尝 观张紫阳赠白鹿洞主之诗,有曰:“闻君知药已多年,何不修心炼汞铅?莫教灯被风吹灭,六道轮回难怨天。”余读至此,掩卷拊膺,喟然叹曰:紫阳之语,是为已 知药者发也。况懵然乎?故于昼三夜三,常以风灯为警。由是读金圈栗棘之书者十年,习金铅木汞之事者又十年,殆如嚼蜡。虽欲寻出生死一路,若蝇钻窗然,不觉 忽及出矣。及敬览《翠虚》之篇,复聆方外高士之至论,始知采时唤为药也,炼时唤为火也,结时谓之丹,养时谓之胎,其实一也。
Từng xem bài thơ Trương Tử Dương tặng Bạch Lộc động chủ, có nói:
- Nghe nói anh biết về Dược đã nhiều năm, sao không tu tâm luyện Hống Diên? Đừng để đèn bị gió thổi tắt, lục đạo luân hồi khó oán trời.
Ta đọc đến đây, gấp sách xoa ngực, bùi ngùi than rằng:
- Lời của Tử Dương, là vì người đã biết Dược mà phát ra. Huống gì không hiểu biết đây?
Nên ngày cũng như đêm, thường coi câu chuyện đèn và gió làm lời răn. Do vậy đọc các sách kim khuyên lật cức mười năm, tập việc Kim Diên Mộc Hống cũng mười năm, chán ngán vô vị. Tuy muốn tìm ra con đường sinh tử, như ruồi xuyên cửa sổ, bất giác lơ là muốn bỏ vậy. Đến lúc cẩn thận đọc duyệt thiên [Thúy Hư], lại được nghe chí luận của bậc phương ngoại cao sĩ, mới hay lúc thái gọi là Dược, lúc luyện gọi là Hỏa, lúc kết gọi là Đan, lúc dưỡng gọi là Thai, kì thực là một vậy.
所产之处曰川、源、山、海,所炼之器曰坛、炉、鼎、灶,所禀之性,故有汞、铅、水、火之名,所成之象,故有丹砂、玄珠之号。以今观之,惟一物也。良由古人 剖析真元,分别气类,所以有采取、交会、锻炼、沐浴之说。如《易》卦象,无出乎乾,周天星禽,无出乎斗,以抽添运用之细微,遂有斤两之论。但观天之月晕黑 白,察地之潮候消长,则可默会日中取时之意。于毫发之际无差殊,何患乎金翁不骑龙,姹女不御虎也?结丹头于片饷之间,产婴儿于十月之内,神凝气聚,身外有 身。此诚学仙之捷径,度世之妙道。其精微简要之语,尽在乎《翠虚》一篇。真息子王思诚,谨焚香稽首再拜序。
Chỗ sinh ra gọi là Xuyên, Nguyên, Sơn, Hải; cái để luyện gọi là Đàn, Lô, Đỉnh, Táo; theo tính chất bẩm thụ, nên có tên Hống, Diên, Thủy, Hỏa; theo hình tượng khi thành nên có tên là Đan Sa, Huyền Châu. Nay xem xét nó chỉ là một vật duy nhất. Thực do cổ nhân phân tích chân nguyên, phân biệt khí loại, vì thế có thuyết thái thủ, giao hội, rèn luyện, mộc dục. Như tượng quẻ của [Dịch], không gì hơn Càn; Chu Thiên Tinh Cầm, không ngoài sao Đẩu; theo cái tế vi của việc thêm bớt vận dụng, thì liền có luận về cân lạng. Chỉ xem ánh trăng trên trời đen hay trắng, xét thủy triều của đất tiêu hay trưởng, là có thể thầm hiểu cái ý trong ngày lấy giờ. Một chút thôi cũng không sai, thì lo gì Kim Ông không cưỡi Long, Xá Nữ không ngự Hổ? Trong chốc lát mà kết Đan, sản Anh Nhi trong mười tháng, Thần ngưng Khí tụ, thân ngoại hữu thân. Đây thực là đường tắt để học làm Tiên, là diệu đạo để độ thế. Những lời tinh vi giản yếu, toàn ở trong một thiên [Thúy Hư].
Chân Tức Tử Vương Tư Thành, cẩn thận đốt hương rập đầu lạy mà viết tựa. 大道歌 Đại Đạo ca
真阴真阳是真道,
Chân Âm Chân Dương là Chân Đạo,
只在眼前何远讨。
Chỉ ở trước mắt sao tìm xa.
凡流岁岁烧还丹,
Bọn phàm hàng năm đốt Hoàn Đan,
或见青黄自云好。
Hoặc thấy Thanh Hoàng tự nói tốt.
志士应愿承法则,
Chí sĩ ứng nguyện thừa phép tắc,
莫损心神须见道。
Không tốn tâm thần nhanh kiến Đạo.
但知求得真黄芽,
Chỉ biết cầu được Chân Hoàng Nha,
人得食之寿无老。
Người ăn được nó thọ không già.
黄芽不与世铅同,
Hoàng Nha chẳng giống với chì đen,
徒以劳身不见功。
Chỉ uổng mệt thân chẳng thành công.
虚度光阴空白首,
Phí hoài quang âm uổng bạc đầu,
何处悠悠访赤松?
Nơi nao lo lắng phỏng Xích Tùng?
神水华池世所希,
Thần Thủy Hoa Trì đời vốn hiếm,
流传不与俗人知。
Lưu truyền chẳng để người tục hay.
还将世上凡铅汞,
Còn đem Diên Hống phàm ở thế,
相似令人迷不知。
Giống như khiến người mê chẳng biết.
青龙逐虎虎随龙,
Thanh Long đuổi Hổ, Hổ theo Long,
赤禽交会声雍雍。
Xích Cầm giao hội tiếng ung ung.
调气运火逐禽宫,
Điều Khí vận Hỏa theo Cầm Cung,
丹砂入腹身冲冲。
Đan Sa vào bụng thân xung xung.
五行深妙义难知,
Ngũ Hành thâm diệu nghĩa khó hay,
龙虎隐藏在坎离。
Long Hổ ẩn tàng tại Khảm Li.
还丹之术过数百,
Thuật Hoàn Đan đó hơn trăm số,
最妙需得真华池。
Tối diệu cần đắc Chân Hoa Trì.
丹砂其位元非赤,
Vị trí Đan Sa nguyên chẳng Xích,
四季排来在南宅。
Bốn mùa đẩy tới tại nhà Nam.
流珠本性无定居,
Lưu Châu bản tính không định cư,
若识其原如秋石。
Nếu biết gốc nó như Thu Thạch.
日魂月华二气真,
Nhật Hồn Nguyệt Hoa hai Khí chân,
含胎育子自堪神。
Hàm Thai nuôi con tự tập trung.
变转欲终君自见,
Biến chuyển sắp xong anh tự thấy,
分明化作明窗尘。
Phân minh hóa thành minh song trần.
铅汞一门不可依,
Diên Hống một cửa không thể nhờ,
金丹秘诀圣无知。
Kim Đan bí quyết Thánh không hay.
莫将世人凡铅汞,
Đừng lấy Diên Hống của thế nhân,
论年运火共相持。
Luận năm vận Hỏa cùng giữ nhau.
天生二物应虚无,
Trời sinh hai vật ứng hư vô,
为妻为子复为夫。
Là mẹ là con lại là chồng.
三五之门为日月,
Cửa tam ngũ chính là Nhật Nguyệt,
能分卯酉别终初。
Biết phân Mão Dậu, biệt đầu cuối.
全养天然禀至神,
Dưỡng cả Chí Thần bẩm thiên nhiên,
冲和之气结成身。
Khí của xung hòa kết thành thân.
富贵只缘怀五彩,
Phú quý chỉ do hoài Ngũ Thải,
心知铅汞共成亲。
Tâm biết Diên Hống cùng thành thân.
乾坤不互相为避,
Càn Khôn không hỗ tương vì tránh,
采取元和在天地。
Thái thủ Nguyên Hòa tại đất trời.
十月养成子母分,
Mười tháng dưỡng thành mẹ con phân,
贤者何曾更运气。
Người hiền sao từng qua vận Khí.
玄黄溟溟不可辩,
Huyền Hoàng mờ mịt không thể biện,
铅汞之门义难显。
Then chốt Diên Hống nghĩa khó hiển.
世人不晓定其源,
Thế nhân không hiểu cố định nguồn,
细视五行定听见。
Xem kỹ Ngũ Hành định nghe thấy.
Kim khuyên: lồng vàng; lật cức: loại tre gai. Ý nói tu đến mức chọc thủng lồng vàng, nuốt lật cức mà không xước họng.
Thanh hoàng: xanh và vàng.
Cầm Cung - 禽宫: hơi khó hiểu, có thể là nhầm của chữ Li Cung - 离宫
Xích có lẽ là chỉ Xích Đạo.
Thu thạch: lấy thạch cao tẩm với đồng tiện chế thành. Ngoài ra đây là thuật ngữ của Đạo gia dưỡng sinh: Ngoại Đan thuật chỉ vật hình mầm cây sinh ra trong Đỉnh, Nội Đan thuật mượn để chỉ Dược Vật (Nguyên Thần, Nguyên Khí). Tham khảo thêm Chu Dịch Tham Đồng Khế.
Song trần: cửa sổ và hạt bụi. Minh song trần là thuật ngữ của đạo giáo, hình dung trạng thái của Đan Dược, như là cửa sổ mở ra, ánh sáng chiếu ta thấy hạt bụi bay. Xem thêm Tham Đồng Khế.