NHỰT KÝ TÂM THƠ Ghi lại cuộc hành trinh đầy gian khổ của “Thất Tinh” Thành Thinh Phùng Tuất Lưỡng Kim Quang & Hai Vị Ngọc Phước, Từ Hàn Thủ Bổn Chủ Ghe. * ĐĐL xin trích đăng làm chứng tích móc lịch sử không gian và thời gian giúp trình chiếu lại trung thực thiên khúc phim dĩ vãng với đầy đủ nhân sự và hoàn cảnh được Ơn Trên dàn dựng đóng vai thủ diễn theo Thiên lịnh giúp Toàn Đạo mục kích đầy đủ dữ liệu để dễ hình dung và cảm nhận lại bối cảnh lúc diễn ra: Tâm Thơ Tả Cuộc Hành Trình trực Chỉ Hà Tiên. Thế kỷ hai mươi lắm nhộn nhàng, Thất Tinh chiếu mạng sắc Trời ban; Sang miền Hà Bắc dìu sanh chúng, Độ tận chủng loài mới phỉ gan. THI NGŨ NGÔN Ngã Thất Tinh chiếu mạng, Vâng sắc Đạo Hà Giang; Đồng hầu nghinh Thánh lịnh, Diệt tận lũ cường gian. Dậu thời mười chín tháng Giêng (Dậu T.19.1.A.Hợi Nhằm năm Ất Hợi lịnh truyền Hà Giang. 1935) Cùng là Ngọc Phước Lưỡng Ban thi hành. Thất Tinh chiếu mạng đành rành, Nhẫn Hoà là bến thi hành Cơ Quan. Đồng tâm quì giữa Thiên Bàn, Bái cầu Từ Phụ lên đàn Xiển Chơn. Đức Mẹ lịnh phán nguồn cơn, Bảy con ẩm thuỷ keo sơn một lòng. Dầu mà khổ não long đong, Em sau anh trước một lòng so vai. Đường đi non nước dậm dài, Tạm nơi Rạch Gốc chờ ngày lịnh ban. Đến nhà Thủ Bổn nghỉ an, Hai chị tiếp rước một đàng hoan nghinh. Bảy ngày tịnh dưỡng điều đình, Đáng khen hai chị thật tình Đạo tâm. Lóng nghe hai chị luận bàn, Anh em Đạo đến bằng cằm bạc muôn. Không chi dọn đãi rất buồn, Nếu mà lơ lảng thẹn thuồng liệu sao.? Hai chị bàn luận âm hao, Bày ra làm bún dọn vào mấy mâm. Kính mời cùng cả Đạo tâm, Xin dùng lấy thảo đợi năm anh về. Anh em nghe nói mọi bề, Bèn lên thọ hưởng chẳng hề từ nan. Hưởng rồi các việc đàng hoàng, Lại thêm la sát chuối đàng cùng dưa. Rạng ngày hăm bảy đúng trưa, (27.1.A.Hợi 1935) Đồng trông Thủ Bổn sao chưa thấy về. Anh em buồn bã ủ ê, Rạng ngày hăm tám xinh xuê ảnh vào. Anh em bày tỏ âm hao, Bén đem Thánh Chỉ Công Tào sắc ban. Phân qua các việc đàng hoàng, Anh bèn sữa soạn chiếc thoàn đặng đưa. Hai tám giờ Ngọ đúng trưa, Đa4i trà đãi mứt khuya đưa lên đàng. THI Dặn rằng chư đệ khá chung lo, Diệu bút Cơ Tiên khá kiếm dò; Một kiếp muối dưa muôn kiếp hưởng, Trở vế ngôi vị sẵn thuyền đò. Y lời Thánh Chỉ Đông Phương, Với thuyền ba sáu thước trường chẳng sai. Anh em bàn luận an bày, Thành tâm cầu ĐỨC Cao Đài hỏi han. Đông Phương Giáo Chủ lâm Đàn, Dạy rằng hừng nhựt dời thoàn Linh Châu.(29.1.A.Hợi) Từ Hàn Thủ Bổn hai ông, Lịnh phê sắc chỉ cũng đồng để chơn. Chín tâm tỏ nỗi nguồn cơn. Trương buồm chơn lý, khảy đờn giác mê. Trông chừng lướt dậm đường đê, Mắt nhìn non nước tay đề tâm thơ. Giữa vời nào thấy bến bờ, Nhắm coi ngọn gió phất cờ lần theo. Đường đi xuống biển lên đèo, Cũng vì đồng loại hiểm nghèo phải cam. Dốc lòng vun đắp Đạo Nam, Ra tay cứu chúng thân phàm sá chi. Nguyện cùng Thượng Phụ Từ Bi, Độ toàn nhơn loại viễn ly ngục hình. Độ con trong buổi hành trình, Cùng là bửu quyến gia đình bình an. Chín con chèo Bát Nhã Thoàn, Vớt người bể khổ Thiên Đàng được lên. Nguyện cùng Thượng Phụ Ơn Trên, Độ cho con trẻ vững bền đức tin. Cảnh trần khổ não gập ghềnh, Làm cho các trẻ thân hình héo von. Lâu ngày chơn tánh hao mòn, Nếu không gặp Đạo phai mòn điểm Linh. Ơn Thầy phế ngự Ngoc Kinh, Giáng trần lập Đạo hết mình cùng con. Độ từ góc biển đầu non, Hoàn cầu thế giới chẳng còn sót ai. Độ toàn già trẻ gái trai, Phật tiên Thần Thánh chẳng nài công phu. Các con nay rõ đường tu, Hiểu rằng trần thế ngục tù gian truân. Nhớ lại nước mắt không ngừng, Nhìn xem biển cả lẫy lừng sóng đưa. Hai chín giờ Ngọ đúng trưa, Thấy Hòn Sơn Rái mới vừa lộ ra. Nhìn xem phong cảnh Bắc Hà, Chập chồng chớn chở thật là rất vui. Thuyền đương lướt sóng chạy xuôi, Bỗng đâu Thủ Bổn lui cui sữa lèo. Than rằng mấy cụm cheo leo ! Mây nầy thật rõ gió vèo thổi Nam. Cơ Trời định vậy phải cam, Không xong ngọn gió biết đàm luận sao! Bỗng đâu ngọn gió thổi vào, Buồm loan thẳng cánh ồn ào chạy lên. Thấy Hòn Tre ở một bên, Hòn Rùa ở kế phía trên dựa kề. Nhìn xem non nước ê hề, Riu riu gió thổi tư bề mênh mông. Mặt Trời gần lặng dọi hồng, Than rằng vì nghĩa ĐẠI ĐỒNG phải cam. Nữa đêm ngọn gió thổi Nam, Âm thầm sóng bủa nó làm thấy kinh. Thuyền còn giữa biển linh đinh, Nhồi lên hụp xuống ướt mình hết trơn. Vái cùng Từ Phụ ban ơn, Độ con cho khỏi qua cơn hiểm nghèo. Buồm đương lướt gió thẳng lèo, Thừ Hàn Thủ Bổn tra chèo mở dây. Việc chi miệng cũng niệm Thầy, Ban ơn nhỏ phước cho bầy trẻ thơ. Gió Nam thổi ngót một giờ, Kế gà vội gáy thấy bờ Hòn Tre. Nước mặn ngời chiếu xanh lè, Thấy cặp cá lớn kè kè lội theo. Tối Trời chẳng biết cá heo, Hay là cá mú, cá mèo cá chi. Nổi đầu khỏi nước đương đi, Hai cặp con mắt vậy thì đỏ ao. Coi vậy mà chẳng có sao, Trông cho có bến ghé vào nghỉ ngơi. Phút đâu vừa rạng chân Trời, Rạch Kè tới bến vậy thời bỏ neo. Sáng ngày thuyền thả một lèo, Bèn dòm ngó thấy một đèo non cao. Anh em bàn lận ghé vào, Viếng chùa lạy Phật lẽ nào biện phân. Mình là lãnh sắc Thiên ân, Phải lo phổ độ nguyên nhân tu hành. Anh em bàn tính đành rành, Thuyền đi vừa đến mé gành Chùa Hang. Anh em mặc áo trang hoàng, Ghe vừa đậu đén đồng đàng bước lên. Chực nhìn non đảnh phía trên, Chập chồng cây đá như đền cảnh Tiên. Phía dưới có một Chùa Thuyền, Hiệu là Giác Hải môn tiền đề y. Vào chùa chẳng thấy trụ trì, Có ba cô vải vậy thì hỏi han. Ba cô đáp lễ rõ ràng, Rằng Ông Kiết Lão lên đàng Sóc Trăng. Ba cô mừng rỡ lăng xăng, Hỏi thăm quí cậu vậy rằng đi đâu? Chúng tôi thuật lại đuôi đầu, Rằng đi truyền bá Đạo mầu Trời khai. Chúng tôi là Đạo Cao Đài, Bèn vâng Thánh Chỉ phô bày độ nhân. Dốc lòng tìm đến lâm sơn, Dắt dìu chủng loại qua cơn khổ nàn. Nói rồi đồng đến Phật Bàn, Cuối đầu đãnh lễ hai hàng rất nghiêm. Ngó lên thấy bốn Phật Xiêm, Từ bi ngồi đó, im lìm bước ra. Ngó lên tấm vách thờ Bà, Có đề thi phú thật là rất hay. Mau tay hoạ lại đôi bài, Để làm kỷ niệm chiêu tài nguyên nhân. Vậy có ( THI )rằng : Vâng lời Từ Phụ đáo thiền môn, Chiếu sắc Đông Phương tỏ quốc hồn; Hỡi trí nguyên nhân còn ẩn dật, Muốn tầm rõ ngọc đến non Côn. (Tiếp Thơ) Đề thơ rồi lại dời chơn, Đồng đàng tách dậm ân cần đến nơi. Hòn Chong tạm nghỉ vậy thời, Mở Cơ Phổ Độ vậy thời hỏi thăm. Phân rằng Đạo mở chín năm Tam Kỳ Thầy dạy phải tầm độ nhơn. Thần minh giáng chỉ đăng sơn, Dời lên đảnh thượng đăng sơn khổ nàn. Anh em chuẩn bị lập đàn, Thần Phan Thanh Giản vội vàng giáng lâm. Phân rành Cơ Đạo chí tầm, Đêm ngày ký ngụ rừng trầm Linh Sơn. Màn Trời chiếu đất nhờ ơn, Pháp sư còn bịnh lắm cơn khổ nàn. Mình thời sưng vẩy chẳng than, Chung tâm hiệp trí một đàng phổ thông. Mở mang cho cảnh Hòn Chong, Khiến nên Đời Đạo chẳng đồng lương tâm. Thần Tiên Cơ Lý diệu thâm, Tiên tri phải lánh kẻo lầm kế ma. Chúng tôi nghiệp chướng dần dà, Khiến nên khảo đảo vậy mà phải cam. Cũng là một gốc người Nam, Không thương đồng loại vì ham tước quyền. Mười giờ sai lính bắt liền, Đến nơi nhà Quận lịnh truyền khảo tra. Anh em buồn bả xót xa, Định thần đôi phút phân qua Đạo Trời. Chúng tôi phân nói dứt lời, Đạp bàn xô ghé vậy thời làm hung. Thành rằng Ngài chẳng có dung, Bất dĩ trở lại ai dùng cạnh tranh. Kế đó Ngài hỏi Ông Thành, Tại sao vi pháp phân rành ta nghe. Bẩm Ngài mới đến không dè, Hỏi thăm quan Quận Rạch Kè dạo chơi. Ông Thành thưa bẩm dứt lời, Quan Quận bèn hỏi Đạo Trời ra sao? Các chú người ở phương nào? Không tuân luật pháp dám vào nghinh ngang. Chúng tôi xin bẩm mọi đàng, Rằng vưng Thánh Chỉ Ngọc Hoàng, Đạo khai. Tá danh hai chữ Cao Đài, Giáng miền Nam Thiệm cứu rày nhơn sanh. Dạy cho cải dữ về lành, Tránh cơn nguy hiểm giựt giành lẫn nhau. Dạy cho biết tưởng đồng bào, Biết trung, biết hiếu thấp cao cũng đồng. Dạy cho biết giống Lạc Hồng, Biết đường tội phước Thiên Đường tầm lên. Biết rằng ơn Chúa đáp đền, Ơn Cha lo trả lập nền Đạo chơn. Chỗ nầy là chỗ lâm sơn, Chẳng hay Đạo mở cứu cơn khổ nàn. Chúng tôi vâng lịnh Trời ban, Bèn đi truyền Đạo Hà Giang độ người. Quan Quận nghe nói miệng cười, Tưởng rằng mấy chú là người cường gian. Ở đây dân sự bình an, Sợ e mấy chú làm đàng loạn ly. Nói rồi bèn lấy viết ghi, Hỏi thăm mấy chú vậy thì ở đâu. Chúng tôi thuật hết đuôi đầu, Bèn đưa giấy thuế ngõ hầu Ngài xem. Hỏi thăm đi mấy anh em, Bẩm rằng chín đứa Ngài xem thì tường. Xin Ngài mở rộng lòng thương, Chúng tôi vốn thiệt hiền lương tu hành. Xong rồi các việc đành rành, Mừng thầm Thầy chuyển Thinh Thành rất may. Đáng người chức sắc Cao Đài, Đáng trang tuấn kiệt anh tài Hậu Giang. Gặp cơn đương lúc nguy nàn, Sóng dồi gió dập gan vàng chẳng phai. Đội đầu hai chữ Cao Đài, Xong tên lướt đạn phô bày độ nhơn. Cũng nhờ Từ Phụ ban ơn, Phật Tiên Thần Thánh cứu cơn nguy nàn. Dốc lòng độ khách Hà Giang, Dầu cho thịt nát xương tan cam đành. Xong rồi các việc đành rành, Anh em trở lại thi hành Hà Tiên. Khiến nên khảo đảo truân chuyên, Anh em bàn luận cầu Tiên hỏi tường. Đoạn sầu ngàn thảm trăm đường, Kể sao cho xiết đoạn trường hỡi ai! Minh mông nhiều chuyện rộng dài, Thâu nhận tóm tắt một bài luận sơ. Sơ lục Nhị ngoạt Tý thời (Tý T.6.2.A.Hợi) Lập đàn cầu hỏi bến bờ hiểu thông. Đồng nhau để dạ không không, Nguyện cầu cho cả Đại Đồng nhơn sanh. Soái Tiên hạ bút phân rânh rành, Dương cung bắn nhạn, nhạn đành lìa xa. Cơ Tiên diệu bút nói xa, Anh em bàn luận giải ra thêm buồn. Nhìn nhau nước mắt lệ tuôn, Dằn lòng khuyên bạn giả tuồng làm khuây. Anh em thề nguyện chung vầy, Ngày nay lẽ bạn nhạn bầy lìa xa. Minh mông sơn hải ngân hà, Chực nhìn nhớ lại mẹ già thâm bâu. Lại thêm vợ yếu thảm sầu, Con thơ chiu chít cha đâu chẳng tường. Anh em nhăc đến ngùi thương, Bàn lui tính tới trở bương quê nhà. Nhìn nhau nước mắt chan hoà, Khác nào cốt nhục ruột rà thịt xương. Anh em bàn tính đi bương, Chia tay từ giả theo đường đưa chơn. Nguyện Thầy cùng Mẹ ban ơn, Độ cho các trẻ qua cơn tai nàn. Nữa đêm chơn bước xuống thoàn, Trương buồm chỉ dặm băng ngàn tới nơi. Rạch Giá vừa đúng Ngọ thời, Bao xe đưa suốt tới nơi quê nhà. Nhớ lại nước mắt nhỏ sa, Anh em phân cách chia ra đôi đàng. Vâng Thầy trở lại Hà Giang, Lưỡng đồ lui tới tâm vàng quặn đau. Vái cho hết bịnh sáng vào, Hiệp cùng huynh đệ bá đào giải ai. Trọn quyền khỏi hổ phận trai, Dầu cho biển cạn chớ phai lời vàng. Nhớ xuân tuyết đổ nắng choang, Hành trình viễn vọng Hà Phan xứ người. Lại thêm kẻ nghịch móc bươi, Toan mưu phá hoại xúi người cạnh tranh. Cũng vì Tiên hậu không rành, Người lo chơn lý kẻ giành quyền cao. Phước thưởng tội phạt nan đào, Phú cho địa ngục Thiên Tào chứng minh. Thứ nhứt giải cuộc hành trình, Thiên nhì liên tiếp biện minh cơ đồ. Trung Thu chói rạng vầng Ô, Luật Trời xoay chuyển Cơ Đồ Qui Nguyên. Bắc Ngôi Càn Vị Hà Tiên, Tiền Trung Hậu HIỆP mối giềng QUI CĂN. Hậu Giang hữu phước vô ngằn, Thầy ban ân huệ nặng oằn đôi vai. Tiên tri Thầy định chẳng sai, Mười năm mới rõ anh tài lộ ra. Hườn Nguyên tại cảnh Bắc Hà, Cơ Đồ phản Bổn đó là hiển nhiên. Hậu Giang thọ đặng chơn truyền, Đến nơi sắp đặt mở Miền Hà Giang, Cám ơn chánh phủ xóm làng, Cùng đồng chứng Hội trang hoàn bình yên. Mừng thầm cho cảnh Hà Tiên, Cao Đài chói rạng Trung Tiền Hậu Giang. Từ đây Đạo đặng mở mang, Sáng như ánh nguyệt ví bằng bóng trăng. Mười năm Dời Đạo lăng xăng, Người cầm chơn lý, kẻ ngăn giành quyền. Làm cho Từ Phụ chẳng yên, Chỉ phê Phật thánh Thần Tiên giáng trần. Kỳ Ba độ tận toàn dân, Á, Âu, Phi, Mỹ, Úc lần hiệp chung. Long Hoa trống đổ đì đùng, Đờn kêu Nam Bắc phục tùng lịnh ban. Đờn kêu cóng sự hò xang, Đờn kêu nam nữ tầm đàng lần đi. Đờn kêu Bác Ái Từ Bi, Đờn kêu ai hởi rán thì tầm tu. Đờn kêu công quả công phu, Đờn kêu chớ mến lộng dù lợi danh. Đờn kêu chơn nguỵ biện rành, Đờn kêu ẩn núi núp gành trong hang. Đờn kêu qui hiệp Việt Bang, Đờn kêu rán nhớ Thiên Đàng đợi trông. Đờn kêu Nam Bắc Tây Đông, Đờn kêu yêu mến con rồng cháu Tiên. Đờn kêu vô lượng vô biên, Ai người trước hận dẹp phiền dứt đi. Đờn nầy thiệt hiệu Vô Vi, Đờn kêu đủ nhịp Tam Kỳ Long Hoa. Long Hoa đây đó chẳng bao xa, Đó chẳng bao xa hỏi ý ta; Xa hỏi ý ta thời rõ biết, Ta thời rõ biết Hội Long Hoa. |