CHỨC SẮC & CƠ ĐẠO TT. TÂY NINH Đàn Dậu Thời 16.08.Bính Dần 1926 TT.TÂY NINH Đây là Thiêng Mật Liệu, Mật Sử, Chơn Sử đã bị TT.Tây Ninh “Lấy Thúng úp Miệng Voi”. Thầy các con, Thầy mừng các con Thiên Mạng, mừng các con đàn trung. THI NGỌC Thầy BẠCH SẮC ửng màu trong, HOÀNG giáo huấn con được sửa lòng; THƯỢNG phẩm Diêu Đài Qui Hướng Bắc, ĐẾ lưu dẫn dắt hiệp Phương Đông. NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ, các con bình thân nghe Thầy dạy. Nầy con theo Thày , Thầy muốn sao con nào đều nhìn nhau một chủng tộc, một đồng bào, một xã tắc, một điểm linh. Ớ con thử nghĩ coi, con ôi ! xác phàm của con khác nào một ảnh bù nhìn kia. Rồi Thầy ban phú cho con một điểm tâm, sao vội quên đi. Còn tiếng nói con ôi ! không có quan hệ chi, bất dĩ là có võ đưa ra , đánh lên đỡ xuống là trong ba tấc hơi với ngoài tấc lưỡi đó thôi. Con nhìn kỹ lại coi trong bảy mươi hai thế giới nầy, con nhìn từ căn cây, côn trùng, thảo mộc, nó cũng rên than thiết thảm. Con ôi! Sao con đành lòng vậy con? Con ôi ! Chữ Tạo Hoá là gì? Còn Trời là ai? Với Thầy đây là chi? Con xem từ muôn loài vạn vật cho đến cỏ cây, Thầy hỏi con coi có vật chi ngoài vòng Trời chăng ? Thầy là ai con ? Khóc . . . Ai hoá sanh vạn vật con? Thầy là Chúa Tể đây con, khóc . . . THI Kỳ thời ân xá trẻ tường chưa? Khuyến thế dạy con mọi lẽ vừa; Tiếng ngọc khuyên đừng vong nghĩa cũ, Lời chớ vội bội tình xưa. Quanh năm nắng táp con càng mến, Mãn tháng mưa chan trẻ lại ưa; Tháng lại xuân qua kề cũng tới, Ngày qua hè lại cận gần trưa. Tịnh tâm nghe ớ con! TRƯỜNG THIÊN Mối sầu Thầy gở cho con, Cư trần khỏi hỗ nước non mới là. Một xã tắc màu da sắc tóc, Một chủng loài trách móc làm sao ; Bảy hai thế giới đồng bào, Vì danh bả lợi xạc xào do đâu? Mấy ai chen ngoài bầu cho được, Sự tồn vong biết trước được không? Riêng than cũng giọt máu hồng, Chiến tràng phấn đấu mà lòng nở tranh. Nhìn giọt nước long lanh đưa đẩy, Ngó vẫn xem đâu đấy diềm dà; Cơn sầu nuốt thảm dầm sa, Lệ tràn chan chứa chữ HOÀ lại CHIA. Anh với em phân lìa bao nỡ, Đệ cùng huynh muôn thuở thấy nhau; Cắt da thịt lệ thương đau, Độc đao tự tử lẽ nào vậy con? Mặt cách mặt lòng còn hoài vọng, Con lấn nhau phải động lòng Thầy; Động rừng vì bởi bứt mây, Căm hờn giết lẫn chẳng khuây tại lòng. Giọt nước còn chỗ trong chỗ đục, Là thuỷ triều chẳng chút phân chia; Cắt tay bao nỡ cắt lìa, Cột kèo ai nỡ phân chia bao giờ. Hồi con còn u ơ thơ dại, Tánh tự nhiên chưa phải nơi lòng; Một ngày con lớn Thầy mong, Không ngờ con trẻ nơi lòng đổi thay. Lớn khôn rồi binh bày bố trận, Gây chuyện ra cừu hận càng to; Sông sâu sào vắn khó dò, Lấy ngao lường biển muốn đo lòng Trời. Sợi mực thẳng thời đau dạ gỗ, Bằng tuỳ theo khuôn khổ sao nên; Đường xa nhờ có chí bền, Trì tâm mài sắt ắt nên kim vàng. Con lòng muốn Niết Bàn toại chí, Khuyên con đừng tự kỷ tự cao; Đường dài con muốn cho mau, Một ngày con phải lãng xao ngã lòng. Thầy dạy con dò trong lóng đục, Chớ nghe phàm mà giục vội tâm; Đạo Thầy diệu diệu thâm thâm, Đường ngay lẽ phải dẫu lầm cũng đi. Miễn con đừng sân si đối chọi, Con cũng đừng gây lỗi tội to; Nước ròng con chẳng có lo, Đến khi nước lớn co giò nhảy quanh. Thầy ân xá tranh danh đoạt lợi, Con nhắm Thầy ở đợi hoài sao? Hiểu rằng có Luật Thiên Tào, Biết rằng con chẳng ghé vào mắt chi. Là cái tội nầy đây hạng nhứt, Nhắc chừng nào ái truất lòng Thầy; Nhớ con dạ ngọc chẳng khuây, Mà lời con nguyện với Thầy con quên. Ngày dạy dỗ hư nên với trẻ, Đêm nhũ khuyên cặn kẽ từ lời; Sao mà con nỡ dạ lơi, Can tràng đoạn thảm rối bời vò tơ. Đây sẵn có thần cơ nương điển, Tỏ trần cùng những chuyện thiệt hư; Xin Toà Tam Giáo phước dư, Phê theo chiếu chỉ đôi mươi năm chầy. Các con khi chẳng hay chẳng biết, Mãn thời kỳ con tiếc với Thầy; Đây con Thầy đã cho hay, Mười hai năm Đạo Cơ Thầy gần QUI. Đạo không thành tiên tri phải hoại, Đạo không thành cái sái bởi con; Thời gian con tính không tròn, Lẽ đâu ân xá mãi còn hoài sao? Đôi mươi năm là cao lắm cả, Đây đến chừ còn ngã ba đường; Dầu cho Thầy mến con thương, Con ôi ! ngày ấy Tống Đường xẻ chia. Một đàn nay dầu khuya đến nỗi, Trọn điển quang gốc cội cạn phân; Nhìn con đứa Sở đứa Tần, Con ôi ! gà chạy đâu bằng chim bay. Khuyên con đừng có khuây nơi dạ, Rán mà lo Đạo cả vuông tròn; Công thành danh toại bảng son’ Quên lời Thầy dạy thì con vô phần. Rẽ cơ bút không vâng lịnh tứ, Mãn mơ hồ ghép chữ vô tư; Con nghe Thầy dạy bấy chừ, Chủ quyền tà mỵ hại hư danh phần. LÝ con muốn nên thân hình thể, Chữ chìu lòn con nệ chi thân; Bông thơm chẳng nệ chuyên cần, Đến ngày tuy ở ngoài sân người tìm. Con hạ mình phương châm cao thượng, Hễ người tôn Thầy thưởng đó con; Tự cao thì trẻ không tròn, Hồi đầu ai cũng loại con của Thầy. Nghịch lòng nhau Thầy đây thiết thảm, Thường khuyên con lãnh đạm hảy đừng; Thiện tâm con trẻ phải tuân, Đàn nay con trẻ đồng vâng theo Thầy. Ngày tháng nầy nơi đây Thầy dạy, Rồi xoay vần trở lại chỗ kia; Vui buồn con trẻ đồng chia, Sao cho tạng vẻ danh bia tiếng đồn. Thầy dạy con từ tôn chỉ Đạo, Mãn thời kỳ huấn giáo cậy ai; Hởi con tiếng vắn lời dài, Trường thiên Thầy để một bài tiên tri. Mãn ân xá hết kỳ đơn chiếu, Rồi không Thầy dạy biểu con thơ; Thương ôi ! cõi tục bơ vơ, Xác phàm đã thác dật dờ điểm linh. Bởi trước kia đức tin con mất, Nhằm thời kỳ lẽ thật chẳng tin; Rồi đây con gặp nghiêng chinh, Phong Đô Thầy bế, Ngọc Kinh luật hành. Hiệp tâm đầu hy sanh với Đạo, Rồi muôn n m thuận thảo bình hoà; Cung Tiên trẻ đặng nguy nga, Nhứt hô bá ứng con cha đặng gần. Muốn giáo hoá đằng vân giá võ, Có đâu mà khó khổ như vầy; Lời khuyên với trẻ đừng khuây, Mọi điều con trẻ nghe Thầy thì nên. |