Đan cơ quy nhất luận

                    

丹基归一论
Đan cơ quy nhất luận

古人有言:得其一,万事毕。噫!诚哉是言也。此吾所以刻丹经之繁芜,标紫书之枢要,盖为是也。一也者,金丹之基也。实千经万论之原,千变万化之祖也。以要 言之,天魂地魄即日精月华也,红铅黑汞即金精木液也,乌兔即龟蛇也,马牛即龙虎也,朱砂水银乃黄芽白雪之骨也,丹砂秋石乃白金黑锡之由也。别之为男女夫 妇,体之为金木水火,类之为青幽徐扬,象之为乾坤坎离。或曰河车者,或黄舆者,或有言交梨火枣者,或有言金砂玉汞者;又如丁翁黄婆之名,婴儿姹女之号,拆 为黑白,分为青黄;有如许之纷纷,其实阴阳二字也,是皆一物。
Cổ nhân có lời: đắc kì nhất, vạn sự tất. Ôi! Thành thực sao lời này. Ấy nên ta khắc Đan Kinh phồn tạp, nêu lên cái khu yếu của Tử Thư, là vì vậy. Nhất là nền móng của Kim Đan. Thật là nguồn của thiên kinh vạn luận, là tổ của thiên biến vạn hóa. Nói tóm tắt, Thiên Hồn Địa Phách là Nhật Tinh Nguyệt Hoa, Hồng Diên Hắc Hống là Kim Tinh Mộc Dịch, Ô Thố là Quy Xà, Mã Ngưu là Long Hổ, Chu Sa Thủy Ngân là xương cốt của Hoàng Nha Bạch Tuyết, Đan Sa Thu Thạch là là bởi Bạch Kim Hắc Tích. Phân biệt thành nam nữ chồng vợ, thể hóa thì thành Kim Mộc Thủy Hỏa, phân loại thành Thanh U Từ Dương , hình tượng thành Càn Khôn Khảm Li. Hoặc nói là Hà Xa, hoặc là Hoàng Dư, hoặc có nói Giao Lê Hỏa Tảo, hoặc có nói Kim Sa Ngọc Hống; cũng như những cái tên Đinh Ông Hoàng Bà, cái hiệu Anh Nhi Xá Nữ, mở ra thành Hắc và Bạch, phân ra thành Thanh và Hoàng; có đủ thứ loạn lên, kì thực hai chữ Âm Dương, đều là một vật.
谓如守一坛、戊己户、玄关一窍、玄牝之门、神水、华池、铅炉、土釜、朱砂鼎、偃月炉、中黄宫、丹元府、神室、气府、关元、丹田、呼吸之根,凝结之所,此又 皆一处也。复如冬夏二至、春秋两分、卯酉甲庚、弦望晦朔、子午巳亥、寅子坤申、二十四炁、七十二候,一年交合,一月周回,离坎之时,兔鸡之月,乾巽之穴, 二八之门,朝屯暮蒙,昼姤夜復,人不知以为果须依时按节,推气测候,分拆数法,准则铢爻,故曰“视土圭夜瞻刻漏”,谬之甚矣!
Gọi là Thủ Nhất Đàn, Mậu Kỉ Hộ, Huyền Quan Nhất Khiếu, Huyền Tẫn Chi Môn, Thần Thủy, Hoa Trì, Diên Lô, Thổ Phủ, Chu Sa Đỉnh, Yển Nguyệt Lô, Trung Hoàng Cung, Đan Nguyên Phủ, Thần Thất, Khí Phủ, Quan Nguyên, Đan Điền, Hô Hấp Chi Căn, Ngưng Kết Chi Sở, đây đều là một chỗ. Rồi như Đông Hạ Nhị Chí, Xuân Thu Lưỡng Phân, Mão Dậu Giáp Canh, Huyền Vọng Hối Sóc, Tý Ngọ Tị Hợi, Dần Tý Khôn Thân, hai mươi tư khí, bẩy mươi hai hậu, giao hợp một năm, một tháng quay vòng về, giờ của Li Khảm, tháng thỏ tháng gà, huyệt của Càn Tốn, nhị bát chi môn, triêu truân mộ mông, ngày Cấu đêm Phục Người không biết cho là cần phải y thời theo tiết, suy khí hậu, phân tách số pháp, chuẩn tắc thù hào, nên nói “nhìn Thổ Khuê đêm xem Khắc Lậu”, thật sai lầm vậy!
又岂知周年造化乃周身之精气,日夜时刻乃精气之变态也。其中有衰有旺,有升降,有浮沉,有清有浊,是以圣人以外象证之,殊不知天地气数在乎一时之功夫也。 所以中间有阴阳寒暑之证,有生杀盈亏之状;小则按百刻,大则如一年,只在一时而然也。然一时即一处也,一处即一物地。人知此之所以为一,则采取有法,运用 有度,斤两有则,水火有等,与夫抽添进退之妙,沐浴交结之奥,无不防危虑险也。若毫厘之失,则日月失道,金汞异炉。非知造化之深者,莫克知阴阳之义,如是 其秘也。一阴一阳之谓道,道即金丹也,金丹即道也。古仙上灵,诏人炼七返九还金液大丹者,故乃入道之捷径耳。故有“片饷功夫,自然交媾,回风混合,百日功 灵”之语。行之九月谓之九转,炼之一年谓之圣胎。此其所以隐而不露者,以上天秘惜,不欲轻泄此道耳。岂得无祸福于传授贤否之间乎?
Há có biết một năm tạo hóa nghĩa là Tinh Khí toàn thân, giờ khắc ngày đêm nghĩa là sự biến thái của Tinh Khí. Bên trong có suy có vượng, có thăng giáng, có nổi chìm, có trong có đục, đó là thánh nhân lấy hình tượng bên ngoài để chứng nghiệm, thực không biết khí số của trời đất tại công phu nhất thời mà thôi. Sở dĩ bên trong có chứng nghiệm về Âm Dương nóng lạnh, có tình tạng sinh sát đầy vơi; nhỏ thì án theo trăm khắc, lớn thì như một năm, thực chỉ tại nhất thời vậy. Mà nhất thời là nhất xứ, nhất xứ là chỗ nhất vật. Người biết lí do nó là Nhất, thì thái thủ có pháp, vận dụng có mức độ, cân lạng có quy tắc, Thủy Hỏa có cân bằng, với cái diệu của trừu thiêm tiến thoái, cái ảo diệu của mộc dục giao kết, không gì không phòng nguy lự hiểm vậy. Nếu sai một li, thì Nhật Nguyệt sai đường, Kim Hống khác Lô. Không biết sự thâm sâu của tạo hóa, chẳng biết được nghĩa của Âm Dương, như là bí ẩn vậy. Nhất Âm Nhất Dương gọi là Đạo, Đạo là Kim Đan, Kim Đan là Đạo vậy. Cổ tiên ở trên linh thiêng, dạy bảo người luyện Thất Phản Cửu Hoàn Kim Dịch Đại Đan, đó là đường tắt để nhập Đạo vậy. Nên có câu “Công phu chốc lát, tự nhiên giao cấu, hồi phong hỗn hợp, trăm ngày công linh”. Thi hành chín tháng là Cửu Chuyển, luyện một năm là Thánh Thai. Vì thế sở dĩ ẩn đi không lộ, vì trời cao giấu tiếc, không dám dễ dàng tiết lộ Đạo này vậy. Há được không có họa phúc khi truyền thụ lung tung sao?

既 以唾、涕、精、津、气、血、液为阴物也,又以泥丸、丹田、心、肾、脾、肺、尾闾、夹脊、口鼻,非真一处也,何从而知金木之所以间隔,水火之所以未济者?能 以一之一字订诸群经,参诸往哲;勿以神气为自然归复,勿以禅定为自然交合。审能如是,或恐暗合孙吴,而终非促百脉以归源,穷九关而彻底,三火所聚,八水同 归者也。至于神入气为胎,火炼药成丹,岂容易明?有曰神卫气者,有曰神凝气聚者,有曰神气自然归复者,皓首茫然,反起虚无之叹。夫岂知丹基之真一为妙哉? 若将游浮灵揖华佺于空蒙盲霭之上者,得一可以毕万,故作丹经归一论以付学者白玉蟾。颖川陈泥丸太乙刀圭之说传诸后。
Đã coi thóa, thế, tinh, tân, khí, huyết, dịch là vật Âm, lại coi Nê Hoàn, Đan Điền, Tâm, Thận, Tì, Phế, Vĩ Lư, Giáp Tích, Khẩu Tị, chẳng phải là Chân Nhất Xứ, theo đâu mà biết vì sao Kim Mộc ngăn cách, vì sao Thủy Hỏa vị tế? Có thể dùng một chữ Nhất mà bàn luận các Đan Kinh, tham khảo cái học giả xưa; chớ coi Thần Khí là tự nhiên quy phục, chớ coi thiền định là tự nhiên giao hợp. Có thể xét k ỹ như thế, hoặc sợ ngầm hợp Tôn Ngô, mà cuối cùng không hợp bách mạch để quy nguyên, không đến cùng Cửu Quan mà triệt để, Tam Hỏa tụ lại, Bát Thủy đồng quy. Cho đến Thần nhập Khí thành Thai, Hỏa luyện Dược thành Đan, há dễ dàng hiểu được? Có nói Thần bảo vệ Khí, có nói Thần ngưng thì Khí tụ, có nói Thần Khí tự nhiên quy phục, bạc đầu mà vẫn hồ đồ, phản lại than tiếc hư vô. Há có biết Chân Nhất của Đan Cơ là diệu sao? Như đem du phù linh cùng hoa thuyên lên trên chỗ mờ mịt mênh mông. Đắc nhất có thể tất vạn, nên viết Đan Kinh Quy Nhất Luận để trao cho người học là Bạch Ngọc Thiềm. Thuyết Thái Ất Đao Khuê của Dĩnh Xuyên Trần Nê Hoàn truyền lại lời xưa cho đời sau.

水调歌头———赠九霞子鞠九思
夺取天机妙,夜半看辰杓。一些珠露,阿运到稻花头。便向此时采取,宛如碧莲含蕊,滴破玉池秋。万籁风初起,明月一沙鸥。紫河车,乘赤凤,入琼楼,谓之玉汞,与铅与土正相投。五气三花聚顶,吹自然真火,炼得似红榴。十月胎仙出,雷霆送金虬。
Thủy điều ca đầu——— tặng Cửu Hà Tử Cúc Cửu Tư
Đoạt lấy Thiên Cơ diệu, nửa đêm xem chuôi sao. Một chút Châu Lộ, ai vận đến đạo hoa đầu. Liền hướng lúc này thái thủ, rõ như sen biếc ngậm nhụy, giọt nước phá Ngọc Trì mùa thu. Vạn âm thanh gió mới nổi, trăng sáng một hải âu. Tử Hà Xa, thừa Xích Phượng, nhập Quỳnh Lâu, đó là Ngọc Hống, cùng Diên cùng Thổ trộn vào nhau. Ngũ Khí Tam Hoa tụ đỉnh, thổi vào tự nhiên Chân Hỏa, luyện được như Hồng Lựu. Mười tháng Thai Tiên xuất, sấm sét tống Kim Cầu.

鹊桥仙———赠蛰虚子沙道昭
红莲含蕊,露珠凝碧,飞落华池滴滴,运归金鼎唤丁公,炼得似一枝朱桔。三花喷火,五云拥月,上有金胎神室,洞房云雨正春风,十个月胎仙了毕。
Thước Kiều Tiên——— tặng Trập Hư Tử Sa Đạo Chiêu
Hồng Liên hàm nhụy, Lộ Châu ngưng biếc, bay vào Hoa Trì tí tách, vận về Kim Đỉnh gọi Đinh Công, luyện được như một quả Chu Quất. Tam Hoa phún Hỏa, Ngũ Vân ủng nguyệt, trên có Kim Đài Thần Thất, động phòng vân vũ chính xuân phong, mười tháng là Thai Tiên hoàn tất.

真珠簾———赠海南子白玉蟾
金丹大药人人有,要须是心传口授,一片白龙肝,一盏醍醐酒,只向离无寻坎有。移却南辰回北斗。好笑,见金公姹女,两个厮斗,些儿铅汞调匀。观汉月海潮,抽添火候。一箭透三关。方表神仙手。兔子方来乌处住,龟儿便把蛇吞了。知否,那两个钟吕,是吾师友。
Chân Châu liêm——— tặng Hải Nam Tử Bạch Ngọc Thiềm
Kim Đan Đại Dược người người có, cần phải là tâm truyền khẩu thụ, một miếng Bạch Long Can, một chén Đề Hồ Tửu, chỉ hướng Li vô tìm Khảm hữu. Dời lại Nam Thần về Bắc Đẩu. Cười vui thấy Kim Công Xá Nữ, hai người đấu nhau, một chút Diên Hống điều hòa. Xém trăng Hán hải triều, trừu thiêm Hỏa Hậu. Một mũi tên thấu Tam Quan, mới rõ tay của Thần Tiên. Thỏ kia mới tới chỗ quạ ở, rùa thì liền đem rắn nuốt đi. Biết không, hai vị Chung Lã đó chính là thầy và bạn ta.


Tên các châu của Trung Hoa xưa.

Thổ Khuê và Khắc Lậu đều là dụng cụ đếm thời gian.

Có sách cho đạo hoa đầu là quy đầu. Xem thêm Ngộ Chân Thiên.

Trở lại Mục Lục