Dậu thời, ngày 03 tháng 11 niên Kỷ-Tỵ
(30-11-1989)
TINH HÒA LUYỆN KHUÔN VIÊN ĐẠI-ĐẠO
THI
Nguyễn chiếu lai-lâm giáng hạ trần,
Ngọc hòa khó đọ với vàng ngân,
Tương trong đạo-lý năng khai chuyển,
Giáng-Điển cùng xây tiếp tịnh thần.
Này Phục-Nguyên Hiền-đệ! Gọi Tệ-huynh về đây
có việc chi xin cho biết ?
P.N :
PHÚ
Kỉnh Đại-huynh! Giờ này tiếp điển,
Lời thành tâm ứng-hiện giáng đàn.
Để khai cơ diệu-pháp “Nhãn-Tàng”.
Xin Đại-huynh khải ban huyền-nhiệm.
Giúp thiện lành Tâm Trung Thâu-Liễm.
Ngộ đạo lòng Đốn tiệm tùy duyên.
Nay thành tâm thanh-tịnh Phục-Nguyên.
Kỉnh Đại-huynh chơn-truyền ân-rải.
Thỉnh đại huynh !
NGUYỄN NGỌC TƯƠNG :
BÀI
Giáng điển đàn khai cơ ứng biến,
Hòa trung lý diễn tiến sau này.
Trung cơ hoằng-pháp năng xoay,
Máy huyền mầu-nhiệm có Thầy hư-linh.
Danh Đại-Đạo giáng minh cứu-thế,
ánh Cao-Đài Thượng-Đế chí-linh,
Trong ban chỉnh Đạo dò chừng,
Tập-tành giáo huấn lo chung mạt-kỳ.
Nơi Chánh-điện Huyền vi Kim-Mẫu,
Giáng lâm đàn di hậu cho con,
Mong sao tiếp nối lo tròn,
Kẻo không lạc bước tam-nguơn hậu-kỳ !
Chia nhiều phái, nhiều chi để tiến,
Thập nhị Thường-Quân hiện cứu đời,
Tùy theo danh bảng Cha Trời,
Nương dùng chánh-lý học lời khuyên lơn.
Này Phục-Nguyên! Có còn gì hỏi ?
Gọi Ta về do bởi chi sao ?
Nói gọn tóm tắt đi nào !
Đệ-huynh trình lý ghi vào sử-xanh.
BÀI
P.N :
Kỉnh Đại-huynh điển lành siêu-xuất,
Xiển chơn-truyền tùng luật cứu đời,
Tình thương nhơn loại luân-vơi.
Hoằng khai diệu-lý Đạo Trời kỳ-Tam.
Dụng chánh tông “Đốn” phàm diệt ngã,
Trừ vô-minh tất cả mê trần,
Không còn phe phái rẽ-phân,
Quay về nguyên-bổn chơn-thần của Cha.
Lấy tình-thương chan-hòa hạnh-hạ,
Người dìu đời phụng-họa thế-thiên,
Hòa nhau chơn-Đạo gieo-truyền,
Đại-huynh góp lý thâm-uyên hóa-hoằng.
Giúp cho đời tầm phăng bổn vị,
Vì tình thương bày chỉ cho nhau,
Cùng chung nhơn-loại đồng-bào;
Chơn truyền giáo-lý dạy vào Cha chung.
Thỉnh Đại-huynh trùng phùng hiệp-sức.
Dương Đạo-mầu tùng luật Thầy ban,
Đó là “Chánh-Pháp Nhãn-Tàng”,
Đốn tan ngã tướng trần gian mê-lầm.
Kỉnh Đại-huynh !
N.N.T :
BÀI
Này Đệ ơi! Phân vân chi lắm !
Khai Đại-Đạo Thầy nắm Thầy xây,
Kỳ-tam ân trọng của Thầy,
Chính là hạt giống gieo gây đạo mầm.
Nhưng Đệ ơi! Chớ lầm lắm đó,
Tuy Cha chung nhưng có nhiều con.
Lòng con tùy đứa chí chơn,
Hoặc là ý khác không còn tính chi !
Mười ngón tay khó qui đồng-đủ;
Ngón có cao, ngón rũ thấp hơn,
Cho nên giáo lý Chí-Tôn,
Tiếp thu thâm-nhập tùy con hiểu dùng.
Do căn-cơ Huyền-Khung định lựa,
Mười hai chi là cửa Đạo Thầy,
Bước đầu hóa chuyển hoằng-xây,
Gieo mầm phổ-độ lý khai chánh-truyền.
Vì thời-kỳ đầu tiên khó lắm !
Đứa ăn chay đứa chẳng chịu ăn,
Đứa thì tu lại vụn-vằn,
Thập trai lục bữa tùy lần mà theo.
Nhưng Thầy thương Thầy đèo con trẻ,
Để dắt dìu lớn bé về Thầy;
Thầy về ấp-ủ chung vai,
Con thì đứa lớn đứa rày nhỏ nhoi.
Đó này Phục-Nguyên !
P.N :
BÀI
Thế cho nên khai mòi chơn lý,
Vì tình thương bày chỉ tùy căn,
Nhưng mà Đại-Đạo sống hằng,
Dìu người sửa tánh ăn-năn chơn thường.
Bạch Đại-huynh kỷ cương Đạo-pháp.
Tùy nhơn-duyên hội-hạp mà tu,
Lý chơn khỏa áng mê mù,
Không còn trụ chấp tâm tư rối nùi.
Đèn Đại-Đồng lố mòi soi sáng,
Cho khách trần tỏ-rạng chánh-truyền,
Không còn chia-rẽ giới biên,
Hiệp về một mối gieo-truyền Đạo Cha.
Kỳ Mạt-pháp Long-Hoa xoay-chuyển,
Phật, Thánh, Tiên ứng hiện qui bầu,
Độ chung tất cả Ngũ-Châu;
Tùy duyên giáo-hóa giải sầu thế-gian.
Thế cho nên, “Nhãn-Tàng” Cha chuyển;
“Nhãn-Chủ Tâm” diệu-hiễn Đạo-mầu,
Hành trì thâu nhiếp luyện trau …
Đó là đoạn khổ não-sầu trần-ai !
Thỉnh Đại-huynh.
N.N.T :
BÀI
Đáp lời Đệ Huynh đây tỏ ý …
Niên khai-đạo Bính-Tý hóa hoằng;
Bính-Dần dương hiệu đầu Tân,
Có Thầy Thượng-Phụ xuống tầng chí-linh.
Đầu tiên chẳng có hình có dạng.
Chẳng biết thờ “Thiên-Nhãn” là đâu,
Sau Thầy mới ứng cơ mầu,
Giáng khai bút tích ngõ hầu dạy con.
Ngô-Minh-Chiêu lo tròn cơ sự,
Khai tam-kỳ là chữ “Nhãn-Thiên”,
Nhãn-Thiên tượng đó chủ-quyền;
Chủ quyền Tạo-hóa mối giềng xoay chung.
Gọi Đại Đạo là dùng nghĩa ấy,
Chia năm chi Thầy lấy ngũ-hành,
Mười hai chi địa tương-sanh,
Để con lục-giáp ứng lành đó con !
Nhưng đệ ơi! Đầu tròn Thái-Cực,
Khi khởi xướng đồng sức đồng vùa,
Nhưng lúc vào thế hơn thua,
Mạnh ai chia nấy, ai dua cũng chìu.
Người tịnh-luyện theo điều huấn-giáo,
Kẻ phổ-độ chỉ-bảo nhơn-sinh,
Hoặc là tận-độ hữu-hình,
Tùy theo duyên-ngộ hòa sinh thế trần.
Do bất-đồng ý sanh nơi đấy,
Thầy dạy tu chẳng thấy hình-dung …
Giáng đàn cơ bút thuận-tùng,
Thế nên lập-Đạo lo chung hóa-hoằng.
Về phần Huynh liệu-toan xiển thế,
Cơ Tịnh-luyện để bế khí tinh.
Giữ tròn nguồn Đạo trước sinh,
Của Thầy dạy dỗ muôn hình khó ghi.
Thầy dạy rằng: “Tịnh” đi con hỡi;
Tịnh cho nhiều thuận-lợi về con,
Con “Tịnh” thì khí đặng tròn,
Dục tinh tuyệt dứt thần con lớn tròn.
Tịnh hòa Luyện qui khuôn Đại-Đạo,
Phá Đơn-Điền ghi tạo thâm-ân,
Tiếp phần Linh-Khí thượng tầng,
Nhãn là chủ-tể điều-thân dưỡng hồn.
Hô-hấp khí, bảo-tồn linh-bửu,
Luyện ngũ-hành cho đủ oai-năng,
Tam-tài kết hiệp chơn-thần,
An-lư lập đảnh con cần khắc ghi.
Vì do con sanh chi rẽ phái,
Phái lưỡng ban con phải đồng hòa.
Dù con duy chỉ một Cha,
Nhưng con khác giống khó hòa Đệ ơi !
Phải không Đệ ?
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy !
Nên ngày nay tô bồi Đạo cả,
Thỉnh Đại-huynh! Mô tả chơn-truyền,
Hữu-hình đã có Phục-Nguyên,
Đồng-tâm giúp sức xiển truyền Đạo Cha.
Tùy nhơn-duyên để mà tỉnh-thức,
Cho căn lành lãnh-vực tu-trì,
Tu hòa phục-bổn anh-nhi,
Quay về hư-tịch đoạn ly cảnh đời.
Được như vậy Đạo Trời xán-lạn;
Tại Nam-Bang tỏ-rạng máy-huyền,
“Đại-Đồng” cứu-thế qui-nguyên,
Chí chơn tận-độ trần-miền kỳ-tam.
Xin Đại-huynh phi phàm siêu-lý,
Khai đuốc thần rọi chỉ đường tu,
Khỏa tan ám muội mê-mù,
Không còn lầm-lẫn công-phu nội hành.
Kính bạch Đại-huynh !
N.N.T :
BÀI
Này Đệ ơi! Giống lành sanh-trưởng,
Thầy dạy Đạo chỉ mượn bút cơ,
Vẽ ra máy nhiệm Đồ-Thơ.
Gieo-truyền bí-khuyết trọn giờ Thiên ban.
Rồi Huynh Ngô lập đàn chi vị;
Là Chiếu-Minh trực-chỉ tu-tâm,
Quay về cơ Tịnh uyên-thâm,
Luyện lòng hôm-sớm sửa trong lẫn ngoài.
Nhưng đầu tiên Thầy khai Đại-Đạo,
Cựu pháp truyền rốt-ráo cho con,
Thời gian đi mãi lớn khôn,
Trí con hiểu đặng Thiên ban ơn lành.
Tân “Chiếu-Minh” mới sanh từ đấy,
Giải pháp-mầu cho thấy oai-năng.
Điều độ đúng số châu tầng !
Đâu nào có khác về phần vô-vi.
Khác là chỗ tịnh-tri kiến tánh,
Khác hình-thức, khác tánh khi tu,
Nhưng mà một ý công-phu,
Trở về Đại-Đạo châu-du khắp cùng.
Đó ban sơ Thầy dùng thấp bé,
Để dần dần Thầy hé lên cao;
Lên cao con phải tự trau;
Lên cao con phải đi vào vô-vi.
Rồi vô-vi phái chi cứu-thế.
Rất nhiều phái thực-thể nêu ra,
Chung chung cũng một người Cha;
Người Cha linh-ứng là hòa Nhãn-Thiên.
Đó này Hiền-đệ, giờ Đệ còn hỏi điều chi nữa ?
P.N : Bạch Đại-huynh! Đệ không có chi để hỏi xin
thỉnh Đại-huynh thuyết chơn-lý hầu làm giáo truyền,
giúp ích cho đời sau này vậy.
N.N.T :
BÀI
Này Đệ ơi! Đạo Thầy lập mối,
Tùy căn cơ xã-hội lớp tầng,
Thời kỳ Pháp thuộc nhiệm cần,
Khó mà xiển-hóa theo lần như ta.
Rồi từ ấy khai-hoa điểm-nhãn,
Cha tượng hình là tán vạn-thù;
Vạn-thù qui nhứt lý tu;
Tức là huờn bổn ngục-tù phá tiêu.
Do sơ khởi Thiên điều dĩ-định,
Hữu với vô khó tính cùng nhau,
Một đàng ý hiểu ra sao ?
Một đàng khó nói hòa vào tâm tư !
Thầy giáng điển từ từ khai Đạo,
Dụng cơ bút để tạo chơn-truyền,
Lần lần gieo giống đầu tiên,
Đó rồi có nhịp phổ-truyền phò-loan.
Rồi thứ đến ngang hàng yếu-lý,
Cơ Tử-Đồng nhiệm-bí vô cùng,
Thầy độ từ bực lên chung,
Dạy con tu nối nhịp tùng của Cha.
Nhưng Đệ ơi! Đầu là rất khó,
Vì trường chay người bỏ rất nhiều,
Vào cơ tịnh-luyện cao-siêu,
Phải hòa tuyệt-dục ấy điều Thầy răn !
Do trí thấp kém phần học hỏi,
Bởi căn cơ chưa vói đặng cao,
Với cùng nhiều ý nhiều màu,
Độ trai tuỳ sức Thầy trao lý mầu.
Tùy khả-năng nhiếp-thâu nguồn lý,
Rồi lập đức Thầy chỉ nêu gương,
Nếu ai có hạnh tu-trường,
Phế đời theo đạo mà bươn lên lần.
Còn ai vẫn nương thân tại thế,
Cũng tu gia, Thượng-Đế chứng-tri,
Đâu đâu cũng có huyền-vi,
Nuôi con trọn lớn kịp kỳ xiển-dương.
Cơ Đại-Đạo phô trương khắp nước;
Cả hoàn cầu lần lượt đồng tu,
Tòa-Thánh dựng đấy vận-trù,
Lớn lần theo Đạo dập dìu người vô.
Phải không này Hiền-đệ ?
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy !
N.N.T :
Đi các nước điểm tô bí-nhiệm,
Đạo Cao-Đài linh-nghiệm sâu-xa,
Nếu con hiệp ý đồng hòa,
Chuyên về tịnh-luyện thì Cha giáng đàn.
Dạy bí-khuyết cho hàng con trẻ;
Dạy chơn-truyền để kẻ Thiên-phong,
Làm nên cơ Đạo Tây-Đông,
Xiển-dương phổ lý từ trong ra ngoài.
Thầy đã dạy Ngôi-Hai giáng-thế,
Cũng dạy rằng Thượng Đế là con;
Con là Thượng-Đế sắt-son,
Có nào khác chủng đâu con gieo-truyền ?
Lập mối Đạo Tiên-Thiên giữ-vững,
Dạy bí-nhiệm để củng-cố trong,
Củng cố nội-bộ bảo-đồng;
Đồng tu một lý là không khác ngoài.
Thầy dạy hàng trường-chay tuyệt-dục,
Tịnh giờ giấc thể-thức sau đây :
Tứ thời con hãy gồm xây,
Thượng tầng bí-nhiệm là Thầy hư-vô.
Con tịnh đi chớ khô tinh-khí;
Tịnh cho nhiều thần trí mới an,
Từ từ huệ sẽ mở-mang,
Chánh truyền giáo đạo độ sang nước ngoài.
Rồi chuyển pháp Ngôi-Hai phục thỉ,
Đến Tệ-huynh là chỉ có hai,
Tiên-Thiên giống ấy dựng gầy,
“Tham Thiền Nhập-Định” chuyển-xoay hóa-hoằng.
Trong thân người một vòng Tạo-hóa,
Con là Thầy nào có khác chi,
Thầy là máy tạo huyền-vi,
Con đây cũng giống Thầy y khác nào.
Thầy Cha đẻ một bào toàn chủng,
Con là mầm hữu-dụng của Thầy,
Khí Thầy đã có hòa xây,
Âm-dương mấu chốt giờ này Thiên-can.
Con cũng có hai đàng nam nữ,
Bên trái là thuận chữ dương sanh;
Bên phải âm lại tác thành,
Chính là hòa hiệp Tam-Thanh máy Trời.
Thầy có khí năm nơi để chuyển,
Thì con là khí quyển của Thầy,
Ngũ hành con hãy vần xoay;
Chính là ngũ-tạng con khai lý mầu.
Vào tạng Can gồm thâu Mộc-vị,
Tạng Phế Kim chuyển khí linh-đơn,
Tiêu diêu hồn-phách chẳng còn,
Tạng Tỳ con giữ Thổ tròn nghe con !
Rồi tạng Tâm Ly huờn đứng vững,
Hiệp Trung-hư mới cứng Đạo mầu,
Điển linh con hãy tiếp thâu,
Thận đường mấu chốt song mâu hóa-hoằng.
Vì tịnh sanh cực lần dương chuyển;
Tịnh tịnh đi con hiểu hết trơn,
Năng tịnh thì kết huờn đơn,
Bằng không tẩu lậu chẳng còn Đạo Cha !
Tịnh trước tiên tịnh hòa với khí;
Khí an rồi thần trí mới yên,
Đến đây Thần đã khai-nguyên,
Bửu-truyền bổn hóa Tiên-thiên nhập vào.
Dương cực sanh Tý trau Đại-Đạo,
Ngọ Ly vững bổ não huờn-đơn,
Mẹo Đông Mộc Chấn vuông tròn,
Dậu là vị Phế gom đơn qui vào.
Con ơi hỡi! Hai màu Nhâm-Đốc,
Con kết sao Tẩy lọc trược trần.
Tuy rằng có cái giả thân;
Nhưng thân tan-rã theo tầng hậu-thiên !
Là huờn lại chủ-quyền cho trẻ,
Khí Tiên-Thiên Thầy sẽ bù vào,
Cho con linh-điển lớn mau,
Nhập hòa Tạo-hóa Trời cao linh-huyền.
Nay con phải qui-nguyên nhứt-bổn;
Bổn lương-tâm là chốn âm-dương,
Lương là chí thiện, chí cường;
Tâm là Ly chánh dược dương của Thầy.
Con ơi hỡi! Hoàng-khai Đại-Đạo,
Đâu dễ gì bổn giáo của Cha,
Kỳ tam khai Hội Long-Hoa,
Thầy còn xuống thế Giáo-Tòa chủ ngôn.
Sao con không lo tròn máy tạo;
Cái thân con chẳng bảo được sao ?
Sướng thân, vọng động nhiễm vào…
Thì con khó tạo thanh cao về Thầy !
Đây Thầy giảng chuyển xoay bí-nhiệm :
Vì thất tình xâm-chiếm lòng con,
Mừng quá khí cũng chẳng tròn,
Giận thì đốt hết nguyên đơn của Thầy !
Con khi buồn ưu-hoài tâm tánh,
Làm tâm con lạc cảnh ma-vương,
Cướp đi thanh-khí tròn dương,
Tinh thần lung-lạc sái đường của Cha.
Thương cho quá cũng ra yếu kém,
Thương càng nhiều khó vẹn đạo lòng !
Thương nhiều mất chủ nhân ông,
Tinh thiếu, khí tản mờ thần đó con !
Con sân-hận không còn nguơn-thể.
Tánh ghét thương, hòa bế ái-hà,
Ghét đi con sẽ mất Cha,
Thất-tình lấn mạnh, khó hòa tâm trung.
Khiến ham muốn không tùng Đại-Đại.
Ý vọng hướng hoài bảo sâu-xa,
Làm cho con chẳng hiệp-hòa,
Hòa tiền với hậu đẩy đà nguơn-đơn.
Hậu còn bế chưa tròn thông hậu,
Thân còn thân tẩu lậu trược trần,
Làm sao tiên-khí bổn-thân,
Hòa vào cho trẻ theo vòng Càn-Khôn !
Thầy đã vẽ vòng tròn Thái-cực,
Một điểm huyền lao-lực đó con,
Ví như thần định khí tồn,
Linh-quang chiếu sáng bảo tròn nguyên-linh.
Con sinh ra trược hình Cha Mẹ,
Do dục-vọng mới đẻ hữu-thân,
Cũng vì động niệm xác trần,
Tạo dày ám-khí phủ thần khổ-đau !
Làm con mất trọn màu linh-tánh,
Làm vòng tròn lạc bánh luân xa,
Nếu con muốn trở về Cha,
Pháp-luân thường chuyển là hòa âm-dương.
Hòa âm-dương thanh-bường con hỡi !
Tịnh cho nhiều mới tới Thiên-môn,
Bằng không con sẽ lạc hồn;
Lạc hồn xiêu-phách không còn đó con !
Nay Thầy giảng Đạo chơn bí-nhiệm,
Do lục-dục nó chiếm lòng con;
Lục-trần, lục-thức ăn-mòn;
Lục-thần biến-hóa hại con tu-hành.
Con đã tịnh, khi con bất động.
Nhưng tâm hòa trống-rổng hư-vô.
Nếu con còn động nơi mô ?
Tức là thức hại thần khô đi liền.
Tịnh từ ấy, trược xuyên trọng tải,
Khí nó tản, là hại chơn-thần.
Vì con nô-lệ giả-thân.
Nó thì làm chủ chiếm phần Tiên-Thiên.
Con nên nhớ, hạo nhiên chi-khí,
Là điển Thầy tinh túy vô-cùng,
Nếu con suy-nghĩ mông lung,
Tức là đã động tâm-trung khó huờn.
Khó huờn-đơn, Thần con yếu kém,
Đường về Thầy ém-nhẹm lối đi.
Làm con tách bến huyền-vi,
Ta đau lòng lắm! Mấy khi ngó nhìn !
Ta khuyên-nhủ Huỳnh-Đình tụng niệm.
Tụng Huỳnh-Đình thâu liễm Càn-Khôn.
Khảm-Ly con chiết vuông tròn,
Bổ vào Thận Thủy là huờn nguơn tinh.
Nơi Đơn-Điền chỗ sanh trọng tải,
Hạ thước kiều con phải bắt lên;
Bắt lên với khí tầng trên,
Thượng thước kiều đó đừng quên con hiền.
Vĩ-Lư quan ngữa-nghiêng hại phách,
Nó động rồi thì tách âm-dương,
Ví như thai động cực-cường,
Dục tình Cha mẹ hấp sương của Trời.
Con tịnh định chớ dời tư-tưởng,
Dùng nội-ý con vượng đi lên;
Đi lên xây móng đấp nền;
Đấp nền “Thánh-Đức Hoa-Liên Bửu-Tòa”.
Thầy Huyền-Khung, là Cha Thượng-Phụ,
Đã dạy con đầy đủ lý rồi.
Bổn phận Cha đã tô-bồi,
Phận con tu-học ắt thời gặp Cha !
Ngược bằng không làm ma, tác quỉ,
Sanh lục-động mất khí hạo-nhiên,
Con không nắm đặng chủ-quyền,
Thì sa lục-đạo luân-phiên đọa trần !
Phải luân-hồi xác thân trọng-trược,
Vì thiếu công, thiếu phước, thiếu tu,
Với con đã thiếu công-phu;
Công trình chẳng tiến mịt-mù đó con !
Con học đạo lo tròn nghe trẻ !
Học đạo-mầu mau lẹ đến Thầy,
Thầy đây Tạo-hóa dựng gầy;
Dựng gầy cơ Đạo bằng tay hữu-hình.
Ôi! Thầy dạy trong tình cha mẹ,
Mà mấy ai là kẻ Thiên-phong ?
Vì còn một khối giặc lòng,
Nó hay xâm-chiếm duỗi-rong đọa-đày !
Thầy Cha đẻ muôn loài vạn-vật,
Con mất điển vì tật chúng sanh,
Cũng do cái thói tranh-giành,
Tình-tiền danh-lợi tác hành luôn-luôn !
Tình làm con đổ tuôn tinh khí;
Tiền làm con mất vị tánh thiên;
Danh chi con nắm chức-quyền ?
Lợi vào con sẽ ngữa-nghiêng tâm-lòng !
Thì hồn con sống trong vọng ngoại,
Ắt cơ đạo hư-hoại đó con !
Thầy nay Chủ-Tể Càn-Khôn,
Mấy lời nhắn nhủ gởi con dưới trần.
Con dưới trần nhiều thân cha hỡi !
Con dưới trần vì lợi khuất che,
Với lại lập đảng kết bè,
Phân chi, rẽ phái màu mè quá tay !
Con xa Thầy, lạc ngai Thái-Cực,
Nên mất đi chơn-tức Huyền-Khung !
Tâm con nó nghĩ lung-tung,
Chính con chưa hiểu sao dùng Đạo Cha ?
Đó mấy lời Huynh hòa với Đệ,
Có hiểu chưa Thượng-Đế Huyền-Khung.
Cái cơ Đại-Đạo thuận-tùng,
Là do Thiên-ý Cha dùng hấp-hô.
Nhưng dương-trần điểm tô trọng-trược,
Vì xác thân chưa bước tu-hành,
Hậu-thiên chẳng chuyển huờn-thanh,
Vẫn còn động niệm hằng sanh ra hoài.
Sanh ý bậy ngày ngày diêu-động;
Sanh cái tâm sân-hận oán người;
Sanh lòng cứ mãi móc bươi,
Lỗi mình che dấu lỗi người phán-phê !
Phải không Hiền-đệ ?
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy !
N.N.T : Tiếp bài Thầy dạy :
Con tu phải tịnh “Lòng-Khẩu Ý”,
Cùng xác thân nhuận khí tương-phùng,
Cơ Thầy Đại-Đạo lo chung,
Chữ “Hòa” con khải tận tùng chí-linh.
Nhưng khổ thay! Thân sinh hậu khí,
Chưa đặng hòa, thô-bỉ trược thân,
Vì khẩu tội lỗi vô-ngần,
Chuyện người mau biết chuyện cần lại không.
Khẩu sanh nghiệp lòng-vòng tác-hại,
Nói ra điều quấy phải đôi-co,
Làm cho tu chẳng ra trò,
Sao hòa Thượng-Đế trong lò Huyền-Khung ?
Với ý nghĩ mông-lung xằng-bậy,
Là tâm-viên khó thấy leo-trèo;
Ý mã miên-diễn nương theo,
Chạy rong, chạy ruỗi hiễm nghèo rừng sâu !
Còn cái thân khó bầu chuyển-hóa,
Chưa tu-hành sao phá vô-minh ?
Tuy Thầy đã tặng chơn-kinh,
Nhưng đui đâu thấy mà nhìn đặng Cha.
Tuy Thầy đã đề ra chơn-lý.
Khải nhiều bài thầm-thỉ với con,
Nhưng điếc tai đã ăn-mòn,
Sao nghe lời đạo bảo-tồn linh-quang !
Thêm tâm tánh ngang tàng thái quá,
Con đảo-điên quấy phá người tu,
Bởi do càng bậy mịt mù,
Kết bè, phe đảng rối nùi tâm-can !
Đúng không Hiền-đệ ?
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy !
Thôi mấy lời huynh sang bỉ-ngạn,
Gởi Đệ-hiền chớ nản Tâm-trung,
Công-phu tinh tấn lo tròn,
Công hành đạo-đức ghi ân nhiệm mầu.
Cùng một Cha khác đâu chủng tộc,
Nhưng tùy trí đứa học thấp cao,
Tùy căn chơn-lý tô vào,
Cho nên xoay-chuyển vẽ màu hình dung.
Sáu mươi năm Đạo cùng tận-lý,
Nào thấy ai trực chỉ qui-nguyên ?
Bởi vì nhiễm bụi trần miền,
Nên Thầy Thượng-Đế lụy-phiền lệ sa !
Châu lã-chã xót-xa cho trẻ,
Thương con trần quá trể công-phu,
Vì con tâm tánh mịt-mù;
Không lo vùng-vẫy phá tù hữu-vi,
Cha thương con nhiều khi sở cậy,
Giáng điển đàn để thấy ý Thầy,
Ngọc-Hoàng Thượng-Đế hoằng-khai.
Cao-Đài bổn hiệu kỳ này chí-linh.
Nhưng Cha đã chung nhìn vạn-loại,
Bởi vì con phải trái phân nhau.
Với cùng chẳng biết đồng-bào,
Gây bao tang-tóc Cha đau, Cha sầu !
HỰU
Cha sầu vạn-đại giáng trần-gian,
Lấp khỏa bi-thương hé mở-màn,
Bí-nhiệm ân-tri lòng Thượng-Đế,
Mật truyền Bửu-pháp giải tân-toan !
Đường đi không đến thường sanh nản,
Canh-cánh lòng lo bởi họ hàng !
Thân xác oại-oằn con nếu biết,
Ngày tàn nhớ đến đã tan-hoang !
THI
Dựng gầy máy nhiệm tạo càn-Khôn,
Chí thiện, chí linh Đấng Chí-Tôn.
Chí-bửu hoằng-khai cơ chuyển-hóa,
Chí tài hiệp mối bổn lai-nguơn.
Do lòng con trẻ còn mê vọng …
Mối Đạo Thầy xây chẳng được tròn.
Bính Tý niên canh dương giáng hạ,
Đến nay rắn chạy vẫn thon von !
HỰU
Thon-von máy nhiệm lý qui-gia,
Ẩn khuyết Huyền-Khung Đấng Bửu-tòa.
Giáng thế siêu-hình truyền Đại-Đạo,
Điểm tô “Thiên-Nhãn” chín luân-xa.
Pháp cơ mầu nhiệm con không biết,
Vì bởi đam mê nặng trược tà.
Thay đổi muôn màu tô vẽ sắc,
Do tâm chẳng hiệp nhứt đồng-hòa !
THI
Thương yêu vạn loại cũng người Cha,
Vĩnh-cửu lai-nguơn bổn “Thái-Hòa”.
Tiên Phật Thánh qui nguồn Đạo cả,
Sao con hữu-thể lại chia ba ?
Đồng chung cội gốc tuy nhiều nhánh,
Nhưng lý “Huyền-Môn” hiệp Bửu-tòa.
Bởi bế Nê-huờn, bao đọa lạc !
Vì do nghiệp quả mãi trầm-kha !
HỰU
Trầm kha tục-lụy khổ thương ôi !
Cơ sát Thầy khai hoại diệt rồi !
Vận-chuyển muôn hồn thanh trược rõ,
Để con luyện Đạo dứt luân-hồi.
Tiên ông “Thái-Cực” là Cha đó !
“Nhứt Khí Hư-Vô” chẳng có ngôi.
Bởi thói hận lòng hay sửa đổi,
Do tâm bỏ định lại không ngồi.
Phải không Hiền Đệ ?
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy !
N.N.T :
THI
Giải đàn đáo vị trở tiên-thiên,
Nhiệm-bí cao-thâm ẩn khuyết truyền.
Tạo hóa vần-xoay cơ chuyển-biến,
Khó mà tịnh-luyện được ngồi yên !
Rán đi nam nữ nay nghe giảng,
Cố chí lo tu chớ lụy-phiền.
Một kiếp thân sinh trong Đại-Đạo,
Trường tồn bất hoại hiệp Huyền-Thiên.
HỰU
Huyền-Thiên Thượng Đế Đấng Cha lành,
Hóa-hóa khai khai thực-thể sanh.
Cố chí tu-hành cho trọn lẽ,
Điều hòa ba khí phái “Tam-Thanh”.
HỰU
Thượng-Thanh bổn kết hạo-nhiên nguyên,
Ngọc-Chẩm hòa dương phá vạn duyên.
Thái-Thượng lai huờn xây gốc Đạo,
Trở về một mối mới ngồi yên.
Thôi Tệ-huynh thăng.