BỘ PHẬN SIÊU THIÊN
CƠ GIÁO TRƯỜNG SIÊU NHIÊN

       Đêm 14 / 6 Tân Mão 2011

TÌNH THƯƠNG, TÌNH NGƯỜI

                  Thi
Đông Tây kim cổ rực ngời linh,
Phương định Âm Dương thế giới bình.
Chưởng chấp huyền cơ thông máy nhiệm,
Quản truyền siêu lý tuyệt vời minh.

Đông Phương Chưởng Quản ngự Siêu Thiên,
Mừng các nguyên căn trước bệ tiền.
Miễn lễ tọa an nghe lý diệu,
Hồng ân cao cả vẹn tâm nguyền.

                 Thi Bài

Giờ ân chuyển sáng ngời cao cả,
Được ban truyền hiển hóa đêm thanh;
Lời châu tiếng ngọc ghi rành,
Gọi là ân tứ đạt thành cao siêu.
Vì tất cả mọi điều tâm hướng,
Biết bao phần chấp chưởng đề khai;
Bởi trong ý thức Cao Đài,
Quy Tam Hiệp Ngũ của ngày Thượng Ngươn.
Không còn phải chập chờn suy tưởng,
Mà phải làm việc hướng ra xa;
Làm cho ánh sáng chương tòa,
Hiện trong lý diệu chiếu lòa hồng quang.
Vậy cần phải rõ ràng danh phẩm,
Chọn nhân tài ghi đậm bảng danh;
Đại Đồng Nguyên Lý thực hành,
Phải thông thấu triệt rõ rành chân nguyên.
Người Đại Đồng gieo duyên Nguyên Lý,
Người không thông bí chỉ khó tầm;
Làm sao cho được cao thâm,
Đồng thông hòa nhập tri âm kết nguyền.
Để đạt đúng kỳ duyên tương hội,
Biết bao điều chuyển lối đề khai;
Chơn như ứng chuyển trong ngoài,
Vận hành kim cổ, chuyển xoay thường hành.
Còn bao việc sắp rành hơn nữa,
Mỗi nhân hiền đã hứa gắng lo;
Nhưng mà trong việc dày dò,
Bởi vì Nguyên Lý sánh so ít nhiều.
Chưa thông tận những điều Nguyên Lý,
Nói Đại Đồng mà nghỉ cá nhân;
Nói tâm quy hiệp chuyển lần,
Mà không hòa nhập tinh thần, hữu vi.
Phân Đạo chơn luận kỳ bí yếu,
Nghiệm tình thương nương niếu vẫn đồng;
Nhưng mà tâm chẳng đạt trong,
Nhưng mà chưa hiện những phần hòa minh.
Dạy hòa nhập sao mình chờ đó?
Đứng bên ngoài đâu rõ bên trong;
Nói sai Nguyên Lý Đại Đồng,
Làm sao hiệp Ngũ quy Tam được nào?
Thầy đã hiện tầng cao soi sáng,
Dạy dắt đồng con rán cùng nhau;
Nhưng rồi từng bước lược thao,
Đàn con trẻ dạy thuở nào quẩn quanh.
Khiến Thầy Mẹ cũng đành nhắc mãi,
Biết bao giờ trống trãi tâm tư;
Nhân hiền phải rán tầm cư,
Nhân hiền phải rán để từ thời lai.
Từ định hướng miệt mài thêm nữa,
Phải giữ gìn, phải hứa thông chương;
Làm sao đạt được lớp tuồng,
Nguồn ân soi đậm cội nguồn duyên xưa.
So sánh chỗ Tam Thừa thì biết,
Nhìn bề ngoài đâu thiệt giả phân;
Cho nên Đạo ở tinh thần,
Bề ngoài màu sắc hiến dâng tạm thời.
Đường Thượng Ngươn Đạo Đời quy thống,
Lọc lừa ra khoảng trống hư linh;
Để xem mối Đạo thâm tình,
Còn bao nhiêu việc soi mình thiệt hơn.
Biết sự việt nguồn cơn định đoạt,
Qua những thời gieo hạt viên minh;
Để soi sáng tự lấy mình,
Để làm nên việc thông tình Thiêng Liêng.
Hởi nhân sĩ Khôn Kiền giao hiệp,
Là triển khai cho kịp bên trong;
Chờ trông giống Pháp gieo trồng,
Gieo trồng là đạt chữ đồng thông lưu.
Đó mới gọi rằng tu bản thể,
Đó cũng là bảo vệ linh đơn;
Cho nên ánh sáng chập chờn,
Hiệp thông nhất lý phục huờn sáng hơn.
Mới thấy được nguồn ơn điểm tứ,
Mới thấy phần Thầy ngự giác tâm;
Cho nên sự việc âm thầm,
Mà làm nên việc thâm trầm cao siêu.
Tu thì được dắt dìu hướng thượng,
Nếu biết mình tư tưởng vương lên;
Làm sao cho được vững bền,
Làm sao để được lập nên vai trò.
Đừng phân biệt so đo thêm nữa,
Công quả nầy phải hứa sáng gương;
Để mà hướng đến cội nguồn,
Để mà hiến trọn tầm phương về Thầy.
Từ bước đi đủ đầy âm đức,
Mới thấy rằng Thái Cực sáng trưng;
Đó là đường hướng không dừng,
Bước đi tiến hóa tập trung về Thầy.
Ai cũng có đủ đầy Tam Bửu,
Nhưng vơi mòn hay tựu tích thêm;
Cũng do mình biết chọn kềm,
Làm sao cho được ngày thêm đủ, nhiều.
Thì phải biết xoay chuyển hướng,
Chuyển bên ngoài thì tưởng đặng chi?
Đó là tư tưởng cao nghi,
Luôn luôn vận chuyển ở thì bên trong.
Tưởng không thông, Đại Đồng chẳng đạt,
Đạt nghĩa là phải thoát ngoài trong;
Ngoài trong mới thấy Đại Đồng,
Đại Đồng không chỉ hoát thông một chiều.
Nay sự việc tình yêu của Đạo,
Nhắc nhở chung duyên khảo gắng bền;
Bởi vì khảo thí làm nên,
Vai trò đứng vững, nhờ bền luyện nung.
Luyện cho chí đại hùng thêm chắc,
Luyện cho phần sắp dặt thước nghi;
Từ nơi ý thức kiên trì,
Cũng như điểm định ở thì Hư Cung.
Nhờ luyện nung trùng phùng bổn vị,
Nhờ trui rèn ý chí hoát thông;
Cho nên thấy được Đại Đồng,
Cho nên tìm được chữ không của mình.
Không của mình thông tình đạt lý,
Thông những phần bổn vị căn cơ;
Bổn không mới thấy là bờ,
Bổn không mới thấy cậy nhờ duyên xưa.
Còn tu tỉnh rước đưa bề thế,
Thì chỉ như bảo vệ bên ngoài;
Làm sao thấy được Như Lai,
Làm sao thấy được duyên hài cội xưa.
Tu phải chuyển Thượng Thừa trong đó,
Tu phải cần nhìn ngó tập trung;
Làm sao rạng rỡ trùng phùng,
Bổn duyên căn vị nhiếp cung, tựu đài.
Nên không chỉ bề ngoài công quả,
Mà luyện nung chuyển hóa hồng từ;
Đó là Pháp Đạo Thiên Thư,
Đó là bí chỉ cũng như diệu thường.
Ngời sáng mãi Âm Dương Chi Khí,
Luật chuyển đồng bổn vị hồi nguyên;
Cho nên căn vị tâm thiền,
Thiền tâm là giữ bí truyền bên trong.
Giữ bên trong cho lòng sáng mãi,
Tam Bửu nầy thư thái còn nguyên;
Nhưng mà chưa luyện bí truyền,
Làm sao nhiếp phục diệu huyền bên trong.
Gìn giữ Pháp, gieo trồng giống Pháp,
Chuyển Tâm Điền hòa ráp siêu linh;
Cho nên cái việc hữu hình,
Mà chưa kịp bước đăng trình vô vi.
Bởi quá trọng những gì hữu thể,
Mà quên đi đặt để vô vi;
Quên đi cái chỗ Huỳnh Kỳ,
Trung Ương Nhứt Khiếu mới quy về Thầy.
Đạo duyên mục, Như Lai duyên mục,
Lý thường nhiên trong đục cũng đồng;
Bởi vì tìm được chỗ không,
Thì không thanh trược, cũng đồng trước sau.
Luyện Pháp Đạo tối cao, tối diệu,
Càng thấy mình rạng chiếu hồng ân;
Cho nên mọi việc dương trần,
Mới hay tạm giả chỉ cần thời gian.
Rồi trả lại cho đàng hậu tấn,
Tiếp mượn nhờ để phận an nhiên;
Nhưng mà chủ ở Ngươn Điền,
Mượn thân để luyện tâm nhiên mới là.
Còn sự việc tinh hoa yếu lý,
Của ngay về cựu vị bổn ngôi;
Làm sao cho việc xong rồi,
Tính sao cho được phục hồi duyên quê.
Bao Tôn Giáo nặng nề trách nhiệm,
Rồi quên lo tự kiểm điểm mình;
Bởi vì ôm cái rộng thinh,
Tưởng là sự việc của mình lớn hơn.
Nhưng thoát khỏi tự nguồn Tôn Giáo,
Thấy bên ngoài, thấu đáo bên trong;
Rộng tràn sự lý gieo trồng,
Nguồn ân đại điểm, hư không rộng tràn.
Đời hay Đạo việc làm như nhứt,
Mới biết rằng bỉ cực, thời lai;
Đạo lo tâm hứơng diệu đài,
Đời lo công cuộc chuyển xoay phận hành.
Đời việc hữu đề danh phương diệu,
Đạo huyền cơ bí yếu toàn nhiên;
Đạo Đời kết hợp chơn thiền,
Toàn thông bí chỉ diệu huyền cao siêu.
Cơ siêu dạy những điều bí chỉ,
Cho những người nguyên vị linh căn;
Làm điều mật nhiệm hóa hoằng,
Những vai trọng trách nguyên căn thế nào.
Vai Tôn Giáo tạo đào nhiều lắm,
Vai Đại Đồng suy gẫm mới đây;
Cơ Thiên cần việc thế nầy,
Nhưng người hiến trọn tâm đây khó tìm.
Thoát Tôn Giáo mới huyền diệu ứng,
Làm Đại Đồng tâm vững keo sơn;
Thoát đi những chuyện tuần huờn,
Thoát đi những việc mình còn tưởng thông.
Thông cái chỗ Đại Đồng để thoát,
Thoát cái phần đã đoạt ngoài trong;
Ngoài trong chưa phải Đại Đồng,
Vì chưa thoát được sự trong và ngoài.
Đời có tượng hoằng khai bí chỉ,
Của việc Đời ngôi vị Thượng ngươn;
Thượng Ngươn không thiếu phục huờn,
Những người căn vị nguồn cơn lẽ nào.
Nên định đoạt thấp cao siêu lý,
Còn nhận ra bí chỉ hư linh;
Tu là tự giác lấy mình,
Để làm gương mẫu cho nghìn nhân sanh.
Đạo ngời sáng tinh anh cao cả,
Gìn công trình, công quả, công phu;
Đó là phương tiện đường tu,
Để mau kịp bước mặc dù thời lai.
Còn chuyển vận nhiều bài hơn nữa,
Nhưng trước cần sự hứa mẫu gương;
Trước vô vi, trước diệu thường,
Trước bao cơ cuộc đảm đương Đạo Đời.
Đời cũng luật của Trời ban xuống,
Đạo cũng là muôn lượng hồng từ;
Để rồi kết lại Thiên Thư,
Mà làm công việc cho từ Thựơng Nguơn.
Đời thượng Ngươn nguồn cơn đời ấy,
Đã lọc lừa tìm thấy đời thanh
Đời không còn chuyện tranh giành,
Đời không còn chuyện mối manh gạt lường.
Đời bền vững tình thương đoàn kết,
Đời chung giây, chung hết sức mình;
Để mà rạng rỡ thâm tình,
Để mà soi sáng công bình, trí tri.
Đời ấy mới xứng thì với Đạo,
Đạo Đời chung thành tạo Cơ Quy;
Cơ Quy không phải những gì,
Hiệp trong tất cả lại thì một ngôi.
Mà quy ở Đạo Đời tư tưởng,
Quy các Cơ chung hướng tình thâm;
Tình thâm là gốc diệu trầm,
Sinh ra muôn vật tri âm vẫn đồng.
Chữ tình thương sáng trong muôn cảnh,
Chữ tình thương so sánh mới đồng;
Nào đâu hai chữ tình thương,
Mà phân màu sắc Âm Dương lẽ gì?
Luật chuyển đồng thước nghi bền vững,
Cho biết rằng tiêu chuẩn định đoan;
Hôm nay cơ cuộc soi đàng,
Cho người căn vị, linh căn thệ nguyền.

Từ ý nghĩa vận chuyển của cơ huyền diệu siêu linh, mà hôm nay tất cả các nguyên căn linh vị đã được sự chuyển của vô vi trong ngày quy tựu nầy, đó cũng là cái duyên tiền định được khơi lại những màu sắc duy nhất thành chung khối tình thương cao cả.
Từ xa xưa có biết bao những nguồn mạch sống đã được Cơ Thiên vận chuyển để điều động tài hiền, nhưng rồi đi lệch con đường mà chuyển nguồn mạch sống ấy để làm rạng cái duyên Đời theo lẽ thường tình, mà không chuyển cái duyên Đời theo đường hướng Đạo.
Đời là một phương diệu nó đồng hàng với Đạo khi Đời ấy được thanh lọc một cách trong sáng, nó thể hiện vai Âm, Đạo là một lý diệu bên trong thể hiện vai Dương. Âm Dương là quy luật chung nhất để chuyển hướng Đại Đồng, Đại Đồng có nhiệm vụ giữ vai trò bên ngoài có Đời đảm trách, vai ở bên trong do Đạo đảm trách.
Đời Thượng Ngươn Thánh Đức là một cuộc đời được tiến hóa nâng cấp, khi đã trãi qua sự tu luyện của các thời kỳ,thời đại, sự đắc nhứt của các Tôn Giáo đã tạo thành một khối Đại Đồng Nguyên Lý hợp cùng toàn dân tư tưởng thiện lành, tạo thành một khối Xung Thiên lớn rộng trùm phủ; Khối Xung Thiên đó nhiều nhất là ở Việt Nam Thánh Địa nầy, cho nên Việt Nam Thánh Địa có nhiều bậc chơn tu rạng sáng tánh lành, tức là bậc hiền nhân thì rất đông. Nguồn điển Xung Thiên phủ trùm làm sức hút các nơi, cho nên xứng đáng là một địa linh mẫu mực. Chỉ có một đất nước Rồng Tiên mẫu mực, cũng là một Quốc Đạo. So với những Quốc Đạo của nhiều đất nước khác thì Quốc Đạo Việt Nam là Quốc Đạo Rồng Tiên, một Quốc Đạo có một mối Đạo do Thầy đích thân ban truyền, mà không mượn tay phàm khai hóa. Chẳng những Thầy đã đích thân truyền Đạo mà còn gôm các nguồn giáo lý xa xưa để kết tinh lại mà chuyển hóa ban chung đồng thọ hưởng cái tinh hoa của Tam Giáo Ngũ Chi.
Có biết bao nhân hiền căn cơ sứ mạng làm nhiệm vụ trong Tam Giáo. Đạo Thầy rất thông thuộc về từ ngữ Quy Tam Hiệp Ngũ nhưng sự chuyển thì còn rất hạn chế nhiều hình thức trong và ngoài. Bên trong nói về Pháp Đạo gôm Tam Bửu kết tựu Âm Dương. Còn Tam Ngũ bên ngoài chính là sự hòa nhập các Tôn Giáo, thế nhưng sự hòa nhập lại đổi thành sự phân biệt, đến 86 năm đã trôi qua sự hòa nhập kia vẫn chưa đạt được, thì làm sao chuyển đến chỗ Đại Không, làm sao chuyển thành Tối Đại Không, dù Đại Không hay Tối Đại Không thì nền tảng nó vẫn là sự hòa nhập, hòa nhập là không phân biệt. Đem tình thương để hòa nhập chớ không thể lấy mình làm lớn rồi muốn thu hút nhiều Cơ nhiều Mối để gôm về một màu sắc của mình đang có, vì sự hòa nhập đó chưa phải là ý nghĩa của Quy Tam hiệp Ngũ mà Thầy Mẹ đang chuyển hóa.
Chuyển hóa sự hòa nhập là mình biết hòa mình trong tất cả các màu sắc để mà lo lắng, trợ duyên, thúc hối cho các Cơ, mỗi Cơ đều đạt được tình thương; mỗi cơ đều hăng say tiến hóa theo con đường mà mình đang gánh vác; mỗi Cơ đều giữ màu sắc của mình ngày thêm rực rỡ.Như vậy mới là sự tinh hoa được tìm lại đúng ý nghĩa mà Thầy đang kết hợp.
Hởi các chư hiền nguyên căn sứ mạng! Cái nhiệm vụ Tôn Giáo xưa nay có biết bao hàng Giáo Chủ đã lãnh lịnh trước Thầy để làm công việc của mình đang gánh vác. Dù Từ Bi Bác Ái Công Bình là 3 yếu tố để chuyển cho sự thông đạt bí yếu cơ huyền mà tiến hóa, nhưng còn phân biệt sự Từ Bi Bác Ái Công Bình ở điều nầy cao hơn điểm kia, điểm kia cao hơn điểm nọ thì chẳng khác nào phân biệt trong bộ phận của mình từ Huyền Linh Đài, Diệu Pháp Đài, Thông Thiên Đài; hay nói Tiểu Châu Thân từ Thượng Tiêu, Trung Tiêu, Hạ Tiêu. Nơi nào là quan trọng nhất? Đâu cũng là luật tuần huờn Thiên Địa, đâu cũng là sự chuyển của Cơ Linh. Dù Huyền Linh Đài hay Hạ Tiêu từ Nguơn Điền trở xuống, hay từ Nguơn Điền lên Trung Khuyết của Diệu Pháp Đài, hay từ Trung Khuyết lên Thượng Khuyết của Thông Thiên Đài, 3 bộ phận nầy khác nhau ở trên, ở giữa, ở dưới, trên dưới phân biệt rõ ràng, nhưng điểm nào cần nhứt? Điểm nào quan trọng nhất? Cái luật Công Bằng, Từ Bi, Bác Ái không phải là phân định lớn nhỏ mà chỉ phân vai trò phải làm gì cho cơ thể, ai cũng nói lên được cái tư tưởng Tình Thương Yêu như lời thầy đã dạy, nhưng mà nói đến bài Tình Thương Yêu chẳng khác nào nhắc đến cái nguồn cội tương lai muôn lòai vạn vật, chỉ có Tình Thương Yêu mới là nguồn cội, vì không có Tình Thương Yêu thì Tạo Hóa không sanh sản ra muôn loài vạn vật, con người sanh sản ra tôn tử của mình mà nối tiếp nhau từng hàng tôn tử. Tình Thương Yêu là nguồn gốc tất cả; Tình Thương Yêu hòa trong cả hư linh vũ trụ. Nói đến Tình Thương Yêu là biết nhớ lại nguồn gốc của mình; Nói đến Tình Thương Yêu là muốn nhắc lại cái tình thâm với nhau sâu sắc; nói đến Tình Thương Yêu là nhận định được cái việc chung nhất đã có rồi để không chia rẻ, luôn giúp đở lẫn nhau trên tinh thần tiến hóa; nói đến tình Thương yêu là nói đến sự nhận định về quy Tam hiệp Ngũ; nhớ đến nguồn gốc, ; nhớ đến tình thâm; nhớ đến tri âm Đạo Pháp; nhưng chỉ nói đến vẫn chưa đủ, mà cần phải làm thế nào để đạt được cái tri âm Đạo Pháp, cái tình thâm duyên thệ, cái bổn vị tiền căn của nguồn ân mạch sống, phương pháp làm được điều đó là phải hòa nhập, hòa nhập trong tất cả những gì là hiện trạng của sự việc.
Như vậy, Tình Thương là nguồn gốc để sinh sản, nhưng Tình người mới là điều thực tế nhứt để đạt được Tình Thương, vì Tình Người là biết hòa nhập trong mọi hoàn cảnh khó khăn đau khổ để trợ duyên và luôn tương trợ, tương thông cùng hướng đến con đường tiến hóa cao cả.
Mục Đích Tình Thương, Tôn Chỉ Tình Người là Nguyên Lý tuyệt vời của Đại Đồng vận chuyển mà Thầy Mẹ đã định đặt để tất cả thấy rằng sự quy hiệp Tam Ngũ không phải quy nhiều màu sắc thành một, mà biết nhìn chung Tình Thương Yêu, Mục Đich tình Thương, Tôn Chỉ Tình Người là Nguyên Lý tuyệt vời của Đại Đồng mà Thầy Mẹ đã định sẳn, để cho tất cả thấy rằng sự quy hiệp Tam Ngũ không phải quy nhiều màu sắc mà thành, mà biết nhìn chung Tình Thương Yêu, biết hòa nhập trong Tình Thương Yêu đó để nhắc nhở lẫn nhau, đó cũng gọi là Tình Thương Nguyên Lý.
Nguyên Lý Đại Đồng được dẫn hướng chỉ đường những gì là Tính Chất Đại Đồng cao cả, soi sáng tận chí thành, tâm pháp, khơi lại những nguồn ân nguyên bổn xa xưa.
Đâu cũing là căn cơ sứ mạng, nhưng khác nhau là căn cơ nầy chuyển nhiều kiếp, nhiều đời, căn cơ kia thì chưa từng trãi, căn cơ nọ trãi qua nhiều diều thanh lọc . Tất cả đều nằm trong sự vận chuyển của vô vi. Cũng như hôm nay một nhân hiền Thanh Tâm cùng gia đình trên dưới đồng tâm về đây để cầu được siêu điển soi rọi trong gia đàng. Đây cũng là việc cơ duyên, không phải ngẫu nhiên mà có.
Một tình thương trong gia đàng được soi rọi bằng ánh sáng huyền diệu, đó là nói lên một ý nghĩa tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời của một nhân hiền trong gia đàng là vị Phối Sư Ngọc Văn Thanh đã liểu đạo vào ngày 11 tháng 8 năm 2001. Qua thời gian để được trình Thầy và lập công thêm ở phần vô vi cao cả, cũng như sự luyện Pháp Đạo ở Trung Giới, cho nên vị nầy cũng được những hồng ân đặc biệt, được Thầy kêu gọi về trước điện Hư Cung để thọ truyền mật nhiệm thừa hành, Đó chính là hồng ân tuyệt quý,soi lại những bước đường bổn vị căn xưa, vì từ bổn vị căn xưa cho nên đã có được nhiều công đức để lên hàng Chức Sắc, Chức Phẩm trong nền Đại Đạo của Thầy mà đạt được những điều cao cả, cũng là một tấm gương cho gia đình, một tấm gương cho hậu thế, cho bổn Đạo, nhân sanh.
Thời gian trôi qua tuy chẳng bao lâu nhưng cơ cuộc vận chuyển sứ mạng mật nhiệm cũng được ban truyền hợp thức, đó là sự vận chuyển lớn. Qua 81 ngày, từ ngày liểu đạo được Thầy kêu gọi và chính thức ban sắc phong mật nhiệm Đai Đồng và ban phong đắc vị là Hồng Liên chơn Tiên, hiện đang làm trong mật nhiệm Đại Đồng,thường thôi thúc trong gia đình kêu gọi bằng tinh thần Đại Đồng. Tuy ở trong Tôn Giáo nhưng mà tâm thì thoát tất cả các Tôn Giáo để đạt được cái điểm vị quý báu trong sứ mạng mới mẻ mà Thầy Mẹ đang cần. Sự thôi thúc kêu gọi tuy không trọn vẹn, nhưng cũng có vài gương mẫu trong gia đàng, đó cũng là đạt được hồng ân để kết hợp về đây. Bước kế tiếp cần phải soi sáng nhiều hơn nữa cho những tấm gương gia đàng mà hàng tử tôn đã được sự thôi thúc nhắc nhở của Tiên vị nầy.
Thời gian trôi trãi cũng có một nhân hiền Nguyễn Thị Tám liểu đạo, qua 381 ngày đã được đắc phong là Bát Linh Thần Nữ , cho đến ngày hôm nay cũng còn làm những công việc ở tại trần gian bằng điển linh, chưa về thẳng bổn vị ngày xưa, là còn chờ ngày tử tôn tiếp sức hộ trì cho phần điển lực của mình, nhứt là phục vụ Long Thành Đại Đồng Nguyên Lý để trở về bổn vị Tiên Nữ ngày xưa, ngày mà hồng ân cao cả là những gì soi sáng trong gia đàng.
Hãy xem lại những kỳ diệu đã có tượng hình nhất là ngày mùng 2 tháng 3 năm 2002, và một điểm tượng trong gia đàng cũng soi sáng vào ngày rằm tháng 9 năm 2007 để thấy được những gì sự kêu gọi của Ngọc Văn Thanh và Nguyễn Thị Tám. Biết được điều cao cả nầy thì phải nhắc nhở cùng nhau trong gia đàng làm sao cho xứng đáng vai trò là người nối truyền truyền thống ông cha để lại, để mà mở mang cơ nghiệp, đáp ứng theo nhu cầu cần thiết, nhứt là con đường mà bậc Tiền Bối đã làm chưa trọn vẹn, để nối tiếp bước đường. Đặc biệt hôm nay là ngày nối tiếp những sự việc vô vi nằm trong phần nhiệm Đại Đồng. Nơi đây cũng là cơ sở để vận chuyển lớn rộng sau nầy về đường hướng Đại Đồng mật nhiệm Cơ Thiên, cho nên trong gia đàng phải cố gắng vì tất cả những tình thâm của Thầy Mẹ; vì những sự căn cơ của Gia Tộc; vì sự truyền thống Đạo Đức của gia trung mà cố gắn. Gần đây sẽ được hội tựu một ngày để thâm tình gặp gỡ, nhưng trước hết cần phải thể hiện những gì để mà chung sức chung lòng trong sự mong mõi của Thầy Mẹ, của Vô Vi, vì Cơ Thiên gắp rút cần tạo cho được một cơ sở vững chắc, làm lớn rộng con đường Liên Giao Đời Đạo. Đây cũng là con đường duyên lành sứ mạng, mà từ xưa đến nay nó không nằm trong một bài bản nào của mọi Thánh Giáo Thánh Ngôn; nó cũng không nằm trong bài bản nào của các Tôn Giáo, vì đây là một điểm chuyển mới Nguyên Lý Đại Đồng để cơ cuộc vận chuyển kịp thời cho ngày Thượng Nguơn Thánh Đức, một bộ phận vận chuyển chủ lực Đại Đồng, vận chuyển trọng đại Vô Vi, Hữu Vi. Con đường vận chuyển càng ngày càng mạnh mẽ, dù ai có tham gia tích cực hay ai còn ngần ngại chưa chịu tiến bước vận hành, nhưng Cơ Thiên vẫn mãi tiến bước, vẫn mãi đi lên không hề dừng nghỉ, để cơ cuộc ngày càng đạt được đúng với sự vận chuyển của Cơ Thiên.
Tất cả mọi nơi, nơi nào cũng là sự vận chuyển của Cơ Thiên, nhưng điều quan trọng là Cơ Thiên định vị, Cơ Thiên chuyển Âm Dương mà luân hành điểm tựu như thế nào. Sự cần của Cơ Thiên là cần những bàn tay đắc lực trợ vào những vai rất khó, rất quan trọng nhưng ít người làm được, ít người hiểu đến; Sự cần của Cơ Thiên là cần những công việc mới mẻ, lớn rộng và thoát hóa hoàn toàn để phá đi những trụ chấp của cái thông mà chưa được thóat. Thông thì rất nhiều trong tất cả những màu sắc nhưng ôm cái thông đó để rồi cứ dẫm chân tại chỗ không tiến được mạnh mẽ thì làm sao mà kịp sự chuyển hóa của Cơ Thiên. Con đường vận chuyển lúc nào cũng là một sự điểm chuyển cực kỳ quan trọng đối với một nền tảng Quốc Đạo tại Thánh ĐịaViệt Nam, dù có nhiều bài học cho thế gian để mà tỉnh thức, giác ngộ làm những công việc cho kịp thời vận chuyển vô vi, thì bài học điển hình đó thường vào ở những nơi khác, những đất nước khác, còn địa linh Rồng Tiên, nơi mà Đài Báu Nguyên Sinh ứng hiện để Đức Di Lạc Phật Vương điều động toàn Thế Giới; nơi mà Thầy ngự mở ra cùng một lúc nhiều Cơ Đạo: Cơ Đạo Tổ Tiên Chính Giáo Đại Đạo Sinh Tồn, Cơ Thiên Khai Huỳnh Đạo. Hai Cơ Đạo nầy tuy ra sau Đạo Cao Đài nhưng cũng do Thầy dùng huyền cơ diệu bút mà thành lập, đó cũng là một vai trò trong thời nhiệm, và luôn được ứng chuyển cho ngày Thượng Nguơn Tánh Đức. Một sự hoằng dương của nhiều Pháp Đạo, mà đặc biệt cơ vận chuyển vô vi để định hình nhiều bài bản khác.
Vậy các nhân hiền cố gắng suy nghiệm cho tận cái lý Đại Đồng mà đạt được công cuộc của vô vi đang cần thiết trước mắt những gì cần phải tranh thủ, tập trung để lo cho cơ mầu nhiệm vô vi.
Mãn giơ, Lão chào và ban hồng ân chung tất cả các nhân hiền.

Ngâm
Huyển cơ hiển hóa soi đường,
Cảnh thanh ân tứ diệu thường triều nghi.
THĂNG./…

Trở Lại Mục Lục