Chơn Pháp Lưu Truyền

MùaTịnh-Luyện
Tịnh-luyện có hai mùa: Chánh Dương là Ðông-Chí
Chánh Âm là Hạ-Chí

1- Tiết Ðông-Chí :
Dương-Khí mới sơ sanh ở vào châu-niên hành-vận trong 12 tháng thuộc 12 quẻ , nên tháng 11 là Tý-Ngoạt thuộc quẻ Ðịa-Lôi : Phục có nhứt Dương sanh trở lại thì vận vật đều qui tăng , nên cần phải nhập Thất tịnh tu , tứ thời phanh luyện đặng thu hấp Dương-khí ấy để bồi bổ sự hao khiếm-khuyết của cơ-thể lại còn tạo thành Kim-Ðơn Xá-Lợi .
Nhưng chánh tiết Dương sanh vào ngày Chúa Giáng-Sinh nhằm lể NOEL , là ngày chơn-dương xuất hiện .Duy cũng có chậm mau vì thời tiết có khi sớm có khi trể nên lúc thì trước NOEL mười ngày hay 8 ngày .
Lấy theo quẻ thì Thiên-Nhứt sanh Thủy là Thận-Thủy phát hưng , cũng như trai 16 tuổi qui đầu bộc khởi , dục-ý dấy lên , niệm sanh tình-tứ , còn gái 14 tuổi Xuân-động Hàm-Linh phát niệm ái-ân ước ao mơ tình-dục nên cần phải vào tịnh-thất Bá-Nhựt Trúc-Cơ liểm thâu chơn-khí ấy thì đắc quả trường sanh , tức là Kim-Ðơn Ðại-Ðạo . Vì trong quẻ Phục thì có Nhứt-Dương sơ tấn lấn giành hảm âm trong thời Ðông-Chí nên có sanh Ðại-Tiết khí hành , nên khá cần đại-tịnh Hư-Vô thâu hườn Chơn-Dương ở tại Khảm cung , túc là KHôn lâm Càn nhứt mà đấp vào cái tánh-chơn bổn thiện đã mất từ lâu nay , nhờ tịnh mà thâu hườn nhứt Dương sơ tấn đó lại .
2- Tháng 12 (tháng chạp : Sửu) quẻ Ðịa-Trạch lâm nhầm tiết Tiểu-Hàn , Ðại-Hàn , có nhị Dương lấn nhị Âm , lui làm cho Thủy-Khí thăng lên Tâm-Vị thì phải tinh thường giử chặc Tam-Quan 3 ải : Vỉ-Lư , Giáp-Tích , Ngọc-Chẩm đặng đưa Dương-Khí vào Thái-Cực-Ðồ .
3-Tháng1 (Giệng : Dần) Quẻ Ðịa-Thiên Thái , tiết Lập-Xuân , Vỏ-Thủy , Thiên-Khí giáng , Ðịa-Khí thăng Âm-Dương giao cảm ,Tâm-Thân tương hòa , Tam-Dương khai thái nên cần tịnh-thủ cho kết thành Ðơn-Dược .
4-Tháng 2 (Ngọ) quẻ Lôi-Thiên , Ðại-Tráng vào tiết Kinh-Trấp , Xuân-Phân , thiết chánh khí Xuân , tươi nhuần mát mẻ , nên muôn vật yêu vui , Tứ-Dương thuần phục , mười phần xinh tươi , cần tịnh-định cho khí Linh-Huyền nơi Hạ-Ðiền cung Cấn thăng lên Trung-Ðiền rồi ráng tịnh cho vong-ngả mà thâu Khách-Khí vào Huyền-Quang mà giúp thêm cho Chánh-Khí .
5-Tháng 3 (Thìn) Quẻ Trạch-Thiên : Khuyết , tiết Thanh-Minh , Cốc-Vỏ đến đây lại được Ngủ-Dương-vật , người đều xung-thanh , cần tịnh thủ liểm thâu Chơn-Khí đề phòng Âm thăng hầu nuôi lấy Chơn-Căn Linh-Chưởng .
6-Tháng 4 (Tỵ) , quẻ Càn-Vi , Thiên , tiết Lập-Hạ , Tiểu-Mản nên dùng Chánh-Khí thuần Dương , đến đây chủ khách tương đương , sáu hào Dương đủ vào đường Thủy-Cung cần đại-tịnh
cho thường đề phòng Âm sanh , vì Dương cực thì Âm sanh .

Thi bài :
Cơ Bá-Nhựt nêu cao Ðông-Chí
Tiết sang Ðông yếu-lý động cơ
Nhứt Dương sanh động định giờ
Tiết Trời giao chí đọi chờ qui căn .
Cùng vận vật tho tăng bẩm-chất ,
Thảo-mộc đều gồm tất tinh-hoa ;
Hấp thu đầy đủ chan hòa ,
Nhứt Dương sanh khí đó là thuần cơ ,
Còn định chất thời giờ Ðông-Chí ,
Phải tuân theo tiết khí chậm mau ,
Mười ngày đi trưóc tiếp giao ,
NOEL chuyển sắp đài cao tiết thời ,
Chậm tám ngày máy Trời xây trở ,
Ði theo vòng nên nhớ chủ-căn ;
Là ngày chánh tiết nắm phăng ,
Ðúng thời Ðông-Chí qui-căn đạo-hành ,
Ðông-Chí nhứt Dương sanh vạn vật ,
Ðều hấp thâu bẩm chất Dương-sanh ;
Trai thì Hai Tám (2/8) là thành (2 * 8 = 16 )
Qui đầu bộc khởi động hành sơ khai .
Nử Hai Bảy nên tay nử liệt (2 * 7 = 14 )
Hàm-Linh thông hiểu biết sự tình ,
Tự nơi Xuân-Ðộng tác hình
Biểu-dương chí-khí tượng hình tri cơ .
Mới điểm ngay Thiên-Thơ bất tử ,
Mối đạo-vàng gìn-giử bao lâu ?
Trường-sanh Kim-Khí qui đầu ,
Ðủ đầy đức tính phục hầu trường sanh .

Vậy trước khi vào tịnh tọa theo Tân-Pháp của Thiền-môn chớ có diều chứng chổ Chánh-Ðạo , tu-chơn luyện-khí định-thần , phải có người hộ-đạo hướng dẩn đến trước Thiên-Bàn lập lời Ðại-Thệ cho thấu động lòng Trời , rồi Thần-Thánh , Tiên-Phật chứng tri hộ-trợ thì sự học mới dem lại kết quả khả quan và phải đủ đức tin mạnh mẻ mới chẳng uồng công phu tu luyện ngàn năm một kiếp .
Rồi phải dọn mình cho trong sạch , đoạn tuyệt trần duyên , bảo thủ giữ gìn chơn-tánh của ngủ-tướng cho hoàn toàn , sát ngủ-ma và bất tương với xả-hội , cần yếu là phải đoạn tuyệt với dâm-thân , dâm-tâm , làm cho hết khởi niệm-dâm , rồi vào tịnh-thoàn sẽ đoạn dâm-căn mới được kết Thánh-Thai , nhưng phải thoàn tọa cho thường thì sẽ được ngoại-tịnh nội-động , mới có triệu chứng chơn-cơ phát hiện , đương sanh ắt sẽ được thanh-khí hườn nguyên túc bộ . Mà phải cố gắng trường chay sát giới luôn cho cảm động lòng Trời rồi chơn-cơ sẽ xuất hiện đủ đầy duyên mản , cần phải hành , trụ, tọa , ngọa định thần luôn luôn ,mặc mặc vô ngôn (làm thinh không nói ) , hồi quang nội chiếu vào Tâm-Ðiền .
Tóm lại , khi vào Bá-Nhựt thì không cần biết đến sự thế phàm tình ,cho đến Trời Ðất gì cũng đều không hay biết chi hết. Tập quen được như vậy lâu ngày sẽ đạng có Thiên-Khí Thượng-Phù
(là thanh khí thăng lên) còn trược-âm tạp quả hạ giáng .
Ðó là chổ nói (Chiết Khảm điền Ly)
Tiết Hạ-Chí
Ðó là trọn xong lớp Ðông-Chí , rồi kế tiếp đến Hạ sang , vào mùa Hạ-Chí có Nhứt-Âm sanh , vạn vật đều nhờ khí chơn-âm mà trưởng thành , nên người tu phải vào tịnh-thất để thâu liểm kỳ Ðông-Chí cho được trường tồn vỉnh cửu mạnh mẻ thêm .
Vì có Dương mà không có Âm thì sẽ bị cô Dương Ðạo ắt khó thành ,
còn có Âm mà không có Dương thì ra cô âm-đạo củng không thành được .
Thế nên Âm Dương nhị khí phải có đủ nửa cân và tám lượng hiệp thành
một cân đại-dược thành Ðạo ắt thành
1-Vào Hạ-Chí (tháng 5 , Ngọ) quẻ Thiên-Phong : Cấu ,tiết Mang-Chưởng , Hạ-Chí khá tường nơi Bắc-Phương lại tận Nam-Phương Thối-Phù Dương cực lọc đường bản âm , tinh lọc khí Thuần-Âm , thủ Huỳnh-Ðình gom Dương-Khí vào Tâm-Vị .
2-Tháng 6 (Mùi) lâm Mạc-Hạ , quẻ Thiên-Sơn : Ðốn , tiết Tiểu-Thử , Ðại-Thử thì trược-âm nhập vào trung- tâm , khá tịnh thủ giữ gìn tà-khí nó phá rối làm cho Kim-Ðơn khô héo , cần thủ Huyền-Quang Nhi-Kiều cho lắm , vì có nhị-âm sanh tranh lấn hảm dương .
3-Tháng 7 (Thân) quẻ Thiên-Ðịa : Sỉ , tiết Lập-Thu Xử-Thử , khí Thiên hạ giáng , Ðịa-Khí xung lên , vậy nên đạo phải cần gìn thủ trung , nghĩa là đạo , vì `Ðạo bất khả tu du ly dả `.
4-Tháng 8 (Dậu) quẻ Phong-Ðịa : Quang , tiết Thu-Phân Bạch-Lộ , Thần-Quang nháng sáng , cần phải thông hiệp Tam-Chơn , không cho ngoại trầm âm-khí nhiểm vào , để giữ anh-minh cho sángtỏ .
5-Tháng 9 (Tuất) quẻ Sơn-Ðịa : Sát , tiết Hàn-Lộ Sương-Giáng chất khí mờ mờ , anh-nhi hiển lộ , xuất cửu vô trung , phải cần đắc quả vô hình pháp-tướng vậy .
6- Tháng 10 (Hợi) quẻ Khôn-Vị : Ðịa , tiết Lập-Ðông tiểu-tiết thì dương tiệt mạc âm , phải cần hồi quang nội chiếu , tịnh-định diệt trần-tâm để cầm giữ ngươn-tinh chánh-khí .
Ðến đây cần phải tập trung hết tinh thần gom vào Thái-định giữ tánh không không cho Châu-Nhi phục-thủy đặng mặc âm xây đổi đến giờ thuần Dương , hể mạc âm thì Hỏa thượng nơi Can , Ðó là Long-Hổ vầy đoàn , âm dương hội hiệp , thuần toàn Lục-Âm .
Nên cần giữ tháng ngày mùa tiết , mà luyện phanh , hoán triệt đất trời ,
âm dương xây trở chiều mơi , Càn-Khôn định vị , thành thời ngôi Tiên .

Thi :
Ngôi Tiên phải đoạt máy âm dương
Nuôi khí , dưỡng Thần , Ðạo khuếch trương
Bảo vật gom về nơi huyệt-cốc
Vũng lòng trọn kiếp đắc trường sanh
Hựu :
Trường sanh bất lảo tại nơi ta
Luyện tánh , Tâm chơn thoát lối ba ;
Không mến trần gian , không bợn tục
Không hờn , không oán phép Tiên gia .

Khi hết tịnh , nhưng cũng cứ hồi-quang nội-chiếu trong tứ-chi ,
nghĩ là chở Thiên-Cơ tái động mới thành chiếu-diệu linh quang , huy hoàng linh-chơn vậy .

Thi bài :
Ngồi tịnh-tọa tham thoàn luyện-kỷ ,
Phải đúng giờ Ngọ , Tý liễm thâu ,
Mẹo - Dậu mộc-dục đặng lâu
Ngươn-Khí tự nhận là đầu Hư-Vô
Khởi hấp ý Cửu-Ðô Tề-Hạ
Phải ba hơi khí giả đến nơi
Nam Mô Cao nhớ y lời
Mật niệm ta hiểu ngoài đời nan tri
Hô cũng ba hành y pháp độ
Ðài Tiên-Ông là chổ run lên
Nơi mũi chẳng lệch chênh
Như vậy ba lược mới nên định-thần
Cách ngồi tịnh , đồng cân thân-thể
Thòng hai chân , giụm để treo lên ;
Chơn hình chử Bát làm nền
Lưng như gổ thẳng phải quên việc trần
Tịnh Hư-Vô đấp lần Cơ-Trúc
Ngồi Thiền-Ðịnh năm phút một giờ
Sửa ngay hô hấp chuyễn cơ
Ngươn-thần mở rộng , thiên thơ mật truyền
Có tính Thiên mới yên tâm tánh
Diệt lục-trần mới tránh khổ gay
Trọng rày tánh thiện tâm chay
Thâu thanh diệt trược hàng ngày cho quen
Kèm ý-ma mới sanh quân-tử
Ðạo-tâm sanh ,diệt tụ nhơn-sanh
Nhơn-tâm tử , phách tán âm
Ngươn-Thần chủ sử , đạo-tâm đắc thành
Diệt lục-thất khí thanh mới ở
Lục-thất còn lở dở đường tu
Tu nhờ tịnh sáng cần cù
Mỗi ngày bốn buổi công phu chớ rời .

Vậy người tu phải giũ gìn sự công phu thưởng ngày như đạo-nhựt thường hành .
Lâu ngày thì Khảm sẽ hồi Ly làm cho Ly trở thành Càn tức là Chơn-Dương và tinh thần hườn nguyên hiệp nhứt đầy đủ y như hồi thủ-sơ , sơ tọa bổn tánh Thiện-Chơn cơ chánh-khí , mà theo buổi đầu là gốc Tiên-Chơn ,hoàn-toàn Thiện Mỹ.
Rồi LY sẽ hồi Khảm , biến Khảm thành Khôn tức thì Chơn-Âm thành , thì ra dỉ Dương diệt giả Âm , dỉ Chơn-Âm mà dưởng lại Dương mới có Miêu-căn chơn-chưởng ,Linh-Tử phát hiện . Nếu có đặng Âm Dương hòa hiệp ở trong đạo-tâm rồi mới nên chổ Ðại-Ðạo Tiên-Thiên , chi-khí phục hườn ắt sẽ có linh-quang chơn-diện xuất nhập linh đài mà thăng phù nơi Hư-Không cảnh giới . Mà Tiên-Thiên chi-khí là bổn-tánh Chơn-như của Trời trường tồn vỉnh-cửu . Nếu không tu luyện cho phục vô hườn hửu thì sẽ bị Khảm-Ly tương khắc hại lại bản thân , ắt sẽ bị diệt vong , không ai tránh khỏi . Nay muốn cho được hườn nguyên phản bổn , thì trước phải lo đọan dứt luân hồi ,
chớ không còn chuyễn kiếp nữa , tức là phải tu cơ siêu thoát , tịnh luyện công phu ...Lục-Thất tiêu vong thì phải tấn lần lưởng đoạn công phu , thủy chung như nhứt :
Tiên: Tấn Dương-Hỏa
Hậu : Thối Âm-Phù
trong tứ thời công phu theo hình lục-âm lục-dương dưói đây :
Hình đồ Lục-Âm , Lục-Dương (tiên :Tấn Dương-Hỏa)
Thập-nhị quẻ ấy tứ-thời công phu (hậu : Thối Âm-Phù)

Ðịa lôi tấn Vỉ-Lư quan
Ngọ Thiên-phong thối đáo Nê-Hườn
Mẹo quái Lôi-Thiên lại Hiệp-Tích
Dậu thời Phong-Ðịa hội Trung-Gian .
Thi :
Nam-t ử luyện Tinh thủ Thận đường
Tỳ hư Khí-Hải hộ Trung-Ương
Nội ngoại được phanh thâu Bắc-Cực
Vạn thù qui Nhứt hiệp Thủy-Xương
Khảm-Ly chiếc bổ thành Càn tượng
Càn-Khôn giao cấu cực Minh-Chương.
Thập-Nhị thời Trung vô giải-đải
Hỏa Phù ôn dưởng nạp Thuần Dương
(Th ái Thượng Ðạo Tổ)
T ả Hửu Âm Dương khá biết tầm ,
Can nhu tứ thể đạo hoằng thâm
Thượng-Hạ lưởng đồ phân nhị bát,
Tánh-Mạng Càn-Khôn tỷ Thận-Tâm
Can đề Lư-Ðảnh nghi tri thử
Mạng-Môn Ðơn-Thất thủ Thần-Châm .
Kim (Diên) , Mộc (Hống) châu sa dược ,
Thủy-ngân huyền diệu diệt phàm-tâm .

Y ếu lý :
Nam th ì giử lấy bầy trâu ,
Nử thì giử lấy ngao đầu trấp môn .
1- Tấn Ðương-Hỏa : là từ Tý đến Tỵ , làm cho Âm-Trung phản Dương , là tấn tới Chân-Ðức can nhu . Ấy là chổ phục lấy khí Tiên-Thiên trở lại , nhưng phải tấn cho đến chổ Lục-Dương thuần hoàn tại Tỵ

là nơi Càn-Kiện Cao-Minh mới thiệt chổ Công-Dương-Hỏa .
Mà phải lấy :
Hô làm Ðại-Hào , đưa ra 5 bậc , còn
Hấp làm Tiểu-Hào thâu vài chí rún .
Cần nhớ tịnh trong giờ Tý phải nhíu Cốc-Ðạo đặng bắt Hạ-Thước-Kiều mà đưa hào-dương qua Ðốc-Mạch và phải dùng Chơn-Ý mà đưa qua Vỉ-Lư-Quang lần lên Giáp-Tích rồi thẳng đến
Ngọc-Chẩm-Quang , là nơi Lục-Dương càn kiện .

Trong kinh Phật nói chổ nầy là :
Cầu Nại-Hà bắt qua sông lớn
Tội nhơn qua óc rởn rùng mình ;
Cọp đồng rắn sắt hải kinh ,
Xẩy chơn xụp xuống , cua kình rỉa thây .

Nghĩa là :
Lúc công phu mà còn nhiều tạp niệm thì ắt hào-dương không qua cầu được mà phải bị đọa-sa xuống cầu thì rất uổng công tu-luyện và có hại cho bản thân nữa .
Tại sao phải ngồi quay mặt về hướng Bắc :
Là để kính trọng Ðức Thượng-Ðế , vì Thượng-Ðế ngự tại hướng Chánh-Bắc , nên Ðức Không-Tử thưở xưa nói : `Lúc nữa đêm Trời chuyễn mưa vần-vũ thì Ngài mau mau ngồi dậy quay mặt về hướng Bắc ` là cốt ý nói chổ này vậy . Nau ta tu hành cũng phải giữ lể khiêm cung như bậc Thánh , vì giờ Tý Dương sanh tại dưới Trung-Tâm cung Khôn vi Ðịa , vừa qua giờ Tý dùng phép công phu tấn 36 lần trong mổi giờ : Từ Tý qua Tỵ , trọn đủ 6 giờ Dương .

Bài :
Tý tấn Dương , vòng tròn ba sáu (36)
Khá bế Nhâm dỉ tháo chế hàn ;
Nghịch hành vận chuyễn Lục-Quang
Châu hườn như nhút Tổ đàng cho xinh
Khá hết dạ Huỳnh-Ðình tụng niệm
Khỏi khổ mà ráng luyện cho thuần
Ðó là lưởng khí huân chưn
Chuyển bồi vận khí siêu quần là hay
Vậy mới biết Tam-Tài chi Ðạo
Khá thâu về khí hạo Tiên-Thiên
Phải lo Khảm-chiết Ly-điền
Nhút công dỉ mản tiếp liền Nhị-công .

Trở lại Mục Lục