Chương 1
Khai Trời dựng Ðất sanh hóa muôn loài
Vô-Cực-Ðồ cữu chuyễn tịnh động sinh cơ
Cực-Ðồ nhứt chuyễn tịnh cơ
Càn-Khôn cơ nhứt chuyễn
Vô sắc thị Diêu-Trì
Niệm Quang Cô mẫu biến
Hình số 1
Ðồ Vô-Cực Tịnh cơ
Cơ nhứt chuyễn Càn-Khôn vũ-trụ
Vô-Cực-Ðồ chức đựng Âm-Dương ,
Vô sắc tương thể Diêu-Trì ,
Trong Kim-Mẫu động thành thì biến đi .
Người tu luyện , khi về đến đây là " Hườn Vô ", thuộc khí Vô-Cực . Bởi vì :
Kể từ thưở Hồng-Mông dị phán , thì Vô-Cực xưng Tôn .
-Ban đầu thủ xuất , vòng Vô-Cực có chứa hai thứ khí Hư-Linh (nóng lạnh ) lẩn lộn trong bầu Vô-Cực , nên gọi là Kim-Mẫu .
-Bao trùm hai khí , dường thể ao sâu - mờ mờ mịch mịch lấn qua ép lại với nhau , Diêu đông bất màng , nên gọi Diêu-Trì Kim-Mẫu là Mẹ , là GỐC , sáng tạo ra Trời-Ðất vùng vận vật muôn loài do 2 khí Hư-Linh chứa trong ao Diêu-Trì .
Rồi Kim-Mẫu ngoại tịnh nội động bất màng , 2 khí đụng đẩy đến cực độ mới gom lại thành Hư-Linh , rồi 2 khối ấy tách ra mà nung nấu đến cùng cực ( vật cực tắc phản , phản tức hiếu sanh )
-Trở thành đông cơ nhị chuyễn .
Hồng-Mông biến chuyễn hai khí Hư-Linh đốt bờ Kim-Mẫu chảy thành khối Kim-Quang - hoá ra hình " Tam giác Kim chuyên " . Hiện ra móng bạc 3 màu = vàng , xanh , đỏ .
Có câu :
Càn-Khôn cơ nhị chuiyễn ,
Thái-Cực trung nhứt khí ,
Thái-Thượng thị pháp danh ,
Huỳnh-Quang thành hữu thỉ
( Thái-Thượng Ðạo-Quân )
Hình số 2
Cơ Nhị-Chuyễn
Cơ nhị-chuyễn thành hình móng bạc ,
Do Hư-Linh khai hoát căn nguyên ;
Bạch-Nhựt thanh , Tạo-Hóa liền ,
Kim-Quang Huỳng-Ðạo cơ nguyên kiện toàn .
Mới xuất lộ Kim Quang linh sắc ,
Ba màu ứng chiếu cao sâu ,
Ðỏ , vàng , xanh tưpợng gồm thâu quang thần .
Ðiển Hư-Linh chuyễn đàng Bắc-Cực ,
Chạy vòng theo đúng mức cơ thiên ;
Ðến phương giáp mí nối liền ,
Thành hình Vô-Cực Kim-Chuyên tịnh hành .
Móng bạc Tam-Giác Kim-Chuyên nổ tung bầu ,
Vô-Cực ra muôn đạo Kim-Quang chiếu ánh hào ,
Quang sáng cả không gian , rồi khối Kim-Quang rút vào Trung-Tâm mà thành hình Thái-Cực
Hình số 3
Thái-Cực Tịnh Cơ tam chuyễn
Cơ tam chuyễn phân danh Thái-Cực ,
Thiên-đồ xây do tức Hư-Vô ;
Căn cứ tại Cô-Cực-Ðồ ,
Vô-Cực chơn-tịnh , động-đồ hà-phanh .
Nung nấu đến kim hành xẹt lộ ,
Ánh Kim-Quang khắp chổ sáng hừng ;
Muôn ngàn ánh chiếu tượng trưng ,
Chưa phân Thiên-Ðịa hội chừng điểm ra .
Thái-Cực Tịnh , sanh Hoàng-Cực ,
Càn-Khôn cơ tam chuyễn ,
Cực tịnh âm-dương biến .
Vô tướng sắc Huyền-Hồng .
Phù thanh ngưng trược biến .
Trái lại : người tu trở về .
Lớp nầy lêu là Hườn-Hư , là khí Hư-Linh gôm vào " Thái-Cực-Ðồ , Huỳnh -Ðình-Cung " hay "Huyền-Quang-Nhứt-khiếu " đặng hườn về khí Vô-Cực mà trở vào móng bạc Hồng-Nghê rồi hiệp nhứt hườn-vô
Hình số 4
Thái-Cực động cơ tứ chuyễn đồ
Thái-Thượng trung gian thủ xuất phân Lưỡng-Nghi . .
Dùng điễn lực phi thường xé một lằn trong kinh tâm ,
làm hình trạng Thái-Cực-Ðồ , danh là : Sắc Thái tức thị Ðạo-Quân
Ðồ hình số 4 :
Âm-Dương thành Hữu tượng
Càn Khôn có Tứ sanh ,
Hữu tượng Lưỡngt-Nghi thành ,
Vô động Huyền , Hồng chuyễn ,
Giáng thăng Xích , Hắc , Huỳnh ,
***
Ðồ số 4 , phân minh Thái-Thượng ,
Xưng Lạo-Quân hình tượng hoát khai ,
Bẩm khí Vô-Cực thường ngày ,
Trung-tâm hấp thụ đắc tài Tiên-Thiên .
Thái-Thượng dùng kinh tâm trạng-thái ,
Băng ngang qua biến tại Cực Vô ;
Biến sanh ra Thái-Cực-Ðồ ,
Danh đề sắc thái điểm vô thường hành .
Ngược lại : người tu về đến mức nầy gọi là :
Gồm Tam-Bửu : Tinh-Khí-Thần hiệp danh , tên gọi : " Tam-Huê " đứng vào bực Tam-Tài :
Huyền - Huỳnh - Hồng
Thiên - Ðịa - Nhơn
Hoàng-Cực Âm-Dương Tịnh Cơ hóa Ngũ-Hành
Thiên - Nhơn - Ðịa - Nhựt - Nguyệt
Hình số 5
Càn-Khôn ngũ chuyễn sanh ,
Hoàng-Cực hóa Ngũ-Hành ,
Xích , Hắc , Bạch , Thanh sắc ,
Ngũ quang bổn vô hình .
Do công đức Thiên-Triều phục mạng ,
Thái-Cực-Thiên , căn bản chủ trương ;
Phân minh tứ khí tri tường ,
Huyền , Hồng , Thanh , Bạch , biểu dương Trung-Huỳnh .
Hình số 6
Ðến khi lập thành xong Trời-Ðất ,
Ngài phân ra tứ chất khí quang ;
Khí quang tứ tướng phục hoàng lập nguyên .
Trụ một điểm , Huyền-Thiên Thượng-Ðế ,
Là khí huyền lập để cao ngôi ;
Huyền Thiên chưởng chấp phân rồi ,
Thứ ngôi lập vị chủ ngôi Cao-Ðài ,
Trụ hai điểm , mỡ khai từ chổ ,
Là Hồng-Quân Lão-Tổ phổ thông ;
Phân từ cực phẩm khí hồng ,
Vô-minh điểm sắc ấn đồng Hồng-Quân .
Trụ ba điểm , tự xưng chánh giáo ,
Ðông-Vương Thiên-Công tạo lập thành
Tượng đồ ứng chiếu khí thanh ,
Do trong khí tượng lập thành mỗi quan .
Trụ bốn điểm , Mẫu-Hoàng tượng ảnh ,
Tây-Vương Kim-Mẫu Thánh-Ðức truyền ;
Khí bạch sắc chiếu hườn nguyên ,
Huyền , Hồng , Rhanh , Bạch , tứ kiền phô trương ,
Còn chính giữa trung ương là Thái-Cực ,
Ngài mới xưng danh Ðức Thánh-Hoàng ;
Ðó là ngũ-Khí gia ban
Triều-Ngươn trưng tượng Thánh-Hoàng tá danh .
Các vé thi bài trên do Thiện Hỏa Chơn Tiên trong phái Tiên Thiên Hư Vô Tam Thanh Bửu Ðiện giáng cơ dạy nơi trường Ðông Chí năm Canh Tuất 1970 để chứng minh cho những hình đồ từ chuyễn lập thành Trời Ðất trong Tam-Hoàng Thiên-Kinh
Về phần Cửu Chuyển lập thành Trời Ðất và sanh hóa muôn loài trong cơ Tạo-Hóa
và hóa sanh vạn vật đó vậy . Nên ngưòi tu cần cho hiểu biết cơ
Trời Ðất rồi mới rỏ cơ thể con người hầu ráp máy Thiên Cơ mà đắc thành quả vị .
Vì Trời Người đồng nhứt lý , nên người tu luyện cần phải học hiểu cho tột lý , mới thông cơ Tạo Hóa mà hành theo Thiên Lý lưu hành , mới mong thành đạt được .
Vì trong cơ tạo Thiên lập Ðịa do Ðức Ðạo Tổ Thái Thượng dùng cơ động tịnh mà phân lập Lưỡng Nghi , Tứ Tượng , Ngũ Hành thành Bát Quái , xong rồi mới có ngày , đêm , sáng tối để dưỡng dục muôn loài .
Ngài là Giáo Chủ đạo Tiên , nếi ai tu hành theo Tiên Ðạo cũng phải tuân y theo luật tuần hườn của Thiên-Cơ diệu-lý mới được cho .
Người tu đến mức nầy gọi là :Ngũ-Khí Triều-Ngươn , hay là Ngũ-Hành Hiệp-Nhứt .
Cơ Lục , Thất , Bát , Cữu -chuyễn lập thành .
Bát-Quái Tiên-Thiên hóa sanh vạn vật muôn loài .
Lục-Chuyễn : thành Càn , Khôn ,
Thất-Chuyễn : thành Ðoài , Cấn ,
Bát-Chuyễn : thành Ly , Khảm ,
Cữu-Chuyễn : thành Chấn , Tốn .
Hình đồ số 6
Bát-Quái Tiên-Thiên
Khi lập ngôi thứ nhứt Ðức Thượng Ðế là ngôi Thái-Cực rồi lại động sanh dương làm hỏa , mà Hỏa là Thần-Linh của Ðức Thượng Ðế . Vì vậy mà đơn-thơ gọi Ðức Thượngt Ðế là Môc , vì Mộc năng sanh Hỏa . Rồi đến cực Tịnh mà sanh Âm , thuộc Thủy , mà tịnh tức là Chơn-Linh của Ðức Diêu-Trì Kim-Mẫu , là Mẹ linh-hồn của chùng sanh . Vì Kim năng sanh Thủy nên kêu Kim-Mẫu tức là Mẹ vậy .
Ngôi thứ nhứt của Thượng Ðế là ngôi Thái-Cực sang ra , hình tượng nó tròn ở giữa lằn trong vòng Vô-Cực ( vòng tròn có một chấm ở giữa ).
Âm -Dương mới giao cảm cùng nhau mà sanh vạn vật , lớn nhhút như Càn-Khôn Vũ-Trụ , nhỏ nhứt tế -vi nhứt như một tế bào cũng phải chịu dưới nhị thể của Âm-Dương giao cảm , đặng làm căn bản cho Ngươn Khí , rồi cứ vận chuyễn trong ngôi Thái Cực, một Ðộng một Tịnh mà sanh ra hai Ngươn-Khí : là Thái-Âm và Thái-Dương , là Càn tam liên (3 gạch dài ) , Khôn lục đoan ( 6 gạch gắn ) , hai khí ấy cũng giao cảm mà sanh ra hai khí Thiếu-Âm trung-hư , là quẻ Ly và Thiếu-Dương trung mản là quẻ Khảm ,hiệp lại hai quẻ Khảm-Ly đối diện và kết lại với hai khí Thái-Âm và Thái-Dương làm thành ngôi Tứ-Tượng ra Bát-Quái Tiên-Thiên mà tạo thành Càn-Khôn vũ-trụ cùng vạn vật muôn loài .
Khi lập thành Bát-Quái xong rồi Ðức Thưọng-Ðế mới tuần tự cho Bát-phẩm Chơn-Hồn xuống đầu thai trong thế giới hữu hình nầy mà tiến-hóa học hỏi cho khôn ngoan , đến khi nào được chí-thiện , chí-mỹ sẽ trở về nguyên vị mà hiệp nhứt với Ðại-Linh-Quang của Thượng-Ðế .
Bát-Phẩm Chơn-Hồn do là :
1-Vật-chất hồn
2-Thảo-mộc hồn
3-Thú-vật hồn
4-Nhơn-hồn
5-Thần-hồn
6-Thánh-hồn
7-Tiên-hồn
8-Phật-hồn
Từ đó Ðức Thượng Ðế mới hóa Chơn-Linh phân ra làm 12 vị Chơn-Nhơn để cai trị Thập-Nhị-Thời-Thần là :
Tý , Sửu , Dần , Mẹo , Thìn , Tỵ , Ngọ , Mùi , Thân , Dậu , Tuất , Hợi , đó cũng là 12 Ðịa-chi vậy .
Vì thế mà con số 12 là số riêng của Thượng-Ðế .
1- Trên Trời có :
Nhựt , Nguyệt , Tinh , Thần , Phong , Vân , Lôi , Võ
2- Dưới Ðất có :
Sơn , Xuyên , Thảo , Mộc , Kim , Thạch , Hườn , Châu
Do Bát-Phẩm Chơn-Hồn sanh ra trước hết là vật-chất Kim-thạch núi non sanh Kim-loại , Kim sanh Thủy là rịnh ra nước thành sông rạch biển cả .
3- Có nước rồi Thảo-Mộc hồn mới sanh cây cối lâm-tòng , cỏ hoa đủ loại mmói có sâu bọ dế trùng .
4- Thú-vật hồn : Trong các loại cây cối nước non đất đá tổng-hợp tinh hoa , liên hòa cùng Âm-Dương mà biến sanh ra phi-cầm , tẫu-thú , từ Tý-Hội và Sữu-Hội đến Dần-Hội ,
Trời sanh người : Nhơn-Hồn
5- Ðến Dần-Hội thì Ðức Thái-Thượng vận chuyễn Ngũ-Hành , khai Thiên tịch Ðịa xong rồi kế Nhơn-Hồn xuất thế , là Ðức bàn Cổ Thuần-Dương thủ xuất trong đá nở ra làm căn cội cho loài người do hai khí Âm Dương họp lại lâu đời mà thành Tiên sanh Chơn-Nhơn vậy .
Là bậc hữu căn hữu phước , nhớ bổn-nguyên xưa , hay nương theo Ðạo mạch phản-bổn hườn-nguyên , phục-hồi Thượcg-Cổ , thì trước tầm học chơn-truyền Bá-Nhựt Trúc-Cơ , phân hào , định quái , chiết Khảm , điền Ly cho càn-Khôn định vị cữu chuyễn hoàn đon , song tu tánh mạng , bế tử lộ , khai sanh môn mà qui hồi cựu vị , đền trả nợ tứ ân , cứu cữu-huyền , độ Thất-Tổ , đồng siêu thăng về Cực-Lạc . Ðó là thuận-tùng Thiên-Lý .
Tóm lại , nay đã đến thời Mạt-hạ , Thiên khai Huỳnh-Ðạo tức đời tận diệt , Hạ-Ngươn cuối tận , thì con người cần phải tịnh tu cho thuận theo Thiên Lý , nếu không sẽ bị tán tiêu theo lằn âm-khí trong lò Hậu-Thiên Bát-Quái của thế hệ vật-chất điêu tàn , nên người cần phải học hiểu máy Trời mà cầu phương giải thoát mới được chứng quả an-nhàn mà tiêu-diêu tự-toại