Thiền Theo Đức ĐÔNG PHƯƠNG

                 

THI

Tám mươi mốt nẻo vượt lần qua
Định TÁNH tu TÂM chế ngự tà
MỞ cửa THIÊN MÔN soi tội phước
Mới hay CỰC LẠC ấy quê nhà

Thiền theo Đức ĐÔNG PHƯƠNG CHƯỞNG QUẢN có hai cấp. Ở cấp I thì tập An Thần, Định Thần, Trụ Thần, Mở Khiếu Huyền Quang và Điều Tức. Ở cấp II thì tập Vận Chu Thiên.
ĐỆ NHẤT CẤP: Đợt I (Tập Trụ thần, Mở khiếu Huyền Quang và Điều Tức)
- Đệ Nhất Cửu = Tập AN THẦN
- Đệ Nhị Cửu = Tập ĐỊNH THẦN
- Đệ Tam Cửu = Tập TRỤ THẦN
- Đệ Tứ Cửu = Tập mở HUYỀN QUAN KHIẾU
- Đệ Ngũ Cửu = Tập ĐIỀU TỨC
- Đệ Lục Cửu ôn từ Đệ Nhứt đến Đệ Ngũ
       Mỗi ngày (4 thời) một pháp, thay đổi nhau.
- Đệ Thất Cửu = Tiếp tục tập ĐIỀU TỨC
- Đệ Bát Cửu = Tiếp tục tập ĐIỀU TỨC
- Đệ Cửu Cửu = ôn tập từ Đệ Nhứt đến Đệ Bát Cửu
       Mỗi ngày (4 thời) một pháp, thay đổi nhau.

ĐỆ NHỊ CẤP: Đợt II (Vận Châu Thiên)
- Đệ Nhứt Cửu = Tập vận chu thiên 36 vòng
- Đệ Nhị Cửu = Tập vận chu thiên 72 vòng
- Đệ Tam Cửu = Tập vận chu thiên 144 vòng
- Đệ Tứ Cửu = Tập vận chu thiên = 288 vòng
- Đệ Ngũ Cửu = Tập vận chu thiên = vòng
- Đệ Lục Cửu đến Đệ Cửu Cửu = Vận chu thiên 360 vòng.

* ĐIỀU KIỆN: Người tu Thiền theo phương pháp nầy phải hội các điều kiện sau đây:
1. Chánh thức nhập môn và lập thệ tại một Thánh Thất.
2. Giữ ngũ giới cấm và tứ đại điều qui.
3. Ăn chay ít nhất là 10 ngày.
4. Bớt lần việc thế, đoạn lần Thất tình, Lục dục, Tam độc (Tham, Sân, Si) cho đến khi Tâm không

(không Lục Dục, Thất tình) .

* CHỈ TỊNH LUYỆN MỘT PHƯƠNG PHÁP:
Tu thiền theo nhiều pháp sẽ làm hại sức khỏe, có khi hại mạng, nên chọn một phương pháp mà thôi. Phương pháp tu thiền này là của Đức Đông Phương Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài giáng điển khẩu truyền cho nam nữ Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Việt Nam ngày 1 tháng 5 Bính Ngọ (1966). Tín đồ nào muốn thọ pháp này phải bạch cầu xin Đức Tôn Sư Đông Phương chấp thuận mới được.

* TỊNH LUYỆN NHIỀU ĐỢT VÀ ĐÚNG GIỜ:
Mỗi đợt gọi là Cửu Cửu gồm 9 x 9 = 81 ngày. Mỗi ngày luyện theo tứ thời: TÝ (12 giờ đêm), NGỌ (12 giờ trưa), MẸO (6 giờ sáng), DẬU (6 giờ chiều).

Tịnh luyện phải đúng giờ và có ăn chay 10 ngày trở lên mới được .
ĐỆ NHỨT CẤP hay Đợt I
TỊNH ĐỊNH TRỤ THẦN.

I. Đệ Nhút Cửu = Tập AN THẨN
1. Cách Ngồi:

       * Ngồi mặt ngó hướng Đông Nam.
       * Ngồi trên chiếu, gạch hay ván đừng ngồi trên nệm gòn nóng, bịt hơi, phải ngồi trên vật thông hơi).
       * Ngồi bán hay kiết già gót MẶT để ngay dưới rún, cách rún 1 tấc 2 phân là huyệt Tinh Hải (Prostate), gót trái để lên trên gót mặt. Thúc gót sát bụng. Hai bàn chân để lọt vô 2 kẽ ngay đầu gối.
       * Lưng: thẳng như cây thước, đầu ngay ngắn, cặp mắt mở hí hí dòm xuống hướng chót mũi.
       * Tay: Bàn tay trái bắt ấn Tý, rồi nắm lại, bàn tay mặt bao bên ngoài với ngón cái bấm vào chân ngón trỏ của bàn tay trái.
+ Xá và niệm:
“Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (3 lần).
“Nam Mô Đông Phương Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài” (3 lần).
              + Rồi bàn tay trái lật ngửa, để lên trên bàn tay mặt cũng lật ngửa. Hai bàn tay đều bắt ấn Tý. Hai cánh tay cặp sát bên hông.

2. Niệm chú:
       * Đọc bài Kim Quang Chú (3 lần).
Bài KIM QUANG CHÚ gồm có 14 hàng, 114 chữ ca tụng oai lực của Thần Kim Quang và câu xin Thần hộ mạng và gìn giữ Chơn Thần để trong khi Thiền Định khỏi bị khuấy rối.

3. Vẽ bùa Tam Thiên:
       * Nhằm để trấn Thần hầu khỏi bị phá rối khi Thiền Định. Nín thở định thần, lấy ngón tay giữa của ban tay mặt vẽ ngay trước tam tinh bùa TAM THIÊN. Mỗi khi vẽ xong một nét thì niệm một chữ của danh Thầy: Nam Mô Cao Đài Tiên ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát (là vẽ xong ba chữ Thiên).

4. Niệm Lục Tự Chôn Ngôn: (3 lần).
       * Án Ma Ni Bát Rị Hồng.

5. HÔ HẤP:
* Chuẩn bị
- Miệng ngậm, răng khít.
- Mắt mở hí hí, nhìn hướng chót mũi.
- Tưởng đến Đức Đại Từ Phụ và Đức Diêu Trì Kim Mẫu.
- Giữ tâm không (không tạp niệm, vọng niệm).
       * Cách thở:
- Tập thở đều, nhẹ, dài không mau không chậm.
- Hít hơi vô chậm rãi từ mũi tới rún và niệm thầm: “NAM MÔ CAO hay NAM MÔ A”.
- Thở hơi ra chậm rãi từ rún đến mũi và niệm thầm: “ĐÀI TIÊN ÔNG hay DI ĐÀ PHẬT”.
Làm như vậy ba lần để điều hòa hơi thở.
- Tiếp tục thở như vậy và để tâm không. Nếu phóng tâm (tự nhiên nghĩ đến một việc gì hay người nào) thì phải thở và niệm trở lại như trên. Mỗi lần tập thở để AN THẦN là 15 phút rồi lần lần tiến lên nửa giờ cho mỗi thời Tịnh trong suốt 9 ngày.

II. Đệ Nhị Cửu = Tập ĐỊNH THẨN
Tọa thiền 5 phút tức là ngồi yên thở nhẹ dài và sâu. Tịnh AN THẦN (như Đệ Nhứt Cửu) lần lần đến chỗ ĐỊNH THẦN nhờ THẦN AN ĐƯỢC LÂU. Mỗi thời định là từ nửa giờ đến một giờ trong suốt 9 ngày.

III. Đệ Tam Cửu = Tập TRỤ THẨN
       * Ngồi tọa Thiền như trước, mặt ngó hướng Đông Nam.
       * Trước mặt để 1 cái Thiên Nhãn nhỏ ngang tầm mắt (không vẽ bùa TAM THIÊN, không đọc chú Lục Tự Chôn Ngôn).
       * Đọc Kim Quang Chú (3 lần).
       * Đọc chú Định Tâm (3 lần).
Chú Định Tâm gồm có 4 câu 28 chữ, cầu nguyện các đấng Thiêng Liêng phò hộ độ trì cho việc luyện Đạo có kết quả.
       * Hai mắt ngó vào Thiên Nhãn rán đừng nháy mắt. Ban đầu 15  phút sau lần đến nửa giờ.
       * NGÓ BÌNH THƯỜNG đừng tập trung hay ngước mắt lên mà hại mắt, cũng đừng ngó xuống e buồn ngủ. Nếu mỏi mắt quá thì nháy 1 cái, rồi tiếp tục ngó vào Thiên Nhãn.

IV. Đệ Tứ Cửu = Tập mở HUYỀN QUANG KHIẾU
       * Ngồi bán hay kiết già
       * Đọc chú KIM QUANG (3 lần).
       * Đọc chú ĐỊNH TÂM (3 lần).
       * Đọc xong, ngồi thẳng lưng, đầu ngay ngắn.
       * Đoạn tam nghiệp: Nhắm mắt, đừng nghe (như bịt lỗ tai vậy),

miệng ngậm răng khít đầu lưỡi chạm ổ gà.
       * Tay giữ ấn: Hai bàn tay lật ngửa đặt sát bụng, cùng bắt ấn Tý. Bàn tay trái đặt trên bàn tay mặt. Hai cánh tay cặp sát bên hông.
       * Gom thần, trụ ý tại Hà Đào Thành ở tại đỉnh đầu hai ngay xoáy giữa,

trong khi đó thở nhẹ, đều, dài và sâu .
       * Mỗi thời tịnh 15 phút, lần lần nửa giờ. Nếu nghe đầu nặng hay nhức đầu thì lấy 2 bàn tay vuốt từ trán lên xoáy cho tới ót nhiều lần thì hết.

V. Đệ Ngũ Cửu = Tập ĐIỀU TỨC
       * Tĩnh tọa như trước.
       * Đọc chú KIM QUANG (3 lần) và chú ĐỊNH TÂM (3 lần).
       * Ngồi thật thẳng lưng, nới lỏng lưng quần, mặc áo rộng để máu dễ lưu thông.
       * Đoạn tam nghiệp: Nhắm mắt, đừng nghe, miệng ngậm răng khít, đầu lưỡi chạm ổ gà.
       * Thở thật nhẹ, đều, dài và sâu đúng 36 lần. Hít vô và thở ra thì tính là một. Mỗi lần hít vô thì nhíu hậu môn rồi mới thở ra. Muốn thở nhiều hơn 36 lần cũng được.

VI. Đệ Lục Cửu = Ôn Tập
       * Ôn lại các pháp từ Đệ Nhứt Cửu đến Đệ Ngũ Cửu.
       * Mỗi ngày luyện một pháp, luân phiên đủ 9 ngày.

VII. Đệ Thất Cửu = Tiếp tục ĐIỀU TỨC
* Tĩnh tọa
       * Đọc chú KIM QUANG (3 lần) và chú ĐỊNH TÂM (3 lần).
       * Mắt nhìn hướng chót mũi, tay giữ ấn và đoạn tam nghiệp.
       * Thở thật đều và nhẹ, mỗi lần hít vô thì nhớ nhíu hậu môn rồi mới thở ra. Hô hấp cho được 72 lần trong 3 phút tức là 1 phút 24 lần. (Một người mạnh khỏe bình thường có nhịp thở từ 10-24 nhịp 1 phút).

VIII. Đệ Bát Cửu = Tiếp tục ĐIỀU TỨC
       * Làm y như trước nhưng HÔ Hấp tăng lên cho đủ 108 lần, mỗi phút 24 lần.
IX. Đệ Cửu Cửu = Ôn tập từ đầu đến chót
       * Mỗi ngày (4 thời) luyện một pháp.

ĐỆ NHỊ CẤP hay ĐỢT II
Tập vận Chu Thiên

* Điều kiện: Trường chay. (Nếu thập Trai thì chỉ TỊNH, ĐỊNH, TRỤ THẦN)
Công phu là để tu tập cho sự tiến hóa của CHƠN THẦN, gìn giữ cho TÁNH MẠNG nên mỗi khi đến giờ công phu, người tu tịnh phải tịnh định 15 phút để cho CHỦ NHÂN ÔNG phát hiện hầu chữa trị các TÀ DỤC để duy trì CHÁNH TÍN, khỏi bị sa ngã lầm lạc. Có như vậy thì Chánh Đạo mới có thể sáng tỏ được. Còn về căn bịnh thì là việc bình thường đừng lo sợ mà căn bịnh phát tác Người tu tịnh cần nhớ: Bốn mùa tuy có phân định nhưng cũng còn bất trắc phong vân thì tấm thân tứ đại làm sao mà khỏi họa phước.

I. Đệ Nhất Cửu: Tập vận CHU THIÊN 36 VÒNG.
1. Tọa thiền.
2. Tịnh Hư Vô 15 phút.
       (1. và 2.: Tâm yên, trí lặng, vạn duyên đốn tuyệt, ngũ quan bế, hít thở thật nhẹ,

chậm rãi, liên tục dài và sâu).
3. Hai bàn tay lật ngửa đặt sát bụng cùng bắt ấn Tý. Bàn tay trái đặt trên bàn tay mặt.
4. Đọc KIM QUANG CHÚ (3 lần).
5. Vừa NÍN THỞ vừa NIỆM DANH THẦY, vừa tưởng tượng lấy ngón tay giữa của bàn tay mặt họa

PHÙ TAM THIÊN ở trước mặt.
6. Cong lưỡi lên ổ gà, miệng ngậm răng khít, mắt nhìn hướng chót mũi.
7. Vận CHÂU THIÊN: Hít Vô nhẹ và dài, dùng tư tưởng đưa hơi thở từ HUYỀN QUANG KHIẾU theo mạch NHÂM (ở trước ngực) -> đến Rún -> HẬU MÔN hay HẠ THƯỚC KIỀU (nhíu hậu môn kẻo hơi thở theo hậu môn vọt thẳng ra ngoài thì hỏng) -> chuyển đến huyệt VĨ LƯ, nín hơi một cái, rồi từ từ thở ra cũng nhè nhẹ theo đường xương sống (mạch Đốc) ->

đến NÊ HƯỜN CUNG -> HUYỀN QUANG KHIẾU.
Đó là một vòng châu thiên. Thực hiện 36 vòng Châu Thiên mới nghỉ. Nhớ hít vô bao nhiêu thì thở ra cho thiệt hết nếu không bụng sẽ càng ngày càng lớn.
8. XẢ: xoa hai tay nóng rồi úp lên mặt và bụng.
9. Nằm theo ngủ pháp.

II. Đệ Nhị Cửu:
Tập vận Có THIÊN 72 vòng. Từ Đệ Nhị đến Đệ Cửu, dẫn hơi thở chạy đều không ngừng đâu hết.

III. Đệ Tam Cửu:
Tập vận CHU THIÊN 144 vòng.

IV. Đệ Tứ Cửu:
Tập vận CHU THIÊN 288 vòng.

V. Đệ Ngũ Cửu:
Tập vận CHU THIÊN 360 vòng.

VI. - IX. Đệ Lục Cửu đến Đệ Cửu Cửu:
Vẫn tập vận CHU THIÊN 360 vòng.

Khi đã vận chu thiên thì nên vận liên tục, tứ thời càng tốt, vì ngưng vận thì KHÍ tan.
Đức ĐÔNG PHƯƠNG CHƯỞNG QUẢN có dặn: Phải bền chí luyện Tứ Thời liên tục thì sẽ thấy hiệu nghiệm và huyền diệu.
TÍ: Tấn dương hỏa hay thu lấy khí Dương đang phát triển trong vũ trụ.
NGỌ: Thối âm phù hay thu lấy khí âm đang lên mà giảm khí âm trong cơ thể vì cực âm thì sinh Dương.
MẸO, DẬU: Giờ Mộc Dục nghĩa là Đại Tịnh để lóng được lưu thanh,

kiểm điểm sám hối để giảm bớt dục niệm.
Chánh pháp là TỊNH TÂM. TÂM TỊNH thì nhơn dục sẽ lặng yên và lý Đạo sẽ thông suốt. Khi TÂM ĐỊNH thì THẦN TRỤ và sẽ có ẤN CHỨNG: Đó là thất tình lục dục giảm lần hoặc uế trược châu thân bị tẩy trừ, chân khí trở nên thanh thuần nên rất sáng suốt. Bước vào Đệ Nhị Cấp thì có thể bảo vệ châu thân chống được độc khí lan tràn và hòa nhập với vũ trụ. Muốn ĐỊNH TÂM thì người tu tịnh phải TÁNH MẠNG SONG TU nghĩa là TU TÁNH và LUYỆN MẠNG.
- TU TÁNH: tức là sửa những tánh xấu, những tánh làm phiền người và làm khổ mình như sửa tánh độc tài thành tánh dung hòa tức là biết lắng nghe ý kiến của người khác, sửa tánh vụn vặt bươi móc thành tánh bao dung và tha thứ, sửa tánh ích kỷ thành tánh vị tha, sửa tánh cố chấp thành tánh hỉ xả...
"Những tánh xấu thường do nhơn dục sanh ra mà bổn tánh của con người ở phía sau nhơn dục. Cho nên kẻ học Đạo muốn giác ngộ bổn tánh thì phải hồi hướng về nội giới, vượt qua những hình danh, sắc tướng, phiền não, vượt qua và vượt qua mãi đến cõi lòng chưa phát động thì sẽ thấy được bổn tánh...”
- LUYỆN MẠNG: là rèn luyện bổn mạng tức là bản thân để có một đời sống lành mạnh và đạo đức. Hằng ngày nghiêm túc gìn giữ giới luật để định Ý và kềm TÂM.
Tánh Mạng song tu có khó chi
Tâm phàm Tịnh, Định lố huyền vi
Nhãn quan, Nhĩ thính khai Trung Phủ
Sẽ thấy trường sanh chẳng hạn kỳ...”

Đức ĐÔNG PHƯƠNG CHƯỞNG QUẢN

Trở lại trang chánh

Thư Viện 1      4   5