạo thực hành xong mới sang phần Thiên đạo. Bổn phận vi nhân không phải chỉ biết có riêng mình được ấm no vui sướng với bao nhiêu khí lực cạnh tranh giành giựt của tha nhân, mà phải biết sống một đời sống nhân quần xã hội, có nghĩa có nhân, xây dựng điểm tô nên trật tự, có lễ, có trí, có tín, thì quyền pháp mới được sáng tỏ. Giúp đỡ người thua kém nghèo hèn, dìu dắt người sa cơ thất thế, tuy là việc nhỏ không bì với người xưa đã bỏ ngai vàng lìa cung ngọc, nhưng đó cũng là công đức ích lợi vị tha. Lúc no bụng nhớ kẻ đói ở quanh mình, khi lành lặn ấm áp nên nhìn người đói rách lang thang chia cơm sẻ áo, đó là hạnh bồ tát tại thế. Tuy việc nhỏ mà nên đạo, đừng chê nhỏ mà không làm. Nó nằm ở tầm tay và khả năng của mọi hàng tín hữu Cao Đài không phân biệt giàu nghèo giai cấp. Còn lợi danh lớn mà mang tiếng ác nhơn thất đức thì nên tránh xa.
Như thế triết lý Cao Đài không đi xa thực tế, đúng là một triết lý vị nhơn sanh mà thế giới tiến bộ ngày nay đang hướng về và thực hiện để nhơn loại tránh khỏi nạn chiến tranh thảm khốc, đem lại hòa bình hạnh phúc cho nhơn loại với các tổ chức nhơn đạo của Liên Hiệp Quốc và các nhà từ thiện tư nhân. Phải chăng đó là cơ tiến hóa của Thiên công, của nhơn tâm. Nhân loại sẽ chuyển lần đến một thế giới đại đồng huynh đệ để thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau cùng sống chung trong hòa bình hạnh phúc

Trở lại Mục Lục