2.X7/2. SẮC CHỈ Linh thiên Quang Ngọ.T. 14.4. K. Mão 1939. THI KHƯƠNG Thừa Sắc Chỉ Ngọc Hư Cung, THÁI thọ truyền ban lại Cữu Trùng; CÔNG phẩm Bát Đồ KHAI ĐẠI HỘI, BÁO tin sau trước khá vâng tùng. Khương Thái Công báo tin, Lão chào chư Thiên Mạng, mừng các em phận sự Hiệp Thiên Đài, khá để tâm thanh tịnh nghe Sắc Chỉ của Đức Huyền Khung Cao Thượng Đế. SẮC CHỈ: NGọC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ CHUYỂN ĐẠI HỘI LINH THIÊN QUANG Thầy các con, “Giờ nay Thầy sắc lịnh các con hay rằng: Ngày mùng Một tháng “Năm sẽ có Đại Hội. Từ ngày định Hội cho tới ngày bãi Hội là “ngày mùng Bảy. Vậy các con hãy sắp đặt nội ngoại hoàn tất để “Thầy khai ’Đại Hội qui cả nhân sanh về chào Ngôi Linh Thiên “Quang tạo lập. BÀI “Thầy sắc lịnh định ngày Đại Hội, “Chuyển các con Hiệp lại Nơi Đây; “ Vậy con vâng thửa mạng Thầy, “Sửa sang tô điểm Hội nầy khuông viên. “Thầy nhìn cảnh Hà Tiên đơn chiếc, “Chỉ nhờ con chí quyết giúp Thầy; “ Là, Tồn, Thạnh, Tố, Điền, Nhi, “Mẫn, Thông, Phát, Kỷ lương y của Thầy. “Nay đã gần cận ngày Đại Hội, “Chuyển Đại Đồng Hiệp lại Thiên Quang; “ Vậy con sắp đặt hoàn toàn, “Lo cho kỳ Hội vẻ vang mới mầu.” SẮC LỊNH: “Đòi: Đạo Quang, Ngọc Thiệu, tri, Bích, Hổ, Thành, Ngô, Lắm,Năng, “Thiệt, Kế, Lài, Phòng, Phùng, Thuần, Ngọc, Ký, Vựa, Hoằng, Giảng, Đài, “Nghi, Đa. Phận Sự NỮ PHÁI : “Nhiến, Phụng, Lài, Thị, Chí, Bùi, Mười, Mùi Phận Sự TIỀN GIANG : “Lịch, Thơi, Điều, Hai ở Minh Kiến Đàn. “Tất cả phận sự trên đây ngày 25.4 nầy phải có mặt ở Đồ Thiên hầu lịnh. “Sau nữa Kỳ Hội nầy các con Chủ Thánh Thất vá các con chức sắc Nam Nữ “nghe Thầy dạy. Điền bạch . . . “Nay sắc lịnh:Tất cả phận sự đòi đây Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài “phải có mặt ngày 25 hầu lịnh.” Lão giáng giờ nay để tỏ chư Thiên Mạng được tường. Hôm ngày đàn Tý mùng Hai Thầy có giáng tại Huyền Diệu Cảnh định Đại Hội Bảy Ngay ở Bát Quái Đồ Thiên. Nơi đó đã có tuyên bố rồi. Còn nơi đây hiền phải có giấy tờ tuyên bố cho các Chi Phái và các Thánh Tịnh ờ miền Hậu Giang hay.Việc tuyên bố chư hiền hảy cần kíp, néu trễ cơ quan dời đổi rồi thành ra công chuyện tạo tác phải lở dở. Vậy chư hiền lưu ý, ở đời việc chi muốn cho thành đạt thì phải lắm công cực nhọc mới có đoạt thành. Có đọc sách chong đèn mới có nên người quân tử. Công việc có gấp rùt mới có mau rồi.Chư hiền khá an tâm lo cho kỳ Hội đặng vẻ vang sau trước thì công lao chư hiền sau nầy Lão sẽ ban thưởng. THI Đạo là cội phúc của linh hồn, Có học sau nầy mới có khôn; Công quả siêng giồi sau hưởng trọn, Ngày thành Bát Quái tiếng bia đồn. Giờ nay Lão lắm công chuyện nơi Tam Giáo Toà, vậy chư hiền khá chuyên chú tán thành trong kỳ Hội. Lão rất hân hạnh, cuộc tạo tác đến đâu Lão sẻ chỉ đến đó. Chẳng nên kiếm hiểu trước, bởi Cơ Quan của Thái Thượng rất sâu xa kín đáo, đối với Lão cũng không sao hiểu thấu. Ban ơn chư hiền, Lão xin kiều. THĂNG./. Tý T.26.6.Kỷ Mão 1939 THI Tường vân BẠCH sắc lộ hào quang, Dựa cảnh TIÊN HƯƠNG trải khắp ngàn; Nương tiếp TỬ liên phò giá Ngọc, Trưởng Tiên SĨ Đạo Hội Liên hoàn. Bạch Tiên Hương Tử Sĩ, Tiểu Thánh chào chư Thiên Mạng , chư hiền đàn trung khá thành tâm tiếp nghinh Long Giá. Tiểu Thanh xuất cơ. Tiếp Điển) THI NGỌC lành THẦY gởi cảnh Tô Châu, HOÀNG lịnh CHUYỂN ban mối Đạo Cao; THƯỢNG Trí ĐẠI công hành chánh giáo, ĐẾ tâm HỘI hiệp lập cơ mầu. GIÁNG trần TAM Giáo y nguyên luật, BÁT Nhã GIANG Tam chiếu sắc thâu; CẢNH thế PHỤC bình noi Quốc Đạo, ĐỒ Thiên LỊNH sắc đã tứ lâu. NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ GIÁNG BÁT CẢNH ĐỒ THẦY CHUYỂN ĐẠI HỘI TAM GIANG PHỤC LỊNH Thầy mừng các con, Thiệu, Thãnh, Tài, Lịch cùng các con. Hôm nay Thầy giáng đàn cốt yếu phân tường cơ thể Bát Quái Đồ Thiên. Thầy cho lịnh Nữ Phái nhập đàn, các con nghe Từ Phụ dặn (Đàn HoạBông Đồ) . . . Theo lời thầy dạy các con suy nghĩ mà hành chớ cho rằng không rõ rết. Trong ấy bề cao Linh Thiên Quang chín thước Ngôi CÀN. Ngoi KHÔN tám thước. Còn mấy Ngôi kia bảy thước, nhà nhà thì sáu thước, các con ghi lòng. Còn đường bao quanh bề ngang năm thước, coi lại Bông Đồ Thái Thượng hoạ ra mỗi khoảng là một thước. Đây Thầy dạy về Ba Chiêu . . . 4. X7/4: * ĐẠI ĐẠO THÁNH HUẤN KHẢI GIÁO · BÍ PHÁP ĐẠI THỪA VV TÂM PHÁP SIÊU HÌNH THƯỢNG HỌC. 1. Ngoài gợn sóng bễ dâu lấp loáng, Trong Địa Linh hoài cảm gió đưa; Tô Châu liên cảnh cũng, Mấy năm mở Đạo Thượng Thừa dầy công Thầy Bạch Ngọc chạnh lòng trần thế, Thương đoàn con nhậm lẹ đạo tâm; Nam Việt nhằm buổi tao tân, Sanh linh đồ tán muôn phần thiết tha. Lòng từ bi hãi hà đọ trẻ, Chốn Ngọc Kinh chẳng lẽ ngồi an; Sắp bày Đạo Pháp truyền ban, Xây Cơ Tấn Goá thé gian Cộng Hoà. Mười mấy Thu chan hoà lệ đổ, Cũng vì con chia cữa chia nhà; Hại thay Chủ Nghĩa Quốc Gia, Giống dòng sao lại xong pha chiến trường. Cảnh trần luỵ du dương nạn khổ, Mối chơn truyền Phổ Độ chưa xong; Con ôi! Biết lửa hồng, Kỳ Ba vận cuộc mặn nồng là bao. Sanh người trong tường cao trấn thủ, Đứng thân trai tự thủ liên đoàn; Cảnh đời khổ khắc buộc ràng, Thôi con nắm lấy từ thoàn hồi nguyên. Cơ QUI NHỨT Chơn Truyền Đại Đạo, Lý mầu vi Thánh Giáo rải gieo; Con oi! Hướng Đạo tuỳ dèo, Hầu làm phận sự bước theo chân Già. Con còn ở Giới Ba tranh lấn (Tam Cảnh Giới), Mà thân Thầy không đặng an nơi; Đem điển quang rọi khắp Trời, Nấu nung gan óc dạy lời thuần phong. Ngọn đèn soi Tây Đông chơn lý, Đuốc quang minh choếu kỷ sơn hà; Non kỳ phụng gáy đôi ba, Điềm lành Nam Việt an hoà biên cương. Thầy Chúa Tể Khai Đường Phổ Giáo, Lịnh Chí Tôn đào tạo nguyên căn; Đem gương Quốc Đạo hoá hoằng, Dẹp đàng mùi ảnh, xa lằng lợi danh. Con đã đứng tài danh hướng Đạo, Luật lệ tua hoài bảo Dân Nam; Hồng trần bào ảnh dã tràng, Bao nhiêu cộng nghiệp có làm chi đây? Thầy mong mõi con Thầy hội nghị, Cha hằng trông thế kỷ thái bình; Con oi! Kìa cuộc lửa binh, Sanh trường hổn loạn muôn ngàn đau thương. Đó là phưng 7 chia đường chũng tộc, Kẻ ác tâm bốc lột bị hành; Thầy thâu Nguyên Thỉ dĩ danh, Cho con hiểu ngỏ đướng lành lập công. Chốn Hậu Cảnh tinh thông nền Đạo, Cơ Tiền Trung huần tạo rõ đường; Thầy thảm dân trí lập bương,. Cái nền QUỐC ĐẠO dẫn đưòng lẽ Chơn. Noi cổ Luật tinh thần phát triễn, Thì chưa y ngọc Điệp chiếu soi; Bởi Thầy rõ biết tình đời, Còn ham chia ngõ, chia người, chia ta. Lại còn phân chữ HOÀ chữ HIỆP, Thầy tuỳ Cơ khảo tiếp rã rời; Mười hai Chi Phái khắp nơi, Để thấu nguyện vọng con thời học tu. Trẻ chẳng rõ từ từ hạnh thiện, Con lại cho tầm kiếm chi hoài; Oâi thôi nhìn lại trần ai, Mấy năm mới vẹn mấy ngày mới xong.? Thầy vẫn biết nhiều công tạo chuyển, Nhưng con thơ chưa biện chứng ra; Thảm thay một chỗ chẳng HOÀ, Rã rời huynh đệ cửa nhà chia phân Một gia đình Tấn Tần sôi nổi, Xã hội kia thêm nỗi úa xào; Đứng trong làng Đạo bao quanh, Đây lơ đó lãng con nào cũng riêng. Thuyền chở nặng không cầm yên tỉnh, Lại tầm phương cải chính trận giông; Thì ra chiếc bách bềnh bồng, Gió mà xảy đến chinh chong khó dời. Thầy lập sưa cảnh đời cùng khổ, Bởi nhơn tâm trắc trở nhiều bề; Cảnh tu còn chán còn chê, Con nào cũng muốn danh đề bảng son. Mà tréi con còn lòn dưới bóng, Bóng huyền quang dù lộng đeo đai; Đời cũng muốn, Đạo cũng hay, Hai tay lượm khá, chim bay lạc rừng. Con xem kìa nước dưng ròng lớn, Đạo Thầy rao lọc bợn lóng bùn; Chừng nào trọng thế mây phun, Tấm gương dũng mảnh khí hùng trung cang. Đem nghĩa vụ chiếu đàng phong hoá, Lấy trrí ngoan sũa đổi trần mê; Độ người lạc, dắt kẻ quê, Non sông vũ tru người về NHẤT TÔNG. Đã mấy năm dựng trồng BÁT QUÁI, Thầy tuỳ theo thời đại Đạo Tràng; Con ôi! Kìa cảnh rừng hoang, Rừng hoang Thánh Địa kẻ phàm khó lo. Thầy tạo Bát nhã Đò gây trở, Đặng con thơ lớn nhỏ lập công; Thầy muốn truyền Đạo phổ thông, Phải vay món nợ cay nồng khắp nơi. Thảm chăng con trên Trời ngọc Khuyết, Thầy Toà Chương lẫm liệt oai nghi; Vì con hạ giới sầu bi, Nên lập cơ thể huyền vi nhà thờ. Ngọn cờ chiều phất phơ trấn thủ, Giữ huyền linh cột trụ Nam Thành; Động cơ Đời Đạo kinh danh, Biết bao quan lại kỉnh thành ngày sau. Nhưng vì Cơ linh mầu chuyển vận, Mới nảy sanh thù hận các con; Thì ra Tổ Miếu vẫn còn, Minh mông Thánh địa không hoàn thành chi. Thầy cảm động thương vì con trẻ, Biết làm sao nhậm lẹ chóng thành; Thầy liền hội đủ Tam Thanh, Chiếu phê luật lệ hội thành cho mau. Lấy tinh thần anh hào chí sĩ, Cho ngưon thần nữ sĩ hợp chung; Thất nhựt hợp đủ thư hùng, Tiền Giang, Trung, Hậu tôn sùng Đồ Thiên. Đem trí luật tuyên truyền chung cả, Lấy tinh ba hối hả gầy nên; Sửa Thánh Địa, tạo khuôn nền, Xây Tam Đài vững tiếng rền Hà Tiên. Ngày chẳng đợi năm liền nháy mắt, Tháng ngày qua lẹ chớp tên băng; Con oi^! Nam nữ oại oằn, Toan xong nghĩa cả dựng tuồng Đồ Thiên. Thiệu, con ôi! Mối giềng Hậu Cảnh, Đứng hùng anh ra lãnh mạng Trời; Tuỳ theo cờ thế con ơi, Phổ thông chơn lý cho đời tỉnh mê. Cảnh Bát Quái chưa tề tựu đặng, Thiên mạng lo lẽ hẳn ngồi an; Thầy đây thổn thức canh vàng, Chuyển di nhơn sự đặng là chóng mau. Vậy Thiệu, con đặng lịnh thi hành rồi con hồi gia chăng? Thiệu bạch . . . Vậy con lo rồi lai đáo Bát Quái Đồ Thiên đặng hiệp tinh thần Thiên Mạng mà lo Đại Hội cho Thầy. Thầy miễn lễ. . . (Tiếp BÀI) Thạnh, công quả từ lâu Hậu cảnh, Con thơ ôi! Đã rảnh việc đời; Kíp toan vung đắp Cơ Trời, Qui trong nhơn sự độ đời về Nguyên. Thầy sắc mạng qui nguyên đạo hữu, Thất nhựt ngày tề tựu nơi đây; Con rán nghe thữa lịnh Thầy, Việc chi cũng quyết lo gầy nội dung. Đạo Quang con, thuỷ chung với Chúa, Cha Ngọc Kinh luỵ ứa với con; Cảnh đời con phải chìu lòn, Bao giờ mới đặng tinh bòn điển quang. Sẳn ngôi baú sẳn thoàn Bát Nhã, Sẳn trung thần lắp lánh trung gian; Con ôi! Kìa cuộc dinh hoàn, Biết lo giải thoát lẹ làng đáng khen. Lich con ôi!, ngọn đèn chơn lý, Thầy đem soi thế kỷ bao tâm; Nhơn sanh khổ đói chia phân, Con lo lập chí dìu đàn hậu lai. Đề mục ấy Cao Đài phê chuẩn, Đại Đồng rán nắm đệ huynh; Con ôi! Tưởng lại huyên linh, Ngọc Hoàng chẳng hổ thế tình nhơn sanh. Tài, Nghĩa, ra thật hành chơn pháp, Hậu, Triệu, đòi trở lại Hà Tiên; Sổ sách phân biệt mối giềng, Gắng ghi nghe trẻ lòng thiền Thầy hay. Vậy con Tài! Thầy đã ra lịnh cho con biết trước, chi chi cũng gởi gắm cho con nghe con. Con rán điều đình và sắp đặt công việc nhắc nhở mấy em con lo công việc đêm ngày. Còn Phụng, có Thầy, thể hàh lịnh Thầy trong mấy ngày đặng chăng con? Tài bạch . . . Nhưng Thầy cậy con làm việc thì hết chớ sao con. Con rán tin thơ cho trẻ đến rồi có đàn Thầy bố hoá cho. |